Trà nước đỏ và ngọt, nhân dân vùng này rất ưa thích, người ta cũng đặt cho loại đặc sản này cái tên trà Vân.
Mười năm đằng đẵng tôi mới tìm được thứ trà đặc sản ấy.
Đỏ mắt mong trà đỏ
Cuối năm 2002, tình cờ quen một giáo sư khảo cổ, hàng xóm của bác tôi, tôi biết về loại trà Vân. Vị giáo sư ấy kể trong thời gian từ năm 1967 đến năm 1973, lúc đi gần hết 600 hòn đảo ở huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh để khai quật khảo cổ, ông được nếm một loại trà ngon, nước đỏ và ngọt. Ông chỉ vẽ: “Làng Vân là tên cổ của thôn Sơn Hào, xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Thôn ở phía đông núi Vân, bao quanh vụng Cống Cái, đỉnh cao nhất đảo này. Núi Vân sừng sững, cao ngất tận mây trời nên người xưa đặt cho cái tên ấy. Tên của quả núi trung tâm tiêu biểu cho cả vùng kỳ quan này đã được dùng để đặt tên đảo, tên làng, tên tổng, tên trấn, tên châu, và cả tên đặc sản địa phương. Làng dưới núi Vân gọi là làng Vân, đảo có núi Vân gọi là đảo Vân Hải, tổng có núi Vân gọi là tổng Vân Hải, rồi khi lập trang cho khách buôn ngụ cũng gọi luôn là trang Vân Đồn, khi lập châu, trấn, huyện đều lấy tên Vân Đồn để đặt. Trong các cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên, chúng ta (nhà Trần) đã đại thắng ở vùng này, chiến công đó cũng được gọi là chiến thắng Vân Đồn. Trên núi Vân có trồng một loại trà ngon. Trà này được chế biến, sao tẩm theo một kỹ thuật riêng có tại địa phương. Trà nước đỏ và ngọt, nhân dân vùng này rất ưa thích, người ta cũng đặt cho loại đặc sản này cái tên trà Vân. Về sau, nơi trồng và sao loại trà này nhiều hơn là thôn Trà Bản trên đảo Cái Bàn, nhưng sản phẩm vẫn giữ tên trà Vân. Rõ ràng Vân là cái gốc, là biểu tượng thiêng liêng, là quan hệ gắn bó, là cái đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân vùng đảo.”
Ra về sau buổi chiều ấy, tôi hứa với lòng sẽ đi tìm trà Vân về biếu ông. Ấy thế mà cứ lần nữa mãi đến vừa rồi tôi mới ra Vân Đồn được.
Đến thị trấn Cái Rồng lúc mặt trời xế bóng, hỏi tàu ra xã Quan Lạn thì người ta bảo mỗi ngày chỉ có một chuyến tàu khách đi lúc 7 giờ, về lúc 13 giờ. Trong thời gian chờ tàu, tôi lang thang quanh thị trấn. Vào các quán nước bên đường, tôi chỉ thấy món trà xanh bình thường, đến những cửa hàng đặc sản địa phương cũng không thấy bóng dáng thứ trà nước đỏ và ngọt mà người dân vùng này rất ưa thích đâu cả. Tối về hỏi thăm bà chủ nhà nghỉ đã ngót sáu mươi tuổi thì nghe một câu phũ phàng: “Chỉ biết ở xã Bản Sen người ta có làm trà, trà Vân thì tôi chưa nghe nói bao giờ”.
Lênh đênh trên biển suốt ba giờ tàu mới cập bến Quan Lạn, tôi bắt một chiếc xe lam để vào thôn Sơn Hào. Được yêu cầu chở đến chân núi Vân, anh lái xe bảo không biết núi đấy ở đâu. Tôi đành bảo anh ta chở đến giữa thôn. Đến một thôi đường ngoằn ngoèo, thấy một ông lão đang chẻ củi bên đường, tôi kêu dừng gấp.
- Bác ơi cho cháu hỏi núi Vân ở đâu ạ? - Tôi hỏi.
- Núi Vân đây rồi. - Ông vui vẻ trả lời.
- Thế chỗ nào có cây trà ạ?
- Tít trên đỉnh núi cơ.
