Ung thư được coi là nguyên nhân phổ biến thứ hai gây tử vong cho người Mỹ. Theo Hội Ung thư Hoa Kỳ, ước tính năm 2010 tại nước này có tổng cộng 1.529.560 ca ung thư mới được phát hiện và 569.490 người chết vì ung thư. Ba loại chẩn đoán ung thư phổ biến nhất ở nam giới là ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi, ung thư đại trực tràng. Ba loại ung thư dẫn đầu ở nữ giới là ung thư vú, ung thư phổi và ung thư đại trực tràng.
Viện Ung thư Quốc gia (NCI) của Mỹ đã liệt kê 10 loại ung thư gây tử vong hàng đầu (giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2007) như sau:
1. Ung thư phổi và phế quản: 792.495 sinh mạng
2. Ung thư đại trực tràng: 268.783 sinh mạng
3. Ung thư vú: 206.983 sinh mạng
4. Ung thư tụy: 162.878 sinh mạng
5. Ung thư tuyến tiền liệt: 144.926 sinh mạng
6. Bệnh bạch cầu: 108.740 sinh mạng
7. U lympho không Hodgkin: 104.407 sinh mạng
8. Ung thư gan và ống mật trong gan: 79.773 sinh mạng
9. Ung thư buồng trứng: 73.638 sinh mạng
10. Ung thư thực quản: 66.659 sinh mạng
Dù trình độ y học của bạn ra sao, thì dường như bạn có thể nói không sợ sai rằng ung thư đang giết chết chúng ta với số lượng kỷ lục. Bất chấp hàng triệu người đã thiệt mạng và hàng tỉ đô la chi cho nghiên cứu, thì tỉ lệ ung thư vẫn không suy giảm.
Và vấn đề đi sâu xa hơn so với việc chúng ta đơn giản là không hiểu được nguyên nhân gốc rễ của ung thư hay cách chữa trị tốt nhất. Bác sĩ Samuel S. Epstein, trong cuốn sách của mình có nhan đề National Cancer Institute and American Cancer Society: Criminal Indifference to Cancer Prevention and Conflicts of Interest (Viện Ung thư Quốc gia và Hội Ung thư Hoa Kỳ: Sự thờ ơ mang tính tội ác đối với việc phòng ngừa ung thư và các xung đột lợi ích), đã chứng minh rõ ràng rằng phần lớn trách nhiệm về tình trạng ung thư ngày càng tăng trong xã hội thuộc về Viện Ung thư Quốc gia (NCI) và Hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) – hai trong số những tổ chức được chính phủ Mỹ hỗ trợ (do đó bằng tiền thuế của dân Mỹ) và được trao nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến chống ung thư của nước Mỹ – hai cơ quan đầy rẫy những xung đột lợi ích và đang ém giữ quá nhiều thông tin có giá trị có thể thực sự giúp người Mỹ phòng ngừa và điều trị ung thư. Thật vậy, quãng một nửa ban lãnh đạo ACS là các bác sĩ và nhà khoa học có mối quan hệ chặt chẽ với NCI, nhiều người còn ăn lương cả hai bên.
Kết quả thì sao? Tiền của chính phủ liên bang và các quỹ từ thiện chi cho nghiên cứu ung thư đã tăng 25 lần, từ 220 triệu đô la năm 1971 lên tới 4,6 tỷ đô la năm 2000. Tuy nhiên, dù chủ tịch NCI Andrew von Eschenbach có lớn tiếng hứa hẹn vào năm 2003 rằng đến năm 2015 sẽ đẩy lùi được đau đớn và tử vong do ung thư, thì tỷ lệ mắc ung thư vẫn tăng khoảng 18% và không có dấu hiệu chậm lại.
Kết quả là ung thư ảnh hưởng gần như đến một nửa số nam giới và hơn một phần ba số nữ giới; tuy nhiên, hàng tỉ đô la tiền thuế và tiền từ thiện dùng để nghiên cứu ung thư hầu hết chỉ đổ vào việc điều trị, hầu như không có nghiên cứu nào về phòng ngừa. Ngạn ngữ có câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, nhưng hiểu biết thông thường xưa nay về ung thư lại nói với chúng ta điều ngược lại.
Điều này một phần do lợi nhuận khủng mà các công ty dược phẩm và thiết bị y tế thu được từ việc duy trì thái độ “chữa bệnh hơn phòng bệnh” đối với ung thư, cũng như không sẵn lòng giải quyết nguyên nhân ung thư vượt ra ngoài chọn lựa lối sống của mỗi cá nhân. Nói cách khác, mặc dù người ta có thể thừa nhận các yếu tố như hút thuốc và chế độ ăn kém dinh dưỡng chính là vấn đề, nhưng những nguyên nhân như ô nhiễm môi trường, các chất ô nhiễm trong các sản phẩm tiêu dùng và điều trị y tế có dùng chất độc hại đang bị bỏ qua vì nó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến một số ngành kinh tế.
