• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Từ nước mắt đến nụ cười
  3. Trang 9

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 18
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 18
  • Sau

BốnVũ trụ diệu kỳ

Học các nguyên lý cơ bản của vũ trụ tâm linh là bước đầu tiên trên con đường dẫn đến sự khai sáng. Đầu tiên chúng ta học các nguyên tắc, sau đó cố gắng áp dụng chúng trong cả trải nghiệm cá nhân và tập thể.

Mọi người đều đang đi trên một hành trình tâm linh; nhưng hầu hết không biết điều đó. Duy linh không chỉ nói về một số động lực thần học bên ngoài chúng ta, mà còn cả cách chúng ta chọn sử dụng tâm trí mình. Con đường tâm linh là con đường của trái tim; lúc nào cũng vậy, chúng ta hoặc đang đi trên con đường của tình yêu và tạo ra hạnh phúc, hoặc chệch khỏi đó và sinh ra đau khổ. Mọi suy nghĩ của chúng ta đều dẫn sâu hơn vào tình yêu hoặc sâu hơn vào nỗi sợ hãi.

Tình yêu là lành mạnh, đúng mực, còn sợ hãi thì không. Tâm trí yêu thương là “tâm trí đúng đắn”. Như Mahatma Gandhi* nói thì: “Vấn đề của thế giới ngày nay là loài người đang không có chủ tâm đúng đắn”.

*1 Mahatma Gandhi (1869 - 1948) là lãnh tụ cuộc kháng chiến chống thực dân Anh, giành lại độc lập cho Ấn Độ, với chủ trương bất bạo động.

Vũ trụ thần thánh là Chủ tâm của Chúa Trời. Phép màu là những suy nghĩ về tình yêu, được mở rộng từ Chủ tâm của Chúa Trời qua tâm trí của con người và thể hiện ra thế giới. Thiên Chúa là Tình Yêu, và bởi là con Thiên Chúa, chúng ta cũng vậy. Mục đích của chúng ta trên trái đất này là nghĩ như cách Chúa nghĩ, tức là yêu như cách Chúa yêu. Khi tâm trí của chúng ta được hòa hợp với tình yêu, mọi thứ được khai mở một cách diệu kỳ. Suy nghĩ yêu thương tạo ra cảm xúc yêu thương, và cảm xúc yêu thương tạo ra hành vi yêu thương. Bằng cách này, chúng ta tạo ra hạnh phúc cho bản thân và cho cả những người xung quanh.

Rõ ràng là cuộc sống không phải lúc nào cũng như vậy. Nhưng nó nên như vậy. Bởi tình yêu thực tế là trạng thái tự nhiên của chúng ta, từ đó giống loài chúng ta đổi hướng đi, và cũng là nơi tất cả đều mong trở lại. Từ những chệch hướng nho nhỏ khỏi tình yêu làm xây xước các mối quan hệ cá nhân đến nỗi kinh hoàng của chiến tranh và diệt chủng – loài người đã thể hiện mối quan hệ yêu/ghét tâm linh với chính cái tôi chân thực của mình. Chúng ta với tình yêu là một, chúng ta quay lưng với tình yêu, và cuối cùng chúng ta lại trở về với tình yêu.

Khi tâm trí của chúng ta không được hòa hợp với tình yêu, kết cấu tự nhiên của vũ trụ sẽ bị nứt rách. Nhưng vũ trụ vừa tự tổ chức vừa tự sửa sai. Khi lạc trong ảo ảnh sợ hãi, chúng ta vẫn có thể trở lại với tình yêu và do đó trở lại với bình an. Mỗi người chúng ta đều có trong mình một Người Thầy Trong Tâm, một người hướng dẫn được Chúa ủy quyền mở đường cho chúng ta về nhà khi chúng ta lạc lối trong nỗi đau của ảo ảnh trần gian. Sức mạnh này có thể được gọi bằng nhiều cái tên (trong đó có tên Chúa Thánh Thần), và chắc chắn không thể gọi là phù phiếm hão huyền.

Phép màu là một sự can thiệp thiêng liêng nhân danh tinh thần của chúng ta, khôi phục lại trật tự của vũ trụ. Phép màu giải thoát chúng ta khỏi những xiềng xích ràng buộc bằng cách nâng chúng ta lên trên những giới hạn của thế giới khả tử. Xiềng xích của bản ngã không phải là vật chất mà là tinh thần, đó đơn giản là những niềm tin cố hữu của chúng ta về thế giới ba chiều. Bằng cách chuyển từ niềm tin vào sức mạnh của những thảm họa sang niềm tin vào sức mạnh chữa lành của Chúa Trời, chúng ta giải phóng sức mạnh của những phép màu để thay mặt chúng ta làm việc.

Nhưng để làm ra phép màu thì ý định tốt thôi là chưa đủ. Muốn thấy mọi thứ khác đi thì chúng ta cần nhiều hơn là chỉ có ý định; chúng ta phải sẵn sàng nhìn mọi thứ khác đi. “Thưa Chúa, con đã sẵn lòng nhìn nhận khác đi” là lời cầu nguyện mạnh mẽ nhất để có sự biến đổi kỳ diệu. Bản ngã khẳng định thế giới phải khác, thì tinh thần sẽ tìm cách nhìn nhận thế giới khác đi. Chỉ khi đó thế giới mới thực sự thay đổi. Chúng ta không thể cầu xin Chúa Trời ban “phép màu” cho những điều xảy ra theo cách mà chúng ta muốn chúng xảy ra; phép màu là khi chúng ta nghĩ về mọi thứ theo cách mà Chúa muốn chúng ta nghĩ về chúng.

Tinh thần ban phúc, trong khi bản ngã đổ lỗi. Tinh thần tha thứ, còn bản ngã tấn công. Tinh thần chấp nhận, trong khi bản ngã chống giữ. Tinh thần hoàn toàn sẵn sàng trong hiện tại, trong khi bản ngã bám vào quá khứ hoặc tương lai. Mỗi lần chúng ta đưa ra một quyết định, dù hữu thức hay vô thức, thì liệu ta sẽ dâng mình cho Chúa Trời hay làm con tin cho bản ngã.

