Khi màn đêm buông xuống, khu nghĩa trang của nhà thờ St. Anne ru mình trong sự yên ả và im ắng, những bóng cây cao lớn nghiêng mình trước gió khẽ rung rinh đổ dài xuống các ngôi mộ sáng lên mờ ảo dưới ánh trăng. Thế nhưng đêm nay, gần nơi Guinevere Anglessey an nghỉ, Sebastian lại nhìn thấy một vầng sáng đặc biệt.
Sebastian lệnh cho người đánh xe tấp vào lề đường. Anh xuống xe, đi xuyên qua các hàng cây. Ngọn đèn ấy sáng tỏ rất rõ ràng, cho nên có lẽ không phải là những kẻ trộm mộ. Thật ra các gia đình cũng thường hay thuê người ngồi cả đêm bên ngôi mộ của người thân vừa mới qua đời. Thậm chí trong những ngày đông giá rét, tập tục trông mộ này còn kéo dài đến vài tháng liên tục, nhưng vào mùa hè thế này thì thường chỉ một tuần thôi là đến cả bác sĩ khám nghiệm cũng không thể làm gì với thi thể của người quá cố được nữa.
Chỉ có điều, người ngồi ở đó không được thuê đến. Đích thân ngài Hầu tước đảo Anglessey đã đến trông nom người vợ trẻ xinh đẹp của mình. Ông ngồi trên một chiếc ghế ngoài trời đặt bên cạnh ngôi mộ của vợ, một tấm chăn phủ trên đùi ông cho dù nhiệt độ ban đêm vẫn chẳng bớt nóng đi bao nhiêu. Một khẩu súng đặt ngang trên đầu gối ông.
“Là Devlin đây,” Sebastian dõng dạc nói to. “Xin đừng bắn.”
“Devlin?” Người đàn ông già cả khẽ cựa mình trên ghế, khuôn mặt nheo lại cố nhìn rõ những bóng hình nhập nhoạng giữa màn đêm. “Ngài làm gì ở đây vậy?”
Sebastian bước vào nơi có ánh sáng từ cái đèn xách bằng đồng chiếu tới rồi quỳ gối, ngồi xuống bên cạnh chiếc ghế của Anglessey.
“Tôi có chuyện cần nói với ngài,” anh nói. Và tại đó, bên cạnh ngôi mộ của Guinevere Anglessey, với những cơn gió nhẹ nhàng mơn man đôi má anh, Sebastian đã kể cho chồng của Guinevere biết nguyên do và quá trình cái chết của cô.
Nghe xong những gì mà Sebastian nói, ngài Hầu tước chỉ im lặng, đầu ông cúi thấp, hơi thở của ông chậm chạp và nặng nề. Thế rồi ông ngẩng đầu lên, dùng ánh mắt gay gắt nhìn thẳng Sebastian.
“Người phụ nữ này - phu nhân Audley ấy. Ngài có chắc chắn rằng bà ta đã chết không?”
“Tôi chắc chắn.”
Anh gật đầu. Một cơn gió nổi lên, rung xào xạc cành lá cây sồi trên cao, mang theo mùi vị đặc trưng của nơi này, mùi cỏ già, mùi mục ruỗng và mùi chết chóc tới chỗ hai người bọn họ.
“Ngài có tin vào Chúa không?” Anglessey đột ngột hỏi, phá vỡ bầu không khí tịch mịch giữa hai người.
Sebastian nhìn đôi mắt tràn ngập đau đớn của ông rồi trả lời thật lòng, “Không, đã từ lâu tôi không còn tin nữa rồi.”
Anglessey thở dài. “Giá như mà ta cũng không tin. Nếu như không tin vào Chúa thì ta sẽ sẵn sàng lấy khẩu súng này bắn vỡ sọ Bevan. Lẽ ra ta nên làm chuyện đó từ rất lâu rồi.”
“Có lẽ nếu ngài có thể cầm cự đủ lâu thì ngài sẽ chứng kiến được cái ngày một người nào khác làm việc đó hộ mình.”
Anglessey gằn giọng. “Những kẻ đáng chết thì lại hiếm khi chết sớm lắm.”
Ông phóng tầm mắt qua nghĩa trang nhìn ra xa, tới tận những ô cửa sổ tò vò của nhà thờ đá lâu đời đang phản chiếu lại ánh trăng nhàn nhạt trên cao. “Cả tối nay ta đã ngồi đây, tự hỏi không biết mọi chuyện sẽ như thế nào nếu như ta sinh muộn ba mươi năm - hoặc là nếu như Guinevere được sinh ra sớm hơn ba mươi năm. Ngài nghĩ liệu nàng có đem lòng yêu ta không?”
“Phu nhân yêu ngài. Tôi nghĩ rằng trong những năm tháng cuối cùng, phu nhân đã kịp nhận ra rằng ngài đã trao cho phu nhân thứ mà mình chưa từng nhận được từ bất kì ai khác trong suốt cuộc đời của cô ấy.”
Anglessey lắc đầu không hiểu. “Đó là thứ gì?”
“Tình yêu không chút ích kỉ.”
Đôi mắt ông gần như nhắm chặt lại trước một nỗi đau thấu tận tâm can. “Ta đã rất ích kỉ. Nếu như ta không ám ảnh với chuyện kiếm người thừa kế đến thế - nếu như ta không đẩy nàng ấy trở lại vòng tay của cậu trai trẻ kia một lần nữa - nàng ấy đã không phải chết như thế này.”
