• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Vắt qua những ngàn mây
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 33
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 33
  • Sau

11Lên Mẫu Sơn uống trà shan tuyết

Nhiều người dân xứ Lạng khi được hỏi về trà shan tuyết vẫn đoan chắc là nó chỉ có ở mạn ngược Sơn La, Yên Bái, Hà Giang, Điện Biên…

Hành trình lên núi cao tìm những vùng trà shan tuyết cổ thụ của tôi rẽ ngang bằng một buổi trà dư tửu hậu ở nhà một người bạn ở Thành phố Lạng Sơn.

Theo dấu “trà bơ”

Anh Nguyễn Chí Thức, sinh năm 1977, Phó Chánh văn phòng Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lạng Sơn, biết tôi mê trà nên kể câu chuyện trà bơ. Chuyện rằng năm 1999, sau khi tốt nghiệp khoa Địa lí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, về dạy học ở huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, một hôm anh Thức được một người đồng nghiệp khoe: “Hôm nay tôi đi chợ về, có trà bơ ngon lắm!” và mời anh sang phòng uống. Anh cứ thắc mắc mãi không hiểu là người ta sao trà với bơ như thế nào. Sang phòng của người bạn, anh được mời uống thứ trà rất thơm và đậm, uống xong nuốt nước bọt cũng thấy ngọt và đặc biệt là không thấy mùi bơ. Nhúm ít trà, anh thấy lạ vì búp trà to hơn những loại trà mà anh vẫn uống. “Tôi hỏi người bạn tại sao lại gọi là trà bơ, anh ấy giải thích là trà do bà con dân tộc ít người mang từ núi xuống chợ bán. Ai mua thì lấy ống bơ đong trà, thế nên người ta mới gọi là trà bơ”, anh nhớ lại.

Quá thú vị với chuyện của anh Thức, tôi tìm lên Lộc Bình, ngược Mẫu Sơn, mái nhà của tỉnh Lạng Sơn. Mẫu Sơn là vùng núi cao chạy theo hướng đông tây, nằm ở phía đông bắc tỉnh Lạng Sơn thuộc địa phận xã Mẫu Sơn, xã Công Sơn của huyện Cao Lộc và xã Mẫu Sơn của huyện Lộc Bình, nằm cách thành phố Lạng Sơn 30km về phía đông, giáp với biên giới Việt - Trung. Vùng núi này có địa hình đa dạng, độ cao trung bình từ 800m đến 1.000m so với mực nước biển, bao gồm một quần thể 80 ngọn núi lớn nhỏ với đỉnh cao nhất là Phia Po, cao 1.541 m, còn gọi là đỉnh Công hay Công sơn - nơi đặt cột mốc 42, biên giới Việt - Trung. Người dân sống rải rác gần khu rừng trồng, thuộc vành đai thấp với độ cao không quá 700m so với mặt nước biển. Vùng núi này là nơi cư trú của các dân tộc Dao, Nùng, Tày. Vùng núi Mẫu Sơn có khí hậu hai mùa rõ rệt. Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình từ 7,2 độ C đến 13,2 độ C, nhiệt độ cao tuyệt đối là 24 độ C, có năm có tuyết rơi. Mùa hè từ tháng 4 đến tháng 10, thường có mưa nhiều. Lượng mưa trung bình 2.225,3mm/năm. Nhiệt độ trung bình 16 - 20,9 độ C, nhiệt độ cao tuyệt đối là 24 độ C (vào tháng 7). Hệ thống sông suối trong vùng khá dày. Phía bắc có suối Pắc Đây, Làng Kim, Co Khuông, Khuổi Phiêng, Khuổi Luông. Phía nam có Khuổi Lầy, Khuổi Tẳng, Khuổi Cấp, Na Mìu, Lặp Pịa, Bản Khoai. Độ ẩm không khí cao, 92%. Lưu lượng thủy văn biến đổi nhiều, mùa đông chỉ chiếm 10% - 20% lưu lượng thủy văn cả năm.