Và lựa chọn không phải lúc nào cũng dễ dàng. Bạn đời của bạn đã bỏ đi, sau 25 năm chung sống, phép màu nào ở đó? Con bạn chết vì chơi thuốc quá liều, phép màu nào ở đó? Bạn mất việc và không biết sẽ phải nuôi sống gia đình bằng cách nào, phép màu nào ở đó? Bác sĩ nói rằng bạn chỉ còn sống được thêm sáu tháng, phép màu nào ở đó? Bạn không biết đôi chân của mình có còn hoạt động được nữa không, phép màu nào ở đó? Bạn không thể thoát khỏi những ký ức về tổn thương trong quá khứ, phép màu nào ở đó?

Thế giới sẽ cung cấp cho bạn nhiều cách để làm tê dại nỗi đau, để tăng cường cơn giận, và do đó đào sâu thêm sự tuyệt vọng của bạn. Bạn luôn có thể tìm được người đồng ý rằng bạn là nạn nhân, và trên phương diện trần tục, bạn có thể đã bị như vậy. Bạn luôn có thể tìm được người đồng ý rằng một tình huống nào đó là vô vọng, và từ góc độ lý trí, có vẻ đúng là như vậy. Tất cả chúng ta ít nhiều đều đã trải qua những trải nghiệm mà từ góc độ trần tục, chúng ta có quyền cảm thấy tức giận, cảm thấy tuyệt vọng đến đớn đau, cảm thấy mình là nạn nhân.

Tuy nhiên, ngay cả khi đó chúng ta vẫn có sự lựa chọn. Chúng ta có thể tìm cách chống lại những người làm tổn thương mình – rồi tự khiến mình đau đớn, tự thương thân. Chúng ta có thể khẳng định rằng bất kể ai nói gì đi nữa thì việc tiến về phía trước cũng chẳng đem lại hy vọng gì – rồi tự khiến mình hoàn toàn tuyệt vọng. Chúng ta có thể đối mặt thế giới với cùng thái độ tiêu cực và đổ lỗi, phòng thủ và tấn công, quy tội và tức giận như thế – rồi tự khiến mình trở nên lạnh lùng và cô lập.

Hoặc thay vào đó, chúng ta có thể có một phép màu.

Lựa chọn để thấy phép màu này có nghĩa là phản bác hệ thống tư duy bản ngã. Chính việc chọn giữ vững thái độ, bất chấp bản ngã có khăng khăng rằng chúng ta phải chịu nghe theo một thế giới đầy sợ hãi. Đây là ý nghĩa siêu hình của lời mà Chúa Jesus nói: “Satan, hãy lui ra đằng sau ta”. Cảm giác tuyệt vọng của bạn là phần thưởng cho bản ngã, là con đường trong vương quốc đen tối và cay đắng của nó. Nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Trời, bạn có thể vươn lên trên bản ngã. Ánh sáng của Người xua tan bóng tối và đưa chúng ta khỏi nỗi đau đã cảm thấy ở đó. Người nâng chúng ta lên trên sự giày vò và đau đớn trong thế giới của bản ngã.

Tôi đã từng hỏi một phụ nữ bị chồng bỏ rằng cô nghĩ điều gì có thể khiến cô cảm thấy tốt hơn, và nhận được lời đáp rằng: mối quan hệ mới của người chồng bội bạc sẽ thất bại; hoặc anh ta sẽ tỉnh ra, nhận ra mình là một kẻ ngốc và quay lại với cô; hoặc điều gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra với anh ta hoặc với người phụ nữ mới trong cuộc đời anh ta! Cô cười, nhưng cô cũng khóc.

Tất cả chúng ta, ở một mức độ nào đó, đều có thể hiểu câu trả lời này. Nhưng cách suy nghĩ như vậy thực tế sẽ chỉ làm nỗi đau thêm dài. Ý nghĩ mạnh mẽ nhất là một ý nghĩ cầu nguyện. Khi tôi cầu nguyện cho bạn, tôi cầu nguyện cho sự bình an của chính tôi. Tôi chỉ có thể nhận về mình những gì tôi sẵn sàng mong bạn nhận được.

Tôi hỏi người phụ nữ kia rằng cô có muốn cầu nguyện cho chồng thay vì những suy nghĩ như vậy không. Và câu trả lời của cô thật hoàn hảo: “Nếu một lời cầu nguyện có thể giải thoát tôi khỏi địa ngục hiện tại, thì làm ơn, hãy cùng cầu nguyện”.

Chúa ơi,

Cầu Chúa phù hộ cho tình yêu cũ của con,

Người đã quyết định rời xa con.

Dù lòng có cưỡng lại, con vẫn cầu phúc cho con đường của anh ta

Và cầu cho anh ta hạnh phúc.

Cầu cho con thôi bị cám dỗ đánh giá

Hoặc kiểm soát,

Ràng buộc anh ta vào sự phán xét của con

Nhưng rồi lại trói buộc chính con vào nỗi khổ.

Xin Chúa giúp con tha thứ cho anh ta

Và nhờ đó tha thứ cho chính mình.

Giải thoát anh ta khỏi lưỡi câu của con, lạy Chúa,

Và giải thoát con khỏi nỗi đau của mình.

Amen

Lời cầu nguyện là đường dẫn phép màu. Nó làm thay đổi vũ trụ bằng cách thay đổi chúng ta. Bản ngã có vô số lựa chọn để xử lý các vấn đề mà nó tạo ra, nhưng không lựa chọn nào trong số đó làm được gì khác ngoài đẩy chúng ta sâu thêm vào tuyệt vọng. Có một điều mà bản ngã sẽ không bao giờ gợi ý: Tình yêu luôn là câu trả lời, bởi vì tình yêu làm rã tan bản ngã, và nó biết điều đó. Nó nuôi dưỡng sự vô tình để sống còn, nhưng sự sống còn của nó cũng là sự hủy diệt của chúng ta.