“Ngài đâu thể biết chắc được điều đó. Có thể tôi không tin vào Chúa, nhưng tôi đã học được cách tin rằng trên đời này vẫn luôn có một số điều đã được định sẵn. Những thứ đó tự xảy ra theo cách mà chúng ta không thể nào hiểu được.”
“Chẳng phải đó chỉ là một cách khác để diễn tả Chúa thôi sao?”
“Cũng có thể,” Sebastian nói. Đột nhiên anh cảm thấy thật mệt mỏi. Anh tha thiết cần ôm lấy Kat trong vòng tay mình. Giữ cô được an toàn và gần mình mãi mãi. “Có lẽ là thế thật.”
Anh tới bên cô trong màn đêm tĩnh lặng, khi cỗ xe ngựa cuối cùng đã bỏ lại phố xá phía sau và mặt trăng chỉ còn là chút hình ảnh mờ nhạt trên đường chân trời xa xăm. Kat khó chịu cựa mình trong cái nóng bất thường của buổi đêm, cô mở mắt và nhìn thấy Devlin bên cạnh mình.
“Lấy ta đi, Kat,” anh nói, tay anh run run vén những lọn tóc dính trên vầng trán ướt mồ hôi của cô.
Cô nhìn ngắm gương mặt anh trong ánh trăng đang dần tàn lụi, nhìn cho tới khi hy vọng bắt đầu phai mờ dần và sự đau đớn khẽ khàng len lỏi xâm lấn. Và rồi khi không còn chịu đựng được nữa, cô ngả người vào lòng anh, trán tựa vào vai anh để không còn nhìn thấy được vẻ mặt anh và để anh cũng không biết được gương mặt cô đang bộc lộ những cảm xúc gì. “Em không thể. Có những chuyện về em mà chàng không hề hay biết. Những chuyện mà em đã làm.”
“Ta không quan tâm nàng đã làm ra những chuyện gì.” Anh luồn tay qua mái tóc cô, ngón tay cái đặt dưới cằm nâng gương mặt cô lên. “Không có việc gì nàng từng làm có thể khiến ta...”
Cô ấn đầu ngón tay mình lên môi anh, ngăn không cho anh nói tiếp. “Đừng. Chàng không thể chắc chắn như vậy khi còn chưa biết đó là chuyện gì được. Và em thì lại không đủ dũng khí để nói cho chàng biết.”
“Ta biết rằng ta yêu nàng,” anh nói, đôi môi anh chuyển động dưới những ngón tay của cô.
“Vậy hãy cứ coi như thế là đủ rồi đi. Làm ơn, Sebastian, hãy coi như thế là đủ.”
Sau khi ném cái mũ và đôi găng tay lên một chiếc bàn đặt trong đại sảnh tối om, Jarvis đi vào phòng đọc sách, thắp sáng một cái giá nến rồi rót cho mình một ly rượu Brandy.
Mỉm cười hài lòng, ông cầm ly rượu trong tay rồi ngồi xuống chiếc ghế cạnh lò sưởi. Nhưng sau đó, ông lại đặt ly rượu còn nguyên sang một bên và lấy chiếc vòng cổ bằng bạc với mặt đá xanh của phu nhân Hendon từ trong túi ra.
Luồn những ngón tay qua sợi dây chuyền, ông giơ nó ra phía có ánh sáng, mặt đá xanh dưới lớp họa tiết ba nhánh cong đồng tâm bằng bạc đung đưa qua lại trong không khí, khẽ khàng vẽ ra những vệt sáng hình vòng cung. Rõ ràng truyền thuyết xung quanh nó đều chỉ là chuyện hoang đường, trí tuệ của ông khẳng định chắc chắn điều đó. Vậy nhưng ông vẫn cứ có cảm giác rằng mình cảm nhận được sức mạnh của nó. Cảm nhận được, nhưng không nắm giữ được.
“Cha?”
Xoay đầu lại, ông nhìn thấy cô con gái của mình, Hero, đang đứng ngoài cửa. Ông nắm chặt tay lại, giữ chiếc vòng khỏi đong đưa nữa.
“Sao cha vẫn còn thức?” cô hỏi, tiến vào phòng. Trong bộ đầm dạ tiệc bằng lụa sa tanh màu trắng cô chọn để mặc tham dự buổi đại tiệc của Hoàng tử, với ánh nến êm dịu như tráng một lớp vàng kim lên làn da cô, mái tóc được uốn thành sóng ôm lấy gương mặt, trông cô lại có chút gì đó gần như có thể nói là vô cùng xinh xắn.
Jarvis đặt chiếc vòng cổ lên bàn rồi vươn tay lấy ly rượu của mình. “Ta chỉ định uống một ly Brandy trước khi đi ngủ thôi.”
Ánh mắt cô chuyển xuống chiếc vòng cổ bên cạnh ông. “Trông nó thật đặc biệt,” cô nói rồi cầm nó lên trước khi ông kịp ngăn cản con gái.
Cô giữ lấy nó trong lòng bàn tay khum khum. Ông quan sát vẻ mặt của cô dần biến đổi, đôi môi cô hé mở ra, hai mày nhíu lại.
“Sao vậy?” ông không hề định hỏi cô bằng một tông giọng gay gắt đến thế. “Có chuyện gì vậy con?”
“Không, chỉ là...” Cô run run, khẽ cười. “Nghe thì thật buồn cười nhưng cứ như thể con cảm thấy nó đang ấm dần lên trong tay mình vậy.” Cô ngẩng đầu lên nhìn ông. “Chiếc vòng này của ai vậy cha?”
Jarvis ngửa đầu, một hơi chậm rãi uống cạn ly rượu rồi đặt nó lên bàn. “Ta nghĩ rằng nó là của con.”