• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Từ nước mắt đến nụ cười
  3. Trang 8

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 18
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 18
  • Sau

BaChống lại sự tê dại

Tuy có vẻ hoang mang nhưng người phụ nữ trẻ đáng yêu ngồi trước mặt tôi là người đang tìm kiếm câu trả lời. Miranda bị chẩn đoán mắc chứng trầm cảm và đang dùng nhiều loại thuốc cùng lúc. Tôi nhờ em chia sẻ một chút câu chuyện của mình để tôi có thể hiểu được lý do.

Nghe câu chuyện của Miranda, tôi thấy được hình ảnh của rất nhiều người tuổi đôi mươi đang vật lộn gắng hiểu mình là ai. Tôi không nói Miranda có một tuổi thơ tuyệt vời, nhưng cũng không thấy bất kỳ dấu hiệu nào có vẻ đặc biệt kỳ lạ. Vậy nên tôi đã bị sốc vì chẩn đoán tâm thần của em. Em bị quy cho nhiều loại trầm cảm, và trên hết là chứng rối loạn lo âu.

Tôi đã phải hỏi thêm để xem liệu có còn sót vấn đề nghiêm trọng nào hay không. Em nói thêm về một số vấn đề gia đình, nhưng vẫn không có gì nghe quá bất thường hoặc không thể vượt qua.

Tôi đã nghe thấy gì khi lắng nghe cô gái trẻ này? Tôi thấy một cô gái đang cố gắng một cách tuyệt vọng để trưởng thành, cố luận ra cuộc sống của mình, luận ra mình phải làm gì với nó, và đâu là vị trí của mình trong vũ trụ.

Trưởng thành nào đâu dễ, khẳng định mình lại càng khó khăn; công trình biến đổi bản thân này có thể là một trong những phần việc khó khăn nhất chúng ta phải làm. Nhưng đó không phải là việc có thể lảng tránh. Ở Miranda, tôi thấy một người bị khủng hoảng tinh thần, chắc chắn rồi, nhưng không phải ai bị khủng hoảng tinh thần cũng đều đáng bị coi là “rối loạn”. Đôi khi nỗi buồn chỉ bình thường như cân đường hộp sữa thôi mà.

Thế nên tôi rất ngạc nhiên khi các bác sĩ của em bảo rằng em cần chuẩn bị tinh thần sẽ phải dùng thuốc trong suốt quãng đời còn lại. Tôi không tin nổi. Hơn 30 năm qua, tôi đã vinh hạnh có cơ hội tư vấn cho những người phải trải qua những hoàn cảnh bị tổn thương cực kỳ, nghiêm trọng. Quá trình chữa lành của một số người cần được hỗ trợ thêm bằng thuốc, một số thì không. Nhưng vài năm qua, mọi chuyện đã thay đổi. Sau này, tôi gặp nhiều người tuy vấn đề không quá sức nghiêm trọng nhưng đã bị kê đơn thuốc và thậm chí còn bị bác sĩ và chuyên viên trị liệu nói rằng họ có thể phải dùng thuốc trong tương lai thấy trước, nếu không muốn nói là mãi mãi.

Làm người đâu phải là một chứng bệnh. Trong cuộc đời của một con người chắc chắn sẽ có đầy những thử nghiệm, điều đó là chắc chắn, và đôi khi những thử nghiệm đó đầy đau đớn. Nhưng áp dụng phương pháp thử phản xạ giật gân khớp gối cho nỗi đau cảm xúc ư? Một kiểu hành xử thật sự ngớ ngẩn đối với trải nghiệm làm người.

Đau đớn và buồn bã có thể là một phần của quá trình biến đổi, không nên mặc định coi quá trình này là tiêu cực. Những cảm xúc khó khăn đôi khi là phù hợp; đó có thể chính xác là những gì chúng ta cần trải qua để thực sự được chữa lành, để phát triển và vượt qua cùng những bài học ý nghĩa.

Tôi nói điều này không hề có ý coi nhẹ, giảm thiểu nỗi đau về mặt cảm xúc, hoặc nghi ngờ tác động làm suy yếu của nó. Nhưng có nhiều cách khác nhau để giải thích nguồn gốc của trầm cảm, ý nghĩa của nó và cách tốt nhất để đối phó với nó. Nhìn qua lăng kính tinh thần, trầm cảm là kết quả không thể tránh khỏi khi chúng ta tách mình khỏi phần còn lại của vũ trụ. Đó là một cuộc khủng hoảng của tâm hồn.