Bản ngã xem tha thứ là hành động yếu đuối và tấn công là sức mạnh. Nhưng tình yêu không yếu đuối, đó là sức mạnh của Chúa Trời. Vấn đề ở đây không phải là tình yêu có hay không có phép màu, mà vấn đề là chúng ta đang cưỡng lại tình yêu đến mức nào.

Rất dễ để tin vào tình yêu khi mọi người xung quanh đều tốt đẹp và mọi thứ diễn ra theo cách chúng ta muốn. Nhưng cuộc sống là một quá trình học tập mà qua đó chúng ta liên tục bị thử thách để yêu sâu đậm hơn. Vũ trụ có chủ ý và sẽ không từ bỏ cho đến khi chúng ta đến được nơi mà tình yêu, và chỉ riêng tình yêu, là thực tế của chúng ta. Chúng ta không được sinh ra trên trái đất này chỉ để cho có; chúng ta ở đây để hiện thực hóa tiềm năng giác ngộ của mình. Và vũ trụ sẽ đảm bảo chúng ta phải làm điều đó.

Nên đúng vậy, mọi người sẽ không tử tế với chúng ta; và đúng thế, mọi thứ không phải lúc nào cũng diễn ra theo cách chúng ta mong muốn; và cũng đúng là có những bi kịch. Nhưng kho phép màu của Chúa Trời là vô hạn, bằng cách chấp nhận tình yêu, chúng ta học cách gọi ra phép màu. Không có gì mà tính thần thánh trong ta, hay “tâm trí toàn vẹn”, không thể làm. Tính thần thánh là biểu hiện của tình yêu biến đổi tất cả những trải nghiệm kia và giải phóng chúng ta khỏi nỗi thống khổ của mình.

Con đường tìm kiếm tính thần thánh không phải là con đường màu hồng êm ả mà đầy khó khăn và nghiệt ngã. Chúng ta không giả vờ cho qua khi giận dữ; chúng ta phó thác cơn giận của mình vào tay Chúa và nói với Người rằng chúng ta sẵn lòng không như thế. Chúng ta không chối bỏ những giọt nước mắt của mình khi bị bỏ rơi hoặc bị phản bội; chúng ta cầu nguyện cho hạnh phúc của người làm tổn thương mình, như một hành động rộng lượng với chính mình. Chúng ta không giả vờ không sợ hãi hay cô đơn; chúng ta đặt nỗi sợ hãi và cô đơn của mình vào tay Chúa. Tất cả điều này là một quá trình và không có gì là dễ dàng. Con đường của các bậc thánh đều đẫm nước mắt.

Nhưng Chúa ở cùng chúng ta trong những thời điểm khó khăn cũng như trong những khoảng thời gian khác. Khi chúng ta trải qua những đêm tối tăm nhất của tâm hồn, chúng ta được giữ gìn bởi sức mạnh của niềm tin rằng mình không cô đơn.

NIỀM TIN

Trong thời gian cảm xúc tăm tối, có niềm tin thực sự có ý nghĩa gì?

Đức tin là một định hướng tâm lý độc đáo, một lời nhắc nhở mạnh mẽ về ánh sáng của Chúa Trời tồn tại vượt khỏi bóng tối. Đức tin giúp chúng ta trong giai đoạn trầm cảm và buồn bã bằng cách cho chúng ta sự kiên nhẫn để chịu đựng. Chúng ta hiểu rằng nếu bản thân nỗ lực thì sẽ được đền đáp. Đức tin không mù quáng mà nhìn xa trông rộng. Một phi công không vì không nhìn thấy đường chân trời mà kết luận rằng không có đường chân trời. Đức tin cũng giống như viên phi công ấy. Như Kinh Thánh đã viết: “Phúc thay những người không thấy mà tin”**.

** Trích Kinh Thánh Tân ước, sách Ga-la-ti 20, 19-31.

Niềm tin là một khía cạnh của ý thức, chúng ta liên tục áp niềm tin của mình vào thế giới này hay thế giới khác. Và vấn đề nằm ở chỗ chúng ta có xu hướng tin rằng sức mạnh của bệnh ung thư có thể giết chết mình hơn là tin vào quyền năng của Chúa có thể chữa lành cho mình.

Trong vũ trụ tinh thần có một trật tự thiêng liêng, và sự hỗn loạn dù ở bất cứ dạng nào cũng chỉ là tạm thời. Đức tin đơn giản là nhận ra được điều đó. Dù bản ngã có vứt xuống thứ gì, thì cuối cùng Chúa cũng sẽ nâng đỡ lên lại. Đây không chỉ là một niềm tin, mà còn là tri thức tinh thần. Tri thức tinh thần cho chúng ta sức mạnh và sự ngoan cường. Dùng niềm tin như một vật chứa cảm xúc là rất quan trọng vì nó mang lại cho chúng ta sự chắc chắn khi đối mặt với sự không chắc chắn. Trong thời gian đau khổ, nó giữ cho chúng ta ở trên mớn cảm xúc, cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng bằng cách biết dù có thế nào thì điều ấy rồi cũng sẽ qua. Có sự khác biệt lớn về cảm xúc giữa “Tôi bị trầm cảm và cảm thấy nỗi đau này sẽ không bao giờ chấm dứt” với “Tôi bị trầm cảm nhưng biết mình sẽ vượt qua”. Sẽ có những đêm rất tăm tối, nhưng chắc chắn bình minh rồi sẽ đến. Bất kể điều gì đã xảy ra trong cuộc sống của chúng ta, phép màu vẫn có thể tồn tại. Vũ trụ hoạt động giống như GPS. Ngay cả khi rẽ sai, GPS chỉ cần hiệu chỉnh lại và đưa ra một tuyến đường khác. Đích đến là sự bình an nội tâm. Khó khăn không thể tránh khỏi, nhưng cuối cùng chúng không thể và sẽ không kéo dài mãi chừng nào chúng ta còn chọn tình yêu.

TRÍ TUỆ CỦA CHÚA TRỜI

Vũ trụ đang sống, thấm nhuần trí thông minh tự nhiên dẫn dắt mọi sự hướng tới lợi ích cao nhất. Trí thông minh này biến một phôi thai thành em bé, một chiếc nụ thành bông hoa và một hạt sồi thành cây sồi. Khi chúng ta cho phép, nó sẽ dẫn dắt ta thành con người tốt nhất có thể, sống cuộc đời hạnh phúc và bình yên. Học cách kết nối với trí thông minh tự nhiên này là điều thông minh nhất mà chúng ta có thể làm.