Vùng núi Mẫu Sơn có tổng diện tích hơn 10.740 ha, trong đó có 5.380 ha đất lâm nghiệp và 1.543 ha rừng nguyên sinh, với nhiều loại cây quý hiếm. Những loài thực vật thường gặp đặc trưng thích nghi với thổ nhưỡng và khí hậu của vùng có họ trà, họ tre nứa, đặc biệt là loại trúc sặt phát triển rất ổn định và cho năng suất cao. Ngoài các khu rừng nguyên sinh, với đặc điểm khí hậu và địa hình thuận lợi, Mẫu Sơn là vùng có điều kiện rất phù hợp để phát triển trang trại trồng cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm kết hợp trồng rừng.

Rong xe máy uốn lượn trên những cung đường phủ đầy sương lạnh, một bên là vách núi dựng thành, một bên là vực sâu hun hút, tôi lên đến đỉnh Mẫu Sơn thì người đã rã rời. Thấy một sạp hàng bày bán mấy loại sản vật núi rừng: măng ớt ngâm quả mắc mật, thuốc nam, chanh rừng…, tôi tạt vào hỏi trà shan tuyết. Bà chủ cười vui vẻ bảo: “Vừa pha một ấm đấy. Anh vào uống đi!” Nhấp chén trà nước vàng sậm như mật ong, thơm lừng, chát ngọt, giở túi trà ra xem thì thấy toàn những búp mập mạp, lông tơ trắng muốt. Tôi mừng như bắt được vàng!

Theo chỉ dẫn, tôi đến xã Công Sơn, huyện Cao Lộc. Xã Công Sơn nằm liền kề xã Mẫu Sơn, là vùng đất có khí hậu ôn hòa, mát mẻ quanh năm. Có đến 90% diện tích là đất rừng đồi. Xã Công Sơn gồm có chín thôn là Cốc Tranh, Lục Bó, Phiêng Luông, Khuổi Tao, Đông Chắn, Pác Đây, Nhọt Nặm, Ngàn Pặc, Thán Dìu, là nơi sinh sống của người dân tộc Dao thuộc ngành Lô Gang. Đến thôn Ngàn Pặc, tôi thấy ngay bên vệ đường những cây trà shan tuyết cao hơn mái nhà, thân chỗ mốc thếch như da trăn, chỗ phủ đầy rêu xanh và địa y trắng, đỏ, đường kính thân có cây rộng gần một mét, lá to như lá đa, búp đần đẫn phủ đầy lông tơ trắng muốt. Thấy một nhà nằm ở lưng chừng núi trước sân mọc đầy những cây trà cao nghễu nghện, tôi bỏ xe máy lội bộ theo những đường mòn ngoằn ngoèo, đất đá lổn nhổn, bê bết bùn đất tiến lên. Ngay bên hiên nhà, một bà lão đang vừa ngồi nhặt trà vừa sao. Bà Dương Mùi Pham, 83 tuổi, cho biết: “Nhà nhiều trà lắm, cây cao từ 30m đến 50m, cao hơn mái nhà, mọc đầy quanh nhà và trên núi Cha, núi Mẹ, đi bộ lên hái mất nửa ngày. Nhiều cây cao quá không trèo lên hái được.” Hái trà về bà sao bằng chảo gang, vò bằng tay. Sao được trà, các con bà mang xuống gửi bán ở các sạp hàng ở khu du lịch Mẫu Sơn với giá 150.000 đồng/kg, một phần để gia đình uống. Bước vào đến cửa nhà bà Pham tôi đã thấy hương trà dậy lên thơm nức, chứng tỏ bà đánh hương rất tốt. Nhúm thử một ít trà, tôi thấy búp và cánh dẹt chứ không xoăn, là bởi khi vò, bà lấy hai bàn tay xoa nhẹ chứ không vò mạnh tay. Pha một ấm, tôi gật gù vì nước vàng sậm và hậu ngọt.