Vâng, quả đúng là đau đớn khi phải đối mặt với cuộc sống – nhớ lại thời thơ ấu và nhận ra chúng khác như thế nào so với đáng lý ra nên thế; trải nghiệm sự phản bội của bạn bè hay người thân yêu nào đó; rút ngắn khoảng cách giữa việc chúng ta đã hành xử thế nào trong những tình huống nhất định và cách chúng ta sau đó cảm thấy mình lẽ ra nên làm; tồn tại được sau khi mất đi công việc có ý nghĩa và các mối quan hệ yêu thương; chịu đựng việc người yêu hay bạn đời của mình bỏ đi; đau buồn về cái chết của những người hằng yêu dấu, vân vân.

Sự đau khổ ấy không thể được biến đổi bằng cách lảng tránh hoặc làm cho tê dại đi. Nó chỉ có thể biến đổi khi chúng ta chấp nhận nó một cách trọn vẹn, phó thác tâm trí mình cho tiến trình kỳ diệu để nhờ đó khai phá bản thân và khai sáng nổi lên từ bóng tối đau khổ.

Khi lắng nghe Miranda, tôi nhận ra rằng chưa từng có ai đề nghị bất kỳ điều gì như vậy với em. Em chưa bao giờ được cho bất kỳ một lý do thực sự nào để hy vọng rằng mình còn có thể sống mà không cần sự can thiệp của y tế. Em được “dạy” để xem mình là nạn nhân. Xem nỗi buồn sâu sắc như một căn bệnh, và do đó là điều luôn luôn phải tránh, là một cách xảo quyệt để cố gắng tránh né điều chúng ta cần giải quyết nhất. Khi chúng ta buồn, nhiệm vụ của chúng ta là giải quyết nguyên do của nỗi buồn – chứ không chỉ bản thân nỗi buồn. Tôi không thấy Miranda bị bệnh tật gì cả, tôi chỉ thấy em đang tìm kiếm mà thôi.

Việc hạ thấp sự trầm cảm xuống thành nguyên nhân hóa học trong não đơn thuần hoặc quy cho các động lực tâm lý là đã cướp đi ý nghĩa sâu xa hơn của nó và do đó, cả khả năng cứu vãn chữa lành. Có một thuật giả kim biến đổi cho hành trình thoát khỏi khổ đau, đôi khi được mô tả mạnh mẽ về mặt tinh thần hơn là về mặt trị liệu tâm lý hoặc sinh học. Dịch bệnh trầm cảm mà chúng ta đang thấy ngày nay nên được nhìn nhận đúng bản chất của nó: một tiếng kêu chung đòi chữa lành cho trái tim.

CHO PHÉP ĐƯỢC BUỒN

Nhiều năm trước, tôi chính là Miranda. Tôi hoang mang, lạc lối, và đau đớn khủng khiếp. Tôi không thể tưởng tượng được giờ này mình ở đâu nữa nếu các chuyên gia đã giúp tôi vượt qua khó khăn nói rằng tôi bị tổn thương vĩnh viễn, chứ không phải đơn giản là đang trải qua một giai đoạn rất khó khăn. Tôi từng trải qua một năm trong nước mắt, nhưng không ai quy chụp tôi điều gì có thể làm thay đổi nhận thức của tôi mãi mãi.

Thực tế là vào thời điểm đó, một người bạn đã nói với tôi rằng: “Bây giờ thì bạn không tin đâu, Marianne, nhưng một ngày nào đó bạn sẽ nhìn lại và thấy đây là một năm tốt đẹp”. Tôi không bao giờ quên câu nói đó, bởi vì sau nhiều năm, tôi đã thấy bạn tôi nói thật. Bây giờ tôi thấy khoảng thời gian đó là một phần đau đớn nhưng cần thiết trên hành trình để mình trưởng thành. Trầm cảm có thể là một sự khởi đầu thiêng liêng dẫn vào hành trình giác ngộ.

Tôi luôn cảm thấy khoảng thời gian khó khăn đó trong đời là khi tôi “người” nhất. Nó khơi dậy trong tôi một nhận thức cao hơn về nỗi đau của người khác theo cách mà tôi chưa từng nhận ra. Khi những mảnh vỡ tâm lý của tôi dần được ghép lại, tôi bắt đầu tự hỏi liệu những người khác có phải khổ sở nhiều như tôi không, có ai khác cũng cảm thấy đau đớn như vậy không.