Trong phần Giới thiệu A Course in Miracles có viết:

Không gì thực lại có thể bị đe dọa.

Không gì không thực lại tồn tại.

Ở nơi đây trong sự bình an của Chúa Trời.

Chỉ có tình yêu là thực tế tối thượng, mọi thứ khác đều là ảo ảnh tạm thời mà tâm trí tạo ra. Những gì không phải là tình yêu thì không thực sự tồn tại.

Rõ ràng kiểu suy nghĩ như vậy chống lại bằng chứng vật chất. Khi nhìn xung quanh, chúng ta lĩnh hội thế giới bằng các giác quan của thân thể mình – tất cả đều báo cáo rằng thế giới thực sự rất thực. Tuy nhiên, những gì mà các giác quan của cơ thể báo với chúng ta là “thế giới thực” ấy thật ra lại là một ảo giác chung, khổng lồ, chí mạng. Như Albert Einstein đã nói: “Thực tế chỉ là một ảo ảnh, dẫu có là một ảo ảnh rất bền bỉ”. Thế giới vật chất chỉ là một bức màn chắn trước một thế giới chân thực hơn, đẹp đẽ hơn. Đó là một bức màn ảo giác rất lớn, được bản ngã tạo ra không phải để chiếu sáng, mà là để che giấu thế giới nằm ngoài nó.

Tất cả mọi thứ khiến chúng ta đau khổ – từ những vụ lạm dụng ghê tởm nhất đến việc mất đi người thân yêu – đều diễn ra trong một cõi ảo tưởng. Những đau khổ ấy là trải nghiệm của con người và nên được tôn trọng như vậy, nhưng chỉ riêng trải nghiệm của con người thôi thì không phải là sự thật tối hậu rằng chúng ta là ai. Chúng ta là những sinh linh của một thế giới thực hơn thế giới này, thế giới bên ngoài tấm màn che. Thế giới tinh thần là một vũ trụ chỉ của tình yêu, nơi không tồn tại gì ngoài sự bình yên và hòa hợp vĩnh cửu.

Do đó, con người đau khổ không phải con người thực của bạn. Thế giới có thể ném nhiều điều khủng khiếp vào bạn nhưng không thể thay đổi thực tế rằng bạn là ai. Bạn thực ra là một sinh linh của tình yêu, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi sự vô tình của thế giới.

Hành trình giác ngộ là một hành trình tìm đến ý thức biến đổi về bản thân, một sự chuyển đổi sang một ý nghĩa khác về con người chúng ta là ai và thế giới là gì. Mặc dù bản ngã cho chúng ta là những sinh vật bị giới hạn, tội lỗi, nhất thời, dễ bị tổn thương cố níu lấy chút hạnh phúc ít ỏi trong một thế giới thiếu thốn, nhưng thế giới quan tinh thần nói chúng ta không hề là như thế. Trong Chúa, chúng ta ngây thơ. Chúng ta phong phú. Chúng ta toàn diện. Chúng ta bất diệt.

Và khi nhớ những điều này, cuối cùng chúng ta cũng hạnh phúc. Bởi chúng không chỉ là những điều trừu tượng. Chúng là những vụ nổ bùng của ánh sáng.

THU HẸP KHOẢNG CÁCH

Cái tôi khả tử – được xác định bằng thân thể, mô tả theo các hoàn cảnh thế gian và theo những tác động của thế giới vật chất – chỉ là một khía cạnh con người thật sự của chúng ta. Thực tế thì cơ thể giống như một bức tường mà chúng ta dựng nên xung quanh một cái tôi vô hình. Cái tôi vô hình đó – được gọi là Thiên Chúa, hay Phật Tâm, hay shekinah, hay bất kỳ cái tên nào khác – là chính ta, về bản chất, về cơ bản và mãi mãi muôn đời như vậy. Bạn không phải là một thân xác mà là một linh hồn bất diệt. Bạn đã sống từ trước khi thể xác được sinh ra, và sẽ sống vượt qua cái chết về thể xác. Những gì Chúa tạo ra không thể bị phá hủy.

Phải cam kết triệt để cố gắng ghi nhớ chúng ta là ai trong một thế giới làm tất cả những gì có thể, trong từng khoảnh khắc mỗi ngày, để thuyết phục rằng chúng ta là người không thực sự là mình, chứ không phải thực sự là mình. Thế giới mà chúng ta biết được tổ chức xoay quanh sự phủ nhận tầm nhìn tinh thần, coi thể xác là thực còn tinh thần là tưởng tượng. Nó dựa trên giả định rằng chỉ những gì xảy ra bên ngoài mới quan trọng. Như vậy, nền văn minh hiện đại của chúng ta mù tịt về tinh thần. Nó mù tịt về thực tế sâu sắc hơn và ý nghĩa của cuộc sống. Nó đã ngủ thiếp đi trước những động lực sâu sắc hơn và những mệnh lệnh tiến hóa của sự tồn tại con người, trong giấc ngủ ấy, nó tạo ra ác mộng cho từng cá nhân và cho toàn bộ giống loài.

Những tàn phá mà sự thiếu hiểu biết về tinh thần của chúng ta gây ra hiện đang được trải nghiệm trên quy mô lớn, tạo nên các vấn đề tâm lý và cảm xúc sâu sắc ở các cá nhân, và dường như cả sự hủy hoại môi trường và chính trị không thể ngăn chặn được trên thế giới. Nhưng những vấn đề như vậy không phải là nguyên nhân; chúng là hệ quả từ sự lo lắng của loài người khi chúng ta tách rời khỏi con người thực của mình, để rồi rơi vào tình trạng nhẹ thì cũng loạn thần kinh mà nặng thì thực sự phát điên.

