Nội dung cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tập trung vào các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Một cách tiếp cận khác, đây là cuộc vận động “ 4 xây, 4 chống”. 4 Xây : 1. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. 2. ý thức tổ chức kỷ luật. 3. ý thức trách nhiệm. 4. ý thức phục vụ nhân dân. 4 Chống: 1. Chủ nghĩa cá nhân. 2. Quan liêu. 3. Tham nhũng. 4. Lãng phí. Đây là sự phát triển đường lối của Đảng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là từ Nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” ( 7-1963). Gọi tắt là “ 3 xây, 3 chống”.
Nói đến vấn đề rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ giữa xây và chống; giữa nội dung này với nội dung khác. Chẳng hạn không thể có một tấm gương về chí công vô tư mà không gắn với cần kiệm liêm chính. Cũng như vậy, không thể chống được tham nhũng nếu không chống được quan liêu, vì quan liêu đẻ ra tham nhũng, lãng phí. Tuy nhiên, mỗi vấn đề xây và chống nêu trên lại có nội dung riêng, cụ thể, yêu cầu mỗi người phải tự giác rèn luyện bền bỉ hằng ngày, chỉ có như vậy mới thành người. Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người, cần chú ý nghiên cứu tổng thể tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người,vừa phải chú ý đi sâu nghiên cứu từng mặt để thấy được sự phát triển trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh gắn với từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Một trong những bài viết sớm nhất của Hồ Chí Minh về vấn đề chống tham nhũng là bài “ Đông Dương và Triều Tiên” đăng trên báo Le Populaire, ngày 4-9-1919, ký tên Nguyễn ái Quốc. Người viết: “ Trong cái xứ này do thiếu sót, hay nói cho đúng hơn, là do ý định của chính phủ, nên đâu đâu từ trên xuống dưới cũng đều có cái nạn tham nhũng mua quan bán chức, những bọn người mua bán được bằng tiền thì không phải là thứ hàng hoá hiếm” 1 . Tiếp đó, Người đã chỉ ra hết vụ bê bối này đến vụ bê bối khác của các quan cai trị chuyên ăn hối lộ và khẳng định: “ Tất cả những kẻ có quyền hành như vậy cũng đều sẽ lợi dụng để vơ vét của cải cho bản thân mình và bằng cách đó sẽ mang lại tổn thất lớn cho xã hội” 2. Những năm hoạt động ở nước ngoài, đặc biệt là ở Pháp, trong hành loạt bài viết về Đông Dương, với sự quan sát tinh tế và nhiều số liệu xác thực, Nguyễn ái Quốc đã có nhiều bài viết tố cáo tội ác chủ nghĩa thực dân, các quan cai trị về tội “ tước đoạt của một làng mấy héc ta trồng mía để cho một làng công giáo”; về cái gọi là “công lý” ở Đông Dương: có hai thứ công lý, một thứ cho người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Đối với người Pháp thì, nếu can tội tham ô, thụt tiền công quỹ và nhũng lạm vẫn được tha bổng. Trong “ Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn ái Quốc có một chương bàn về tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị. Bằng nhiều số liệu, câu chuyện có thật, Nguyễn ái Quốc đã chỉ ra rằng “ các quan cai trị đều là những ông vua con”.
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, t.1, tr. 13.
2 Hồ Chí Minh, Sđ d, t. 1, tr. 153.
Như vậy, ngay dưới thời thực dân Pháp thống trị, Nguyễn ái Quốc đã sớm phát hiện những tật bệnh của tệ tham nhũng và Người cũng sớm chỉ ra bản chất đích thực của tham nhũng là sự nhũng lạm, tức lạm dụng quyền lực để tham nhũng, bòn rút của chính phủ, hoặc của dân. Bằng ngòi bút sắc bén, Nguyễn ái Quốc cũng đã lên án, đấu tranh không khoan nhượng để chống lại thói tật tham nhũng đó. Theo Người, đã đi theo con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng Tháng Mười của Lênin thì phải có tư cách của người cách mạng; phải rèn chữ “liêm”, không hiếu danh, ít lòng tham muốn về vật chất. Đây là những căn dặn tâm huyết của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc từ những năm hai mươi với lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu tiên tìm tới con đường cứu nước mới, con đường cách mạng vô sản.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa ra đời, khi bàn về việc giải quyết những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước mới, Hồ Chí Minh, sau khi nhắc lại những thủ đoạn của chế độ thực dân hòng hủ hoá dân tộc ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác, nhấn mạnh rằng chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu là mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính.