Và tôi nhận ra rất rõ ràng là, có, tất nhiên là có chứ. Ai cũng khổ cả. Chỉ là tôi đã quá mải bận tâm đến bản thân nên không nhận ra mà thôi. Chưa bao giờ cảm nhận nỗi đau ở mức độ như vậy, tôi đã chưa từng biết đau khổ thực sự nghĩa là gì, cũng không bao giờ nghĩ rằng người khác cũng cảm thấy như vậy. Và khi bạn nhận ra rằng nếu những người khác phải chịu khổ, dù chỉ bằng một phần nhỏ của bạn, thì họ cũng xứng đáng với tất cả lòng trắc ẩn mà bạn có thể cho họ và tất cả những nỗ lực bạn có thể làm để giúp họ giảm bớt nỗi đau.

Sự đau khổ như vậy, với tất cả chúng ta, là kết quả của một vết rạn cùng khổ giữa một cuộc sống của tình yêu và cuộc sống như chúng ta đã tạo ra. Sự vi phạm đó là nguyên nhân của mọi đau khổ, nên kết thúc nó cũng là kết thúc mọi nỗi đau. Vết rạn giữa chúng ta và Chúa Trời, và giữa chúng ta với nhau, là một. Kết thúc cái này cũng kết thúc cái kia. Và học cách làm điều ấy là một hành trình tâm linh.

Hành trình này là một con đường tự khai phá và phát huy bản thân. Khi can đảm đối mặt với nỗi đau của chính mình – để chịu đựng nó, học hỏi từ nó, xử lý nó, vượt qua nó – chúng ta thường tìm thấy chìa khóa để sống cuộc đời của mình theo cách mạnh mẽ nhất. Cũng giống như người ta phải luyện để thành thạo cách chơi đàn piano hoặc bất kỳ kỹ năng nào, ta phải học để thành thạo cách sống sao cho tốt. Và việc học cách điều hướng những khoảnh khắc hỗn loạn nhất của cuộc sống chỉ đơn giản là một phần của hành trình này. Thuốc đắng dã tật, từ nỗi buồn của mình, chúng ta thường có thể đạt được những hiểu biết sâu sắc kỳ diệu.

THUỐC VÀ HÀNH TRÌNH TÂM LINH

Đau đớn về cảm xúc không chỉ là vấn đề tâm lý, nó là một vấn đề tinh thần. Trầm cảm có khi là bệnh của não bộ, có khi không, nhưng nó chắc chắn là một căn bệnh của tâm hồn. Đó không phải là thứ có thể đơn giản đem đùn cho các chuyên gia y học hoặc trị liệu truyền thống xử lý, bởi làm sao người không thừa nhận linh hồn lại có thể chữa lành nó được?

Linh hồn, về lý thuyết mà nói, nằm trong phạm vi chăm sóc của tôn giáo. Nhưng trong xã hội ngày nay không còn mấy người tìm đến tôn giáo để thực sự được chữa lành nỗi tuyệt vọng. Cũng dễ hiểu thôi. Tôn giáo có tổ chức đã từ bỏ vai trò an ủi tinh thần, nếu không bởi sự bất lương của chính nó thì ít nhất cũng bởi sự phân ly khỏi cái hồn trong cốt lõi sứ mệnh của nó.

Tâm lý trị liệu hiện đại đã vào cuộc, nhưng cũng thất bại, bởi không thừa nhận phần việc cần thiết phải làm với linh hồn để chữa lành nỗi đau cảm xúc. Nghề trị liệu tâm lý giờ hướng sang ngành dược để tìm cách bù đắp cho sự thiếu hiệu quả thường xuyên của nó, tuy nhiên ngành dược chẳng thể làm gì nhiều hơn là làm tê dại nỗi buồn của chúng ta.

Trong vài năm qua, ngành y đã chiếm lấy đề tài trầm cảm, cố tình tách biệt “buồn” với “trầm cảm” theo cái cách mà người được hưởng lợi không ai khác là ngành công nghiệp dược phẩm. Ranh giới rõ ràng ngăn cách hai khái niệm này được dựng lên nhằm mục đích thao túng, để bán thuốc nhiều hơn là điều trị vấn đề. Người ta đang nói về “trầm cảm bệnh lý” như thể có thể một xét nghiệm máu để xác định bệnh, trong khi thực tế hoàn toàn không có chuyện như vậy. Sàng lọc số lượng trầm cảm bệnh lý chỉ là để hoàn thành bản điều tra mà thôi.