Tâm trí bản ngã, con người hoang tưởng, mỗi ngày trong từng khoảnh khắc đều tìm cách để tiêu diệt công trình sáng tạo của Chúa Trời. Nói cách khác, mục tiêu của nó là tiêu diệt bạn. Trong thế giới này, bản ngã có thể có những tác động tàn phá. Tất cả những điều này đang diễn ra trong một ảo ảnh rộng lớn, nhưng khi chúng ta còn đang ở giữa ảo ảnh ấy, tác động của nó mang lại cảm giác rất chân thực. Vai trò của người làm ra phép màu không phải là lờ đi bóng tối mà là xua tan nó.

Tất nhiên, thế giới của bản ngã vừa buồn thảm vừa điên rồ. Nó khẳng định chúng ta như những sinh vật tạm thời, trong khi thực tế chúng ta bất diệt. Nó khẳng định chúng ta tách biệt với Chúa Trời, trong khi thực tế chúng ta là những suy nghĩ trong tâm trí của Người. Nó khẳng định chúng ta tách biệt nhau, trong khi thực tế chúng ta được tạo ra là một thể và vẫn là một thể thống nhất. Để chữa lành căn bệnh trầm cảm của mình, chúng ta phải thu hẹp khoảng cách tinh thần giữa quan điểm của bản ngã về chính ta và người khác, với quan điểm của Chúa Trời về chính ta và người khác. Đây là cách duy nhất để cứu rỗi ta khỏi buồn đau.

Bản ngã là năng lượng tinh thần của chính ta chống lại ta. Tuy nhiên, giống như bóng tối chẳng qua là sự thiếu vắng ánh sáng, nỗi sợ hãi chẳng qua cũng chỉ là sự thiếu vắng tình yêu. Bản ngã chỉ đơn giản là một sự méo mó tinh thần, thứ tư duy hoang tưởng rằng chúng ta không phải là con người thực của mình. Trong niềm tin điên rồ của bản ngã rằng chúng ta tách biệt, nó thuyết phục chúng ta rằng chúng ta đơn độc… nguy hiểm… và không được yêu thương. Tất nhiên chúng ta vì thế mà chán nản. Và sự chữa lành chứng trầm cảm nằm ở việc chúng ta nhớ mình là ai.

Chúng ta là những đứa con hoàn hảo, ngây thơ của Chúa Trời. Đó là Hiện Thực của Chúa Trời, và Hiện Thực của Chúa Trời là bất di bất dịch. Hơn nữa, chúng ta được tạo ra như một và ở cấp độ tinh thần, chúng ta là một. Bản ngã rất cảnh giác trong nỗ lực khiến chúng ta quên rằng mình hoàn hảo, quên rằng mình ngây thơ, và quên rằng chúng ta là một. Sự lo lắng và nỗi thống khổ về tinh thần mà sự lãng quên này gây ra là ý nghĩa thực sự của từ “địa ngục”. Nhận thức về sự đồng nhất của chúng ta và sự bình yên mà nó tạo ra là ý nghĩa của từ “thiên đàng”. Địa ngục không phải là môi trường sống tự nhiên của chúng ta. Thiên đàng là quê hương và là nơi chúng ta thuộc về – không chỉ sau khi chết, mà trong mọi khoảnh khắc mỗi ngày.

LỜI NÓI DỐI VĨ ĐẠI

Henry David Thoreau*** đã viết: “đa phần con người ta sống đời tuyệt vọng lặng câm”. Từ góc độ tinh thần, sự tuyệt vọng đó bắt nguồn từ một ảo tưởng: nhận thức không chính xác rằng mọi phần của cuộc sống đều tách biệt với nhau. Sự hiểu lầm được duy trì bởi bằng chứng của các giác quan đã và đang trải nghiệm thực tế về mặt vật chất hơn là tinh thần, do đó khẳng định chúng ta tách biệt, trong khi thực tế không phải vậy. Niềm tin nguy hại, chính yếu vào sự tách bạch này xóa mờ tình yêu và gây ra nỗi sợ, bằng cách khiến chúng ta tự sống tách rời khỏi những thứ, những người mà thực ra ta vốn không thể tách rời. Ảo tưởng này là nguồn gốc của sự tuyệt vọng bởi vì, ở cấp độ suy nghĩ, nó chia cắt sự đồng nhất của chúng ta thành hàng tỷ mảnh riêng biệt và do đó xâm phạm vào ý thức cơ bản nhất của chúng ta về chính mình.

*** Nhà văn, nhà thơ, nhà tự nhiên học, nhà sử học, nhà triết học và nhà địa hình học người Mỹ. Nổi tiếng với các tác phẩm Walden - Một mình sống trong rừng và Civil Disobedience (Bất phục tùng).

Chúng ta, theo A Course in Miracles, giống như những tia nắng nghĩ rằng mình tách biệt với mặt trời, hoặc những đợt sóng trong đại dương nghĩ rằng mình không liên quan gì đến những con sóng khác. Hãy xem điều đó có nghĩa gì về mặt tâm lý. Nếu tôi là một con sóng giữa đại dương và nghĩ mình tách biệt khỏi tất cả các con sóng khác, thì làm sao tôi có thể không sợ đại dương? Làm sao có thể không cảm thấy bất lực? Làm sao có thể không sợ rằng bất cứ lúc nào mình cũng có thể bị áp đảo bởi các đợt sóng khác? Nhưng nếu tôi nghĩ về bản thân đúng như bản chất thực sự của mình – không tách rời khỏi các con sóng khác – tôi sẽ biết mình an toàn trong đại dương và sức mạnh của đại dương cũng là sức mạnh của tôi.