Đến thôn Thán Dìu, tôi gặp ông Triệu Sáng Sinh là một người làm trà có tiếng. Ông cho biết tháng Hai âm lịch người Dao ở đây bắt đầu làm trà vụ xuân, trà vụ hè - thu hái vào tháng Năm âm lịch đến tháng Tám âm lịch. Đó là tính những cây mọc trên rừng, còn những cây mọc quanh nhà thì tùy, cứ thấy búp thì hái về sao. Trà ở đây sạch hoàn toàn vì bà con không chăm bón gì, cứ để mặc cây luồn bộ rễ chắc, khỏe xuống tầng đất pha đá để hút chất dinh dưỡng, vươn cành lá lên trời cao mà uống sương, vờn gió.

Chậư nặm, phong tục uống trà độc đáo

Thường thì những nơi có cây trà, có nghề trà sẽ có phong tục uống trà độc đáo. Tin vậy nên suốt mấy ngày lội suối băng rừng đi tìm cây trà và xem người dân sao trà, tôi đều để ý và hỏi xem cách người dân ở đây uống trà có gì đặc biệt. Cuối ngày thứ ba của cuộc hành trình, tôi đang ở nhà một người dân ở thôn Lặp Pịa, xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, thì một anh trung niên đi vào hỏi chủ nhà xem có hồi không để anh mua. Trong lúc uống trà, tôi hỏi thì anh cho biết tên là Hoàng Văn Sự, sinh năm 1964, người Tày ở thôn Bản Tẳng, xã Bằng Khánh, huyện Lộc Bình. Hỏi về phong tục uống trà, tôi mừng rỡ khi anh Sự cho biết người Tày ở Lạng Sơn có phong tục chậư nặm.

Chậư nặm tiếng Tày có nghĩa là mời uống nước, cụ thể là nước trà. Đây là nghi lễ không thể thiếu được trong đám cưới xưa. Nghi lễ được thực hiện bởi cô dâu và chú rể mới. Cô dâu chậư nặm tại nhà chồng, chú rể chậư nặm tại nhà vợ. Nghi lễ này được thực hiện khi đám cưới đang tiến hành, khi đã làm lễ gia tiên, cô dâu chú rể đã được tổ tiên, họ hàng chấp thuận, khách dự đám cưới đang vui tiệc. Thực hiện nghi lễ chậư nặm phải có một người thân có uy tín trong gia đình dẫn dắt, giới thiệu. Chậư nặm theo thứ tự từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Bắt đầu từ các cụ bề trên đại diện cho hai họ của gia đình, tiếp đó mời đến bố mẹ đẻ, anh em của bố mẹ, rồi đến họ hàng, hàng xóm láng giềng thân thiết, ra đến bạn bè… Theo anh Sự, hiện nay, các đám cưới của người Tày ở huyện Bình Gia, huyện Bắc Sơn, huyện Lộc Bình… của tỉnh Lạng Sơn vẫn thường xuyên diễn ra nghi lễ này. Có nơi, người ta còn làm riêng những ngôi nhà bằng tre nứa để dành riêng cho chậư nặm.

Bà Lộc Bích Kiệm, nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa dân gian - Phó Chủ tịch thường trực Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn, cho biết: “Nghi lễ chậư nặm thực chất là sự trình diện và nhận diện của cô dâu chú rể với gia đình, họ hàng, khách quý. Nó còn thể hiện niềm hạnh phúc lớn lao của ông bà, cha mẹ, người thân khi con cháu trưởng thành. Nó cũng thể hiện lòng kính trọng, biết ơn của cô dâu chú rể với ông bà, cha mẹ, người thân khi đã chính thức thành con cái của gia đình, dòng họ. Chậư nặm không thuần túy chỉ là mời uống nước, nó là sự trân trọng đối với gia đình, họ hàng, người thân. Nó giúp đôi trẻ nhận thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của người con khi đã đến tuổi trưởng thành. Nó đánh dấu cột mốc quan trọng khi con người thực sự bước vào cuộc sống gia đình. Theo đó nhiều ý nghĩa nhân văn được mở ra. Chính vì thế mà cả hai phía cô dâu chú rể và người thân được mời nước đều thấy thiêng liêng, hạnh phúc”.