Vâng, đúng là đôi khi người ta cần tìm kiếm bất kỳ sự giúp đỡ nào có thể nhận được, dược phẩm hoặc bất kỳ cách nào khác. Và việc điều trị một số bệnh tâm thần – rối loạn lưỡng cực và tâm thần phân liệt – bằng thuốc trị liệu tâm lý có thể cứu mạng người. Nhưng dù thuốc trị liệu tâm lý có thể được coi là một chế độ tích cực, thậm chí là chế độ điều trị cứu sống người trong một số trường hợp, thì việc sử dụng thuốc chống trầm cảm tùy tiện ngày nay có thể gọi là một dịch bệnh.

Theo nhiều chuyên gia, trầm cảm bệnh lý đang bị chẩn đoán quá mức và điều trị quá mức. Người ta bị kê cho thuốc chống trầm cảm – và có được chúng một cách dễ dàng – như thể uống thuốc cũng chỉ như ăn một túi kẹo mà thôi. Hàng trăm ngàn người chỉ cần một hoặc hai lần đề cập với bác sĩ rằng vừa phải trải qua khoảng thời gian khó khăn thôi là đã thấy có đơn thuốc nhét vào tay mình.

“Có lẽ bạn nên dùng thuốc” đã trở thành gợi ý bình thường nhất, mà không cần bất kỳ cuộc trò chuyện nghiêm túc nào về ý nghĩa thực sự của vấn đề. Gợi ý này đến từ các bác sĩ, ừ thì thế, nhưng còn cả từ những người thân, bạn bè lo lắng cho ta, và cả từ quảng cáo truyền thông. Dường như ta đang bị nhồi nhét từ mọi hướng cái ý tưởng có thể sống hạnh phúc hơn nhờ vào hóa học.

Không phải ai trải qua khoảng thời gian khó khăn – dù rất khó khăn đi nữa – cũng đều bị bệnh tâm thần. Dĩ nhiên không nên coi nhẹ, giảm thiểu các vấn đề về sức khỏe tâm thần, nhưng quan trọng không kém là không nên bất thường hóa những nỗi khổ bình thường của con người. Cuộc sống này có thể không hề dễ dàng. Trưởng thành không hề dễ dàng, nhưng nó không phải là bệnh tâm thần. Ly hôn không hề dễ dàng, nhưng nó không phải là bệnh tâm thần. Đau buồn trước cái chết của người thân yêu không hề dễ dàng, nhưng nó không phải là một bệnh tâm thần. Nếu điều gì cũng bị coi là bệnh tâm thần thì mọi nỗi đau sâu sắc đều là bệnh tâm thần hết cả.

Một số người cho rằng nghi ngờ việc sử dụng thuốc chống trầm cảm là không nhạy cảm đối với các vấn đề sức khỏe tâm thần và thậm chí là ngu dốt vì không biết loại thuốc này cần thiết để giúp giảm nguy cơ tự tử ra sao. Tuy nhiên, rất nhiều người dùng thuốc chống trầm cảm đã tự tử, và trong một số trường hợp –đặc biệt là ở thanh thiếu niên – thuốc chống trầm cảm có thể làm tăng nguy cơ tự tử hơn là giảm.

Tôi thường nghe một điệp khúc phổ biến: “Trầm cảm là một sự mất cân bằng hóa học”. Và thường kèm theo gợi ý: Bởi là một tình trạng liên quan đến hóa học nên trầm cảm buộc phải dùng thuốc điều trị – dù ta có thể đặt câu hỏi ai là người đang đưa ra quy định bắt buộc đó. Các bác sĩ chuyên khoa ung thư không dùng từ “bắt buộc” cho việc hóa trị, ngay cả khi họ nói đó là liệu trình điều trị khuyến nghị. Có thể đúng là trầm cảm thường đi kèm với những thay đổi hóa học trong não, nhưng không nên tự động coi đó như một lý do cho sự can thiệp của dược phẩm. Tình yêu, sự tha thứ, lòng trắc ẩn và lời cầu nguyện cũng gây ra những thay đổi về sinh lý. Thí dụ như thiền cũng được chứng minh là làm thay đổi hoạt động của hệ thần kinh và sóng não. Việc mặc nhiên cho rằng thuốc là cần thiết để điều trị trầm cảm đang bắt đầu bị dội lại – nó đáng bị như thế.