Tất cả đau khổ bắt nguồn từ việc chúng ta sai lầm khi gắn bó với vương quốc của cái tôi riêng. Đau đớn là không thể tránh được chừng nào chúng ta còn thấy mình tách biệt với phần còn lại của cuộc sống. Các tế bào trong cơ thể tách biệt với trí thông minh tự nhiên của chúng, quên mất chức năng của chúng và chòi ra thành lập vương quốc riêng, đó là các tế bào ung thư. Chúng là tế bào ác tính, đã thoát khỏi vũ điệu hợp tác tuyệt vời của cuộc sống. Và đó cũng là những gì đã xảy ra với nhân loại; chúng ta đã bị nhiễm một căn bệnh ác tính tinh thần, trong đó, giống như các tế bào ung thư, chúng ta quên mất chức năng của mình là hợp tác với các tế bào khác để ấp ủ cuộc sống lớn hơn mà tất cả đều có dự phần. Thay vào đó, chúng ta lại để bị dẫn dắt tin rằng không có gì tốt bằng việc làm bất cứ điều gì mình muốn – mà không phải chịu trách nhiệm gì đối với cái toàn vẹn mà tất cả đều có dự phần. Và sức mạnh mà chúng ta đáng lý cần tạo ra lại trở thành sức mạnh mà chúng ta phá hủy.

Thái độ sợ hãi, bắt nguồn từ niềm tin vào sự tách biệt và hình thành độc tính xã hội đang đầu độc thế giới, tràn ngập mọi khía cạnh của xã hội chúng ta. Độc tính đó hủy hoại tinh thần, thậm chí cả cơ thể của chúng ta. Cho dù đó là cảnh bạo lực trên tivi hay bạo lực chiến tranh, xung đột giữa những người láng giềng hay xung đột giữa các chủng tộc, đôi khi ta cảm thấy như thể sợ hãi tràn ngập khắp mọi nơi còn tình yêu không hề hiện diện.

Chúng ta cần tình yêu như cần không khí, nhưng thường lại không thể tìm thấy nó. Chúng ta bị hút vào những niềm tin sai lệch về việc mình là ai và là gì với nhau – cơ bản ta tin rằng cuối cùng ta chẳng là ai và cũng chẳng là gì với nhau; niềm tin ấy tích lũy đến mức trở thành một lời nói dối khổng lồ, không còn phải bàn cãi, lan rộng trong ý thức của nhân loại như một tấm chăn phủ của sự diệt vong. Lời nói dối ấy được củng cố một cách trọn vẹn, liên tục, dai dẳng đến mức có vẻ như nó hẳn phải là sự thật. Nhưng một lời nói dối dẫu có được truyền đi nhan nhản khắp nơi thì vẫn là một lời nói dối.

Lời dối trá ấy quả thật đang được củng cố ở khắp mọi nơi. Tôn giáo của chúng ta, nền kinh tế của chúng ta, quốc tịch của chúng ta, bản năng giới tính của chúng ta, nền chính trị của chúng ta, văn hóa của chúng ta: bản ngã sử dụng tất cả những thứ ấy làm bằng chứng cho sự tách biệt và liên tục cảnh báo chúng ta rằng: “Không được tin tưởng lẫn nhau!”. Chúng ta được dạy để sợ hơn là yêu nhau. Chúng ta thấy một thế giới thiếu thốn và nguy hiểm, và từ nhận thức đó kết luận rằng để đạt được nhu cầu của mình thì một ai đó phải hy sinh. Trong thực tế, nhận thức của chúng ta về sự phân tách chính là thứ đã tạo ra sự khan hiếm ngay từ đầu.

Vậy nguồn gốc của lời nói dối ấy là gì, và làm thế nào loại bỏ nó? Thật ra, nó không đến từ nơi nào cụ thể cả, bởi vì nó đến từ khắp mọi nơi. Đơn giản chỉ là ý thức của con người thiếu vắng tình yêu. Tâm trí bản ngã là ý nghĩa tâm lý của hang ổ ma quỷ, nơi tất cả những lời nói dối của thế giới được dựng lên, nơi bằng mắt thường sẽ không thể nào tìm thấy. Nỗi sợ hãi là sức mạnh của tâm trí chúng ta quay lưng lại với chính ta – cái tôi không tình yêu, rỗng tuếch và tuyệt vọng. Đó là sự tự ghét mình giả thành tự yêu thương.

Bởi thực tế nỗi sợ, chứ không phải tình yêu, là thứ chiếm ưu thế trong hệ thống tư tưởng thống trị hành tinh ngày nay, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi rất nhiều người trong chúng ta muộn phiền: Các nguyên tắc tổ chức của nền văn minh hiện đại đánh bật chúng ta về mặt tinh thần khỏi vị trí của mình trong vũ trụ. Tâm lý bị ám ảnh bởi vật chất, dựa trên nỗi sợ đã lọc bỏ ý thức về mục đích tinh thần khỏi xương cốt nền văn minh của chúng ta, và điều này làm tổn thương chúng ta.

Chúng ta không – và không thể – cảm thấy phù hợp về cảm xúc với một thế giới nơi trải nghiệm làm người không có được ý nghĩa tồn tại ngoài giới hạn vật chất, nơi không có mối liên kết sâu sắc hoặc trách nhiệm qua lại nào được bao hàm trong kết nối giữa chúng ta với các sinh linh khác, nơi nhiều thế lực tồn tại để chia tách chúng ta hơn là hợp nhất, và nơi mà giá trị của chúng ta được xác định chủ yếu bởi các yếu tố bên ngoài. Vòng xoáy của suy nghĩ bệnh hoạn này – bệnh hoạn ở chỗ nó không hề nuôi dưỡng tình yêu mà chỉ dung dưỡng nỗi sợ – đã biến nền văn minh của chúng ta thành một chiếc đĩa petri nuôi cấy bệnh lý xã hội. Đó là một vấn đề tập thể mà tất cả mọi người đều phải chịu hậu quả ở cấp độ cá nhân.

Và còn có cách nào khác sao? Làm thế nào một nền văn minh coi tình yêu là thứ yếu đến mức như thế lại không khiến người ta đau lòng cho được? Sự đau khổ về tình cảm sâu sắc lan tràn trong chúng ta là một căn bệnh về tinh thần và sẽ không được chữa lành trên cấp độ vật chất. Nó sẽ chỉ lành lặn khi được giải quyết ở cấp độ tinh thần.

Một căn bệnh tinh thần đòi hỏi một giải pháp tinh thần, và một giải pháp tinh thần không làm tê dại hoặc lảng tránh sự đau khổ. Nếu làm tê dại hoặc lảng tránh đau khổ thì không thể phơi bày ngọn nguồn của nó ra ánh sáng của nhận thức có ý thức. Nếu không nhận thức được nỗi đau của mình, chúng ta không thể phó thác nó, và chỉ khi nỗi đau được phó thác thì nó mới có thể tan đi.