Hơn hai tháng sau khi tuyên bố độc lập, ngày 23- 11-1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 64-SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và một Toà án đặc biệt có nhiệm vụ giám sát và xét xử các sai phạm của các nhân viên từ trong các uỷ ban nhân dân các cấp đến cơ quan cao nhất của chính quyền(các bộ). Một số điều chủ yếu trong Sắc lệnh:
Điều thứ nhất: Ban Thanh tra đặc biệt có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của các uỷ ban nhân dân, các cơ quan của Chính phủ
Điều thứ hai: Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền nhận các đơn khiếu nại của nhân dân. Điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của các uỷ ban nhân dân, hoặc các cơ quan Chính phủ. Đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong uỷ ban nhân dân hay của Chính phủ đã phạm lỗi. Tịch biên hoặc niêm phong các tang vật và dùng mọi cách điều tra để lập hồ sơ mang phạm nhân ra toà án đặc biệt
Điều thứ ba: Lập ngay tại Hà Nội một toà án đặc biệt để xử các nhân viên của các uỷ ban nhân dân hay cơ quan của Chính phủ do Ban Thanh tra truy tố
Điều thứ tư: Toà án đặc biệt có toàn quyền định án, có thể tuyên án tử hình. Những án tuyên sẽ thi hành trong 48 giờ 3 . Có một điều đặc biệt ở Sắc lệnh này là khi lập Ban Thanh tra, Hồ Chí Minh không chọn nhiều người mà “chọn cán bộ thanh tra như chọn cái gương để người ta soi mặt, gương mờ thì không soi được 4. Và Ban Thanh tra có quyền lực tối cao, không phụ thuộc vào các cấp chính quyền, để thanh tra khách quan, chính xác, không lọt lưới.
3 Xem: Tạp chí Xưa và Nay, số 81, tháng 11-2000.
4 Ban Thanh tra lúc đó có hai người là Bùi Bằng Đoàn và Cù Huy Cận
Bốn ngày sau khi ký Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và Toà án đặc biệt, Hồ Chí Minh lại ký tiếp Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Cuối năm đó, khi giao cho đồng chí Lê Giản phụ trách ngành công an (Ty Liêm phóng), Người đã dặn rằng, chú phụ trách ngành này là phải “thiết diện vô tư”, tức là mặt sắt không thiên vị. Nếu chú không “thiết diện vô tư” thì Bác sẽ “thiết diện vô tư” đối với chú. Như vậy, chỉ trong vòng 3-4 tháng sau ngày tuyên bố nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh đã tập trung cao độ cho vấn đề chống tham nhũng, một trong những vấn đề lớn liên quan tới sự sống còn của chế độ mới.
Bước sang năm 1946, tình hình càng phức tạp hơn. Liên kết chặt chẽ với kẻ thù bên ngoài, kẻ thù bên trong không chỉ là bọn phản quốc, bọn gián điệp, bọn cơ hội, mà còn là bọn tham ô tìm mọi cách phá hoại chúng ta. Theo tinh thần Hồ Chí Minh, thù trong nguy hiểm hơn giặc ngoài, vì nó phá từ trong phá ra, và có thù trong thì giặc ngoài mới khai thác được. Kẻ thù này, theo cách nói của Lênin, sớm muộn sẽ huỷ diệt chúng ta; rằng không ai bôi lọ được người công sản trừ chính những người cộng sản tự bôi lọ. Đứng trước tình hình khẩn cấp đó, khi các tân văn ký giả ngoại quốc hỏi, Người đã đem câu trả lời công bố ra cho đồng bào trong nước và nhân sĩ các nước ngoài đều biết. Người khẳng định “ nếu cần có đảng phái thì sẽ là đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”. Trong trường hợp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ngang hàng kẻ tham ô với kẻ phản quốc. Và hai tội danh này đều xếp vào khung hình phạt tử hình theo Quốc lệnh 10 điều thưởng và 10 điều phạt ngày 26-1-1946 do Hồ Chí Minh ký.
Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, Hồ Chí Minh trăn trở với vận nước, với “nền dân chủ mới chưa hoàn toàn”. Năm tháng sau khi tranh được quyền độc lập, Hồ Chí Minh đã có bài “tự phê bình” trên báo Cứu quốc số 153, ngày 28-1-1946. Sau khi khẳng định Chính phủ có làm được một số việc, Hồ Chí Minh đau lòng thừa nhận rằng “tuy nhiều người trong ban hành chính làm việc tốt và thanh liêm, song cái tệ tham ô, nhũng lạm chưa quét sạch”. Đây là lần đầu tiên trong chế độ mới, Hồ Chí Minh dùng hai từ “nhũng lạm” với nghĩa lạm dụng quyền lực để tham nhũng. Người lạm dụng quyền lực thì trước hết phải có quyền lực. Vậy thì ai là những người có quyền lực? Theo Hồ Chí Minh, đó chỉ có thể là những người làm việc trong các công sở, cán bộ các cơ quan, các đoàn thể. Và quyền lực ở đây được đặt trong mối tương quan giữa cán bộ công chức với nhân dân. Người dân không thể có quyền hành, quyền lực; chỉ có cán bộ công chức mới có quyền hàn, quyền lực. Người viết: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính, thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” 5 .. Sau này Người lại viết: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư” 6.