Lòng trắc ẩn giả tạo của các chiến dịch quảng cáo trị giá hàng tỷ đô-la – xin nhắc bạn, không chỉ cho một loại thuốc chống trầm cảm, mà còn cả loại thứ hai bạn nên dùng sau loại đầu tiên kia nữa (và đó là chưa nói đến những rủi ro nho nhỏ, như suy gan!) – là đủ để báo động cho mọi người không nên lạm dụng thuốc chống trầm cảm. Ví dụ, Abilify (aripiprazole) – một trong những loại thuốc kê toa hiện bán chạy nhất ở Hoa Kỳ – được phân loại là thuốc chống loạn thần. Các công ty dược phẩm đang tiếp thị cho đại đa số người dân loại thuốc mà về mặt lý thuyết chỉ nên dành cho một phần rất nhỏ những người mắc bệnh tâm thần nghiêm trọng.

Trong vài thập niên qua, việc sử dụng thuốc chống trầm cảm đã tăng vọt, đặc biệt ở những người chưa bao giờ thực sự bị chẩn đoán mắc rối loạn tâm thần nghiêm trọng. Chúng ta đang ngày càng bị tê dại về mặt tâm lý trong khi lẽ ra nên tỉnh thức.

Tổ hợp công nghiệp dược phẩm – tâm lý trị liệu giờ đây đã trở thành một nhóm công ty thuốc tinh vi, biến sự khổ sở của con người thành món lợi nhuận nhiều tỷ đô-la. Hôm nay tâm trạng của bạn thất thường ư? Đây, chất ổn định tâm trạng đây. Bạn không ngủ được ư? Chắc bạn bị trầm cảm đấy, hãy thử dùng thuốc đi. Mẹ bạn mất ư? Tạm thời hãy tăng liều lên gấp đôi đi. Và màn chào mời có thể nói là tồi tệ nhất đang đội lốt hữu ích, và áp vào cuộc sống của giới trẻ chúng ta một cách đặc biệt vô trách nhiệm là: Bạn nên chuẩn bị tinh thần dùng thuốc đến hết đời.

Xu hướng dễ dàng tìm đến thuốc để ngăn nước mắt rơi là có hại cả về sức khỏe tâm lý và tinh thần. Đó là sự tránh né mà xã hội đang hướng đến và khiến chúng ta bị trừng phạt, khiến chúng ta bị non nớt về cảm xúc, thiếu trưởng thành và thiếu các kỹ năng cần thiết để đương đầu hiệu quả với các vấn đề quan trọng của cuộc sống trưởng thành. Nó cản trở chúng ta phát triển khả năng nhận thức sâu sắc, khả năng nhìn nhận và khả năng thấu hiểu thật sự. Quan trọng nhất, khi tự tách khỏi nỗi đau của chính mình, chúng ta cũng tê liệt với nỗi đau của người khác; tôi đã tê liệt với nỗi đau của chính mình thì nhiều khả năng tôi cũng tê liệt với nỗi đau của bạn. Và điều đó rồi thì sẽ gây ra thêm đau đớn.

Một lời biện minh phổ biến cho việc sử dụng thuốc chống trầm cảm tùy tiện là “nó giúp dễ chịu hơn”. Nhưng thường thì chịu đựng sự khó chịu cho đến khi vượt qua được nó mới là việc nên làm. Ngày nay, nhiều người sử dụng thuốc chống trầm cảm, với những ai nó thật sự giúp ích được, tôi rất vui mừng. Nhưng đối với những người đang trải qua giai đoạn khó khăn bị định nghĩa là trầm cảm nhưng không cần phải xem xét theo khía cạnh bệnh lý thì lại khác.

ĐÒI LẠI LINH HỒN

Linh hồn là vĩnh viễn toàn diện và trọn vẹn trong Chúa Trời. Một thế giới quan hướng ra ngoài quá mức sẽ ngăn cách chúng ta với linh hồn của mình, do đó khiến chúng ta đau khổ; và chỉ khi nào đòi lại được linh hồn mình, khổ đau ấy mới có thể kết thúc. Việc đòi lại linh hồn này không phải là đem rót ánh sáng vào bóng tối, mà đúng hơn đó là quá trình đưa bóng tối ra ánh sáng. Chúng ta phải khai thác bóng tối bên trong mình – những rào cản ngăn mình yêu thương – như vậy mới có thể giải phóng chúng.