Chúa Trời sẽ không lấy từ chúng ta những gì chúng ta không thổ lộ với Người, bởi làm như vậy là vi phạm tự do ý chí. Các độc tố tinh thần phải được đưa lên bề mặt để được cho thoát ra. Chúng được cho thoát ra như một phần của quá trình giải độc cảm xúc, mà nếu không làm như thế, chúng sẽ vẫn tồn tại trong ta để hủy hoại cuộc sống của chúng ta. Thế giới quan hiện đại của chúng ta không nhận ra được độc tính cảm xúc ở ngay trong cốt lõi của nó. Thế giới quan cơ học, duy lý, quá trần tục của chúng ta mang độc, nó cần được chữa lành trước khi đau khổ của chúng ta có thể được chữa lành.

ĐƯỜNG ĐẾN CHỮA LÀNH

Trí tuệ thiên tài của tự nhiên áp dụng cho cả thể chất và tâm trí.

Trí thông minh tự nhiên phi thường thể hiện rõ trong hoạt động của các hệ thống sinh học. Để tạo thành cơ thể con người, trứng và tinh trùng lần đầu tiên tham gia vào một cuộc hôn phối tế bào, từ đó phát sinh một quá trình tạo thành và phân chia tế bào phức tạp khó mà tin nổi. Các tế bào xuất hiện và phân chia để trở thành cơ bắp, da, các cơ quan và máu. Não, phổi, gan, tim, móng tay, bộ phận sinh dục, nhãn cầu, lưỡi, ngón chân – tất cả đều phát triển từ hàng tỷ hàng tỷ tế bào nhỏ được hướng dẫn để hợp tác với các tế bào khác trong một quá trình sáng tạo vô tận dẫn đến sự ra đời của em bé. Rồi ngay cả sau khi được sinh ra, các quá trình này vẫn tiếp tục để hỗ trợ cơ thể hoạt động và phát triển thành một sinh vật độc lập.

Hãy lưu ý rằng tự nhiên chưa bao giờ dựa vào bạn hay tôi để làm bất kỳ điều gì trong quá trình này. Chúng ta không phải là tác giả quá trình này, mà trí thông minh tự nhiên hướng dẫn hoạt động sinh học của chúng ta mới chính là tác giả. Và cho dù nghĩ theo mặt tinh thần hay thế tục, thì trí thông minh thiên tài này cũng áp dụng cho cả chức năng tâm lý và cảm xúc. Giống như về mặt sinh học chúng ta được lập trình để sinh ra, về mặt tinh thần, chúng ta được lập trình để hạnh phúc. Trí thông minh thần thánh sử dụng cơ thể như một phương tiện để sáng tạo thêm.

Mục đích của tự nhiên và mục đích sống của chúng ta chính là: Chúng ta lớn lên và phát triển không chỉ về mặt sinh học mà còn về mặt tinh thần. Trí thông minh của tự nhiên dẫn đến sự sáng tạo, tốt đẹp và niềm vui cao nhất. Vấn đề không phải là liệu trí thông minh này có tồn tại hay không, mà chỉ là chúng ta có tuân theo nó hay không. Kết nối với trí thông minh đó, chính là tình yêu, chúng ta được hướng đến sự trọn vẹn và bình an nội tâm. Ngắt kết nối với nó, chúng ta bị bản ngã dẫn vào bóng tối của sự hỗn loạn và đớn đau. Tự do ý chí đơn giản có nghĩa sự lựa chọn là tùy thuộc vào ta.

Tâm trí là một phần của một hệ sinh thái được phối hợp hoàn hảo, cũng hệt như cơ thể. Nó có cơ chế sinh tồn tự thân, cũng hệt như cơ thể. Và nó có nhiều cách để tự sửa chữa, cũng hệt như cơ thể. Cơ thể sẽ không tồn tại nếu không có khả năng tiếp nhận một lượng chấn thương nhất định, và tâm trí cũng vậy. Cả hai đều có hệ thống miễn dịch tuyệt vời, cơ chế phục hồi nhờ đó chữa lành chấn thương và chống lại bệnh tật.

Khi chịu tổn thương về tình cảm, chúng ta có thể cảm thấy như thể bị đánh đập – bởi vì theo nghĩa nào đó, ta đã bị vậy thật, bởi chính mình, bởi người khác, hoặc bởi cuộc sống. Cái tôi trong ta đã bị bầm dập và cần thời gian để lành lại. Nếu khi chữa lành thể chất chúng ta cần phải nhẹ nhàng với cơ thể của mình, thì khi chữa lành cảm xúc, chúng ta cũng cần phải dịu dàng với trái tim. Bất cứ ai từng bị trầm cảm đều hiểu rằng nội tâm cũng có thể đau đớn như bất kỳ nỗi đau thể chất nào.

Một lượng bệnh tật và đau đớn nhất định chỉ đơn giản là một phần của cuộc sống, và một lượng đau lòng nhất định cũng là một phần của cuộc sống. Cần phải có thời gian để hồi phục sau tổn thương thể chất, và cũng cần có thời gian để phục hồi sau một tổn thương cảm xúc. Việc chúng ta hiểu điều này, và cho phép nó, đơn giản là một phần của việc sống cho khôn ngoan. Khoảng thời gian mà tâm trí hấp thụ và xử lý những mất mát, thất vọng và sợ hãi không phải là bị bệnh. Cảm thấy mất mát, thất vọng và sợ hãi không nhất thiết có nghĩa là có gì đó không ổn. Nó chỉ đơn giản là chúng ta đã bị bầm dập và cần thời gian để chữa lành.