5 Hồ Chí Minh, Sdd, t.5, tr.104.
6 Hồ Chí Minh, Sdd, t.5, tr.641.
Những chuyện về ăn hối lộ, tham nhũng trong Chính phủ đã được Quốc hội nước ta lúc bấy giờ hết sức quan tâm. Đặc biệt là sau vụ Chu Bá Phượng, Bộ trưởng Bộ kinh tế trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến, là đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng, thành viên trong đoàn Chính phủ ta dự Hội nghị Fontainbleau, bị các nhà chức trách Pháp bắt được vì mang vàng đi buôn. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I (11-1946), có đại biểu Quốc hội đã chất vấn Chính phủ về vụ việc này. Thay mặt Chính phủ, Bác Hồ đã trả lời thẳng thắn rằng, “Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong chính phủ, từ Hồ chí Minh đến những người làm việc ở các uỷ ban làng, đông lắm, phức tạp lắm. Dù sao, Chính phủ đã hết sức làm gương, và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ hết”.
Từ 30-5 đến 2-6 năm 1949, Hồ Chí Minh đã viết 4 bài báo Cần, Kiệm, Liêm, Chính đăng trên báo Cứu quốc. Liên quan tới vấn đề chống tham nhũng là chữ “Liêm”. Vì Liêm là trong sạch, không tham lam. Đọc kỹ bài báo “Liêm” của Bác, thấy Người lý giải có nhiều loại người, loại việc biểu hiện bất liêm, nhưng đặt lên hàng đầu là hạng người tham địa vị, tham danh tiếng. Người cán bộ cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư là bất liêm. Với bài báo này, thêm một lần nữa, Bác cho ta thấy mối liên hệ giữa cán bộ- quyền thế- đục khoét dân- ăn của đút- trộm của công. Rõ ràng, vấn đề tham nhũng trước hết là “câu chuyện” của cán bộ công chức. Tinh thần này, hơn nửa thế kỷ sau, được phản ánh trong Luật Phòng chống tham nhũng (29-11-2005) khi định nghĩa “tham nhũng là hành vi của cán bộ, công chức nhà nước lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi”.
Theo Hồ Chí Minh, tham ô, tham nhũng là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đệ tiện nhất của con người. Vì như Cụ Khổng Tử nói: “người không liêm, không bằng súc vật”. Cụ mạnh Tử nói: “ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”. Vì vậy theo Hồ Chí Minh, muốn chống tham nhũng, thực hành chữ liêm, cần có tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hành chữ liêm. Đặc biệt, “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì” 7.
7 Hồ Chí Minh, Sdd, t. 5, tr.641.
Bước vào thập kỷ năm mươi, để tập trung mọi khả năng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công tác chỉnh Đảng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, nghiêm minh với tội hối lộ. Ngày 24-1-1952, khi viết về “sự nghiệp vĩ đại của Lênin”, Người đã nhắc tới tính nghiêm khắc của Lênin trong việc xử bọn ăn hối lộ: “Đối với tệ tham ô hủ hoá, Lênin rất nghiêm khắc. Có một lần Toà án Mạc Tư Khoa xử nhẹ một vụ ăn hối lộ, Lênin liền viết trong một bức thư: “không xử bắn bọn ăn hối lộ mà xử nhẹ như thế, là một việc xấu hổ cho những người cộng sản, những người cách mạng” 8 . Trong kháng chiến chống Pháp (9-1950), Bác Hồ- dù rất đau lòng- vẫn đã y án tử hình Trần Dụ Châu, đại tá, Cục trưởng Cục quân nhu, phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn, bớt xén phần cơm áo của của bộ đội để sống trác táng, truỵ lạc. Tâm sự của Bác với Trần Đăng Ninh trước khi ký bác đơn chống án của Trần Dụ Châu: Với loài sâu mọt đục khét nhân dân, nếu phải giết đi một con mà cứu được cả rừng cây, thì việc đó là cần thiết, hơn nữa là nhân đạo 9.
8 Hồ Chí Minh, Sdd, t.6, tr. 386.
9 Xem: Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX.02, Đề tài KX.02.13: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật (bài của PGS. Song Thành: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh- sự thống nhất giữa “đức trị” với “pháp trị”), Bộ Tư pháp- Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, 1993, tr.214.
Nhìn chung lại, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có nhiều nội dung, nhưng việc nghiên cứu Hồ Chí Minh với vấn đề chống tham nhũng là hết sức cần thiết. Bởi vì, tiêu cực có nhiều biểu hiện, trong đó tham nhũng là điểm nóng. Chống được tham nhũng theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh là xoá đi một trở lực trên con đường phát triển của dân tộc, thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, ý thức chính trị của Đảng trước dân tộc vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.