Việc này diễn ra có thể sẽ chẳng vui vẻ gì. Nhưng khi trốn tránh nỗi buồn, chúng ta cũng trốn tránh cuộc sống. Học hỏi từ nỗi buồn có thể sinh hoa trái thật ngọt, còn trốn tránh nó thì có thể sẽ phải âm thầm trả giá. Chúng ta phải chọn giữa cảm giác đau đớn khi tự khám phá hay chịu đựng cơn đau âm ỉ của sự vô thức sẽ kéo dài đến hết cuộc đời. Kìm nén không chấm dứt được nỗi đau của chúng ta, mà chỉ đơn giản là phủ lấp lên nó.

Việc tránh né nỗi buồn cũng làm giảm khả năng chúng ta học hỏi được từ nó. Vì làm sao có thể thông tỏ được những gì mình đã không nhìn cho rõ? Đôi khi, qua màn nước mắt của mình, chúng ta hiểu được một tình huống đầy đủ hơn. Ngay cả cuộc sống hạnh phúc cũng có thể có những ngày buồn, và nỗi buồn đôi khi chỉ đơn giản là một dấu hiệu của sự phát triển. Đem dán những hình mặt cười màu vàng rẻ tiền lên mọi thứ, như thể cứ hễ buồn là sai, sẽ chẳng hề đem lại lợi ích gì cho bất cứ ai. Cơn bão có chức năng riêng của chúng trong tự nhiên thì trong tâm lý cũng vậy. Giống như những đứa trẻ không bao giờ tiếp xúc với vi trùng thì sẽ không phát triển được kháng thể cần thiết, những người né tránh trải qua trọn vẹn khổ đau cũng không thể phát triển các kỹ năng cảm xúc cần thiết để đối phó với nó.

Khi nhận ra ý nghĩa tinh thần của nỗi buồn, chúng ta tìm thấy nơi thích hợp để đặt nó – vào linh hồn của chúng ta, và vào cuộc sống của chúng ta. Chúng ta nhận ra mình đã tự tách khỏi tình yêu, tách khỏi nhau, và do đó tự tách rời khỏi sự bình an của Chúa Trời như thế nào. Biết được điều này, biết được nguồn gốc thực sự nỗi đau của bản thân, chúng ta mới có thể sửa chữa vấn đề tận gốc.

Thái độ “tôi là trên hết” lan tràn khắp nơi là nguồn gốc của dịch bệnh bất hạnh, và việc cùng nhau thay đổi thái độ đó là sự chữa lành. Một xã hội mà toàn bộ hệ thống kinh tế và xã hội đều khuyến khích tách biệt khỏi chính mình, tách biệt với nhau và với trái đất mà chúng ta đang sống là một xã hội bao đau khổ. Một thế giới điên rồ nói với những người không liên kết được với nó rằng họ mới điên rồ. Tuy nhiên, tìm cách để mọi người dễ hữu dụng hơn trong một xã hội rối loạn không phải là cách để chữa lành nỗi tuyệt vọng của chúng ta; ngược lại, nó là một phương thức sai lầm, khiến sự tuyệt vọng càng sâu sắc hơn.

Từ góc độ tinh thần, nhân loại này đang bị bệnh ở tim. Để chữa lành một cái chân gãy, chúng ta không chỉ cần uống thuốc giảm đau mà phải xếp đặt lại xương. Và để chữa lành những trái tim tan vỡ, chúng ta cũng không thể chỉ dùng thuốc giảm đau, mà phải điều chỉnh lại suy nghĩ của mình.

TỔN HẠI ĐẾN TÂM HỒN

Căn nguyên của hầu hết đau khổ không nằm ở cấp độ hóa học trong não mà ở cấp độ ý thức, và một thế giới quan khoa học không thừa nhận sức mạnh của ý thức sẽ không thể chữa lành hoàn toàn. Chấn thương cảm xúc trở thành một chấn thương vật lý ở não bởi vì đó là một chấn thương tinh thần.