Khi dược phẩm được coi là cách điều trị bệnh thích hợp duy nhất, thì duy trì bệnh tình và tống cho bệnh nhân thật nhiều thuốc chính là kiểu làm ăn ngày càng hốt bạc. Về điều này, không hề bất ngờ lắm khi các phương pháp điều trị thay thế hoặc không được chấp thuận bị ngành y và các tổ chức ung thư gièm pha phỉ báng một cách có hệ thống. Càng ngày những bác sĩ tiếp tục ủng hộ các phương pháp điều trị tự nhiên và chỉ ra những lợi ích quan trọng của việc phòng tránh ung thư một cách tổng thể càng thường xuyên bị quấy rối và bị mắng mỏ là lang băm nếu họ từ chối thuận theo những hướng dẫn đầy thiên kiến của NCI và ACS. Có thể nói chắc chắn rằng FDA (Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ) đã phê chuẩn khoảng 40 loại dược phẩm điều trị ung thư nhưng chưa thừa nhận bất cứ một phương pháp điều trị thay thế không bằng sáng chế nào.
Khi nhìn vào những thực tế này, rõ ràng người duy nhất thực sự được hưởng lợi từ tình hình điều trị ung thư hiện nay là những chuyên viên y tế và những nhà vận động hành lang nắm giữ quyền lực, chứ không phải là bệnh nhân của họ. Như cựu giám đốc NCI bác sĩ Samuel Broder đã thừa nhận trong một cuộc phỏng vấn của Washington Post năm 1998: “NCI đã trở thành một công ty dược của chính phủ”. Thật vậy, chính người dân Mỹ vẫn phải nộp thuế trang trải cho những thử nghiệm lâm sàng1 tốn kém trên các loại thuốc để rồi cuối cùng phải mua chúng với cái giá rất cao. Cho dù do ưu tiên tài trợ sai lầm, bỏ sót có chọn lọc nghiên cứu mới hoặc phương pháp điều trị thay thế, hay do lấp liếm sự thật, thì bệnh nhân ung thư cũng không được những cơ quan hữu trách bảo vệ như trách nhiệm đáng ra họ phải thực hiện.
1 Thử nghiệm lâm sàng (clinical trial) là thử nghiệm trong đó những người tham gia chịu sự can thiệp nào đó (chẳng hạn, được ăn một chế độ cụ thể hay uống một loại thuốc) để những nhà nghiên cứu đánh giá tác động của sự can thiệp đó tới sức khỏe người tham gia. Nói cách khác, thử nghiệm này nhằm xác định quan hệ nhân quả giữa các yếu tố đầu vào (sự can thiệp có chủ đích) và sự thay đổi tương ứng trong cơ thể người tham gia nên tốn kém hơn xét nghiệm dịch tễ chỉ thể hiện có mối quan hệ giữa hai dữ kiện (chú thích của Ban Biên tập tiếng Việt, từ đây trở đi viết tắt là BBT).
Xét một cách toàn diện thì mấy chục năm qua, hơn bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử, xã hội chúng ta đã bị tiêm nhiễm quá nhiều nỗi sợ hãi ung thư đến nỗi khó có thể ngạc nhiên khi hầu hết bệnh nhân ung thư đều răm rắp nghe lời bác sĩ: tiếp tục tống thêm thuốc men và các chất độc hại vào căn bệnh đáng sợ của họ. Nhưng do không tập trung vào việc phòng tránh vừa đỡ tốn kém và lại ít độc hại mà chỉ chăm chú vào các phương pháp điều trị đắt đỏ và cực kỳ độc hại, nên những cơ quan có vẻ khách quan như NCI đã trầm trọng hóa vấn đề mà họ có trách nhiệm giải quyết. Kết quả là tỉ lệ chẩn đoán ung thư ở mức choáng váng và tiếp tục tăng. Thêm vào đó là hàng vạn người thuộc nhóm thiệt thòi bị ung thư mà không bao giờ được chẩn đoán do họ không có khả năng mua bảo hiểm y tế hay đến khám bác sĩ theo hẹn.
Chẳng cần phải bàn cãi, bản thân ngôn từ có sức mạnh vô cùng to lớn và từ ung thư cũng không là ngoại lệ. Trong nhiều trường hợp, ung thư không chỉ là một từ mà còn là một lời tuyên bố về sự hiện diện của hành vi bất thường của tế bào cơ thể. Chỉ cần nói ra từ ung thư thôi cũng đủ để ngay lập tức gợi lên trong tâm trí những hình ảnh đau đớn và khổ sở. Găm từ này vào bất cứ người nào, tức khắc bạn có thể truyền vào tâm lý của họ nỗi sợ hãi và căng thẳng bào mòn cơ thể.