Không phải mãi gần đây người ta mới bắt đầu chết, mới bắt đầu phải trải qua những tình cảnh thê thảm, không phải mãi gần đây mới bắt đầu đau lòng. Theo thời gian, khi phải đối mặt với những thách thức và đe dọa tới sự sống còn, chúng ta đã thích nghi để đáp ứng các mối đe dọa ở cả cấp độ bên ngoài và bên trong. Cả cơ thể và tâm trí đều đã phát triển hệ thống miễn dịch, và nền tảng cho hệ thống miễn dịch của tâm trí là đau buồn. Đau buồn cho phép chúng ta xử lý ngày càng nhiều những điều có thể gây sốc đối với hệ thống khi phải xử lý tất cả cùng một lúc.

Không nên tránh đau buồn về những mất mát bình thường của cuộc sống, mà phải chấp nhận và đón nhận. Đó là một quá trình – chứ không phải là một sự kiện – được thực hiện tốt nhất khi chúng ta phó thác hoàn toàn. Khi cảm xúc bị tổn thương sâu sắc, chúng ta cần lắng lại giai đoạn đau đớn với việc hiểu rõ rằng dẫu sẽ khó khăn đấy, nhưng chúng ta sẽ vượt qua. Chúng ta cần dự trữ bất cứ điều gì sẽ giúp mình vượt qua, và tập hợp xung quanh những người đồng hành lành mạnh, biết cảm thông và giàu lòng yêu thương trong khi chúng ta xử lý mất mát và vượt qua những cảm giác của mình. Sự đau buồn sẽ đến thành những đợt sóng, sẽ mất nhiều thời gian. Điều cuối cùng chúng ta nên làm là nhủ mình phải nhanh lên, phải vượt qua, phải đánh bại nó, phải quên đi. Ta không làm thế với cơ thể thì cũng không nên làm với tâm hồn mình.

Một trong những rối loạn thần kinh mà tính hiện đại sinh ra là sự thôi thúc vội vàng những việc không nên vội vàng. Chúng ta đã lấy những mệnh lệnh của một mô hình kinh doanh và đem áp vào mọi thứ. Nếu thứ gì đó làm cho chúng ta kém “hữu ích” hơn trong ít lâu thì chắc chắn thứ đó là không ổn. Nhưng cuối cùng, còn điều gì có thể hữu ích hơn là vượt ra được khỏi nỗi buồn sâu sắc làm ta suy nhược và đòi lại sự bình an nội tâm?

Thời điểm thích hợp để đau lòng là khi trái tim tan vỡ. Giống như một người mẹ chăm sóc cho thai kỳ của mình tốt nhất đôi khi chỉ bằng cách uống một tách trà hoa cúc và nghỉ ngơi thoải mái; trong những lúc đau buồn, chúng ta cũng đang mang thai giai đoạn tiếp theo của cuộc đời và chăm sóc cho quá trình ấy tốt nhất đơn giản chỉ bằng cách để yên cho nó diễn ra. Chúng ta cần nghỉ ngơi cùng con người thực của mình, vị trí thực của mình; khi nhẹ nhàng với chính mình, chúng ta tạo ra không gian rộng lớn hơn cho các quá trình biến đổi cá nhân khổng lồ đang diễn ra sâu bên trong. Về mặt tinh thần, chúng ta luôn chết và luôn được sinh ra.

Khi dành sự tôn trọng thích hợp cho nỗi sầu khổ, chúng ta cho phép mình vượt qua nó. Tôi còn nhớ khi người ta dành nhiều lòng tin hơn cho trải nghiệm đau buồn sâu sắc, người ta không trông đợi ai đó sẽ cứ thế mà chóng nguôi ngoai sau cái chết của người thân. Các thành viên trong gia đình có thể mặc đồ đen (điều không bình thường hồi đó) trong một năm để thể hiện việc tiếc thương. Người ta hiểu rằng họ không thể là chính mình trong một thời gian và cảm thấy được phép không là chính mình. Ngày nay lại khác, mọi người có xu hướng cảm thấy tội lỗi vì việc đau buồn, khi ai đó nói với họ: “Mẹ của bạn đã qua đời một tháng rồi. Mà bạn vẫn chưa vượt qua được sao?”. Những lúc như thế, ta hoàn toàn có thể, và thực tế là hoàn toàn nên nói rằng: “Chưa, tôi chưa vượt qua được, và có lẽ vẫn sẽ chưa trong một thời gian nữa”.

Chúng ta không phải là máy móc. Chúng ta là con người. Và khi đau buồn là chúng ta đang trải qua một trải nghiệm sâu sắc và quan trọng. Khoảng thời gian đau buồn có thể là khoảng thời gian thiêng liêng. Tôn trọng trái tim khi chúng ta đau đớn, tìm cách bước qua trải nghiệm rất gần với Chúa Trời không ngay lập tức khiến chúng ta bớt buồn, nhưng nó làm cho nỗi buồn của chúng ta bắt đầu có ý nghĩa. Sống trong một vũ trụ thiêng liêng mang đến cho chúng ta góc nhìn cảm xúc khác, trong đó cuộc sống được gán cho một ý nghĩa sâu sắc hơn bởi vì chúng ta đã chọn nhìn nó từ một góc nhìn sâu sắc hơn. Chúng ta chọn nhìn thấy mọi thứ, kể cả sự đau khổ của bản thân, khi nhận ra mình có thể học cách yêu sâu đậm như thế nào.

Dù có điều gì xảy ra trong cuộc sống đi nữa, đối mặt với nó như thế nào là lựa chọn của chúng ta. Và bất cứ khi nào chọn sống hết mình, ta cũng cảm nhận được sâu sắc những cảm xúc. Khoảng thời gian đau buồn sâu sắc có thể khơi ra cả những vết thương đau đớn đã bị chôn vùi trước đó – có thể không chỉ là những vết thương của chúng ta, mà còn của cả thế hệ hay cả xã hội. Chịu đựng khổ đau với một trái tim rộng mở không phải hành động của những kẻ yếu đuối, mà của những người tìm kiếm. Những vết thương đã ngăn chúng ta phát huy hết khả năng của mình, và việc chúng được mang ra chữa lành là một phần trong hành trình ta tìm đến giác ngộ.

Trong quá trình đó, nếu bị buộc phải trải qua những lúc tưởng như đau đớn không thể chịu đựng được, thì ta có thể khóc. Không sao cả đâu bạn nhé.