Chẳng hạn, chứng trầm cảm nặng của một cựu chiến binh trở về đôi khi là do chấn thương não, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Nó chủ yếu là do chấn thương tâm hồn. Khi một thanh niên bị thương trong chiến tranh, khi có người cố giết anh ta, khi anh ta chứng kiến sự khủng khiếp của cuộc chiến, khi anh ta được huấn luyện để trở thành một cỗ máy giết chóc và sống với hậu quả của những gì anh ta có thể đã làm – thì làm sao tâm hồn không đau khổ cho được? Tôi có quen một người lính – một chàng trai từng vui tính, thông minh, tràn đầy niềm say mê cuộc sống mà tôi tin chắc sẽ làm được những điều tuyệt vời – vừa tự tử, và người mẹ buồn khổ của cậu đã nói với tôi trong nước mắt rằng: “Marianne ơi, họ đã cố gắng biến thằng bé thành một người không còn giống như đứa con mà tôi đã nuôi dạy”. Tất nhiên họ phải làm thế, nhưng đó thật là một thảm kịch với chúng ta.

Ai cũng đều muốn thấy các cựu chiến binh đau khổ được chữa lành. Có rất nhiều chuyên gia phi thường đang làm việc với họ, và chữa lành cho họ, bằng vô số cách. Nhưng những người cho rằng bởi các cựu chiến binh có tỷ lệ tự tử cao (gần một người mỗi giờ, theo kết quả một cuộc điều tra năm 2013 của Bộ Cựu chiến binh Hoa Kỳ) nên việc sử dụng tràn lan thuốc chống trầm cảm cho họ là cần thiết, có thể cần cân nhắc đến yếu tố đối kháng của nguy cơ tự tử đã được ghi nhận ở những người dùng thuốc chống trầm cảm. Rủi ro này đặc biệt xảy ra ở những người trong độ tuổi 29 trở xuống, bao gồm phần lớn các cựu chiến binh ở Hoa Kỳ. Không một loại thuốc bên ngoài nào có thể đơn độc giải quyết các vấn đề thuộc ký ức mà những người lính hồi hương gặp phải.

Những người này cần đến phương thuốc tinh thần, không chỉ là sự an ủi của Chúa Trời mà còn là tình yêu của đồng loại. Họ cần lòng tốt của con người, cần đến những lời cầu nguyện, liệu pháp, thiền định, cần một xã hội chứng minh được rằng nó thực sự quan tâm đến họ thông qua các chính sách kinh tế và xã hội (chứ không chỉ qua những lời hoa mỹ chính trị dễ dãi như “Cảm ơn sự phục vụ của các bạn”), và có lẽ cần cả một lời xin lỗi vì đã gửi quá nhiều người vào các cuộc chiến mà lẽ ra không bao giờ nên diễn ra, cũng như một số dấu hiệu – ở bất cứ nơi nào – rằng chúng ta đang nghiêm túc cân nhắc các biện pháp thay thế cho chiến tranh.

Duy linh không phải là đứa con ghẻ kỳ quặc của một thế giới quan thông minh, cũng không phải lựa chọn duy nhất cho những người không đủ thông minh để hiểu thế giới thực. Duy linh phản ánh tư duy tinh vi nhất và lực lượng mạnh nhất để chuyển hóa đau khổ của con người – cho dù người đó có đang dùng thuốc hay không. Đó là lý do tại sao việc học những điều cơ bản của một thế giới quan tinh thần – cũng như các nguyên tắc tinh thần, cảm xúc và hành vi đòi hỏi theo đó – là chìa khóa để lấy lại sự bình an nội tâm.

Bóng tối không thể tồn tại khi ánh sáng hiện diện. Thiền là một con đường dẫn đến ánh sáng. Tha thứ là chìa khóa của ánh sáng. Cầu nguyện là một con đường dẫn đến ánh sáng. Đó là những sức mạnh mang lại sự an ủi cho tâm hồn, mang lại thứ mà không phương thuốc trần gian nào có thể làm được. Và đó cũng là sức mạnh mà chúng ta cần phát triển nhất bây giờ. Chúng chữa lành cuộc sống của chúng ta bằng cách chữa lành suy nghĩ của chúng ta; và trong khi học cách thay đổi suy nghĩ, chúng ta cũng học cách thay đổi cuộc sống của mình. Như được viết trong Kinh Tân ước, sách Romans 12:2, “Hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình”. Làm mới tâm trí mình, chúng ta sẽ làm mới thế giới.