Tuy nhiên, trong một bối cảnh khác, tên gọi ung thư (cancer) còn có nghĩa là một cung hoàng đạo trong chiêm tinh (cung Cự giải). Khi ai đó hỏi bạn ngày sinh rồi nói bạn là cung Cự giải, bạn có run lên vì sợ mình sắp chết hay không?1 Chắc chắn là không rồi vì dù theo lý giải của bạn về cung hoàng đạo thì không hề có nghĩa là bạn bị ung thư. Nhưng nếu bác sĩ của bạn gọi bạn tới phòng khám của ông ấy và thông báo bạn bị ung thư, rất có thể bạn cảm thấy sốc, bị tê liệt, chết lặng người đi, sợ hãi, tuyệt vọng hoặc tất cả những điều trên. Từ ung thư có khả năng làm cho cuộc sống của bạn rối loạn và bấp bênh, có khả năng phán quyết bản án tử hình cho bạn và, như bạn sẽ biết khi đọc cuốn sách này, nó thực ra còn có thể thi hành bản án đó – thường chỉ vì tiếng dữ của sáu chữ cái này trong xã hội đang khiếp đảm của chúng ta.
1 Ở đây tác giả chơi chữ: cancer sign vừa có nghĩa là dấu hiệu ung thư vừa có nghĩa là cung hoàng đạo Cự Giải (BBT).
Mặc dù có vẻ như ai đó bắt đầu là một bệnh nhân ung thư kể từ khi được chẩn đoán là có bệnh, nhưng nguyên nhân gây bệnh có thể đã có từ nhiều năm trước khi bệnh nhân cảm thấy không khỏe. Tuy nhiên, chỉ trong thời gian vô cùng ngắn, từ ung thư có thể đảo lộn toàn bộ cuộc sống của người đó.
Ai hay cái gì trên đời này đã ban cho từ ung thư hoặc lời thông báo bệnh đơn giản đó sức mạnh ghê gớm đến nỗi nó có thể định đoạt sự sống và cái chết? Hay nó thực sự có sức mạnh đó. Có thể nào niềm tin của tập thể, của xã hội rằng ung thư là căn bệnh chết người, cùng với những phương pháp điều trị quyết liệt, gây thương tổn sau chẩn đoán mới thực sự là nguyên nhân chính cho sự leo thang khủng khiếp của ung thư tại Tây bán cầu? Bạn có thể cho rằng nghĩ như thế là hơi quá. Tuy nhiên, trong cuốn sách này, tôi sẽ đưa ra quan điểm thuyết phục rằng ung thư không có sức mạnh kiểm soát bạn trừ khi chính niềm tin, nhận thức, thái độ và suy nghĩ của bạn về ung thư giúp nó làm điều đó.
Nếu bạn biết nguyên nhân gây ra ung thư, hoặc ít nhất hiểu được mục đích nền tảng của nó, thì bạn có còn sợ nó hay không? Chắc là không. Nếu biết được sự thật, hẳn là bạn sẽ làm mọi việc để loại bỏ những nguyên nhân của ung thư, và khi làm vậy, bạn đã đặt nền móng cho quá trình tự chữa lành của cơ thể.
Chỉ có một chút ít kiến thức thông thường – mà tôi vẫn gọi là thiếu hiểu biết – thực ra lại là một điều nguy hiểm. Hầu hết mọi người, ít nhất là trong thế giới công nghiệp hóa này, đều biết rằng uống nước từ một cái ao nhiều bùn hay hồ ô nhiễm có thể bị tiêu chảy, đe dọa đến tính mạng. Nhưng tương đối ít người nhận ra rằng cứ ôm lấy oán hận, tức giận và sợ hãi, hay tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời sẽ làm cơ thể thiếu hụt vitamin D, hoặc thường xuyên ngủ không đủ giấc, liên tục nghe điện thoại di động hàng giờ liền mỗi ngày, thường xuyên tiếp xúc với tia X, chụp nhũ ảnh (chụp quang tuyến vú), chụp cắt lớp vi tính, hoặc ăn đồ ăn vặt linh tinh, chất phụ gia và chất tạo ngọt nhân tạo, tất cả đều nguy hiểm không kém việc uống nước ô nhiễm. Mặc dù có thể phải mất nhiều thời gian hơn một chút so với bất kỳ chất độc hay con khuẩn amip nhỏ tí xíu nào đó để những thói quen đó cướp đi sinh mạng con người, nhưng chắc chắn là chúng có thể.