- Thế có nhà nào làm trà Vân không ạ?
- Muốn uống trà Vân thì vào nhà tôi.
Nghe ông nói, tôi như mở cờ trong bụng.
Ông là Hứa Văn Bảy, 75 tuổi, đến ông là đời thứ tư của gia tộc sinh sống trên đất này. Vừa trò chuyện, ông vừa thoăn thoắt đôi tay tráng ấm chén pha trà. Loáng một cái ông đã đưa cho tôi chén trà nước đỏ quạch như bã trầu. Rồi ông gọi bà nhà lên kể chuyện trà cho khách. Vợ ông, bà Phạm Thị Ba, 74 tuổi, chỉ uống một loại trà đỏ từ năm 18 tuổi đến bây giờ. Xưa nhà ông bà có hai héc-ta trà trồng trên núi Vân để gia đình hái sao uống và cho bà con trong làng. Sau trồng trà không kinh tế nên gia đình mới phá dần đi để lấy đất trồng keo, bạch đàn. “Bây giờ còn độ dăm sào, đủ cho tôi hái và sao được mười mấy cân uống quanh năm”, bà Ba cho biết. Ông Bảy tiếp lời: “Ngày xưa ai cũng trồng trà để uống, nay thì đa số phát đi để trồng cây khác. Người ta cũng uống nước vối, trà xanh nhiều nên chỉ còn ít nhà làm trà đỏ.”
Theo chỉ dẫn của ông Bảy, tôi đi sang mé núi bên kia để tìm nhà bà Nguyễn Thị Ngọ, một trong hai người còn làm trà Vân để bán cho người dân trên đảo. Bà Ngọ năm nay 71 tuổi. Năm 1963 bà từ Thái Bình ra làm công nhân khai thác mỏ cát rồi ở lại đảo luôn. Thấy ở các vạt đồi núi trên đảo có cây trà mọc hoang, bà hái về sao để uống. Rồi dần dần bà đi hái quả trà già lấy hạt mang về vườn nhà trồng. Nay thì vườn trà xen dứa của bà đã có 500m2, có cây đã hơn hai mươi tuổi. Bà giảng giải quy trình làm trà: “Trà hái một tôm hai lá về phơi ngoài nắng cho dàu dàu (sờ thấy dịu tay) thì vò. Xong cho vào túi bóng ủ từ một đến hai tiếng cho phát đỏ lên thì mang vào bếp sao trên chảo gang độ hơn hai tiếng nữa là được. Trà của tôi pha được bốn nước nên dân ở đây thích mua lắm.” Bà bảo nếu trà xanh uống chát, khé cổ, lúc đói uống rất xót ruột thì trà đỏ uống không chát lại mát. Người già trên đảo không ai uống trà xanh.
Mơ ước một làng nghề
Nghe nói có người từ đất liền ra đảo hỏi chuyện trà đỏ, anh Lý Quốc Chiến, trưởng thôn Sơn Hào, liền đi tìm. Gặp nhau ở vườn trà nhà bà Ngọ, anh kéo tôi lên núi để chỉ cho xem cây trà cổ.
Đứng từ dưới nhìn lên, ngọn núi giống như hình cái oản, dốc lên thì trông như yên ngựa. Vì thế dân gian mới gọi đây là núi Mắp Oản. Leo nửa giờ lên đến đỉnh ngọn núi cao chừng gần 300m này, chúng tôi thấy có những cây trà to như cây bưởi, thân mốc thếch, cành lá sum suê mọc dọc ven suối, khe nước. Lá trà đỏ to, dài, dày và sần sùi hơn lá trà xanh. Anh Chiến bảo ông nội anh là Thang Nhật Trọng (gia tộc anh là người Sán Dìu, vốn họ Thang, đến đời bố anh mới đổi sang họ Lý) rất đam mê cây trà. Không chỉ lên khu Mắp Oản cũng như các đỉnh núi trên đảo tìm những cây lão trà để hái mà ông còn trồng trên nương của nhà một sào trà. Nhìn cây trà là ông biết được sẽ thu hoạch được bao nhiêu cân trà khô. Ông chỉ hái trà vào tháng Giêng, tháng Hai (mùa trà xuân). Hái trà về, ông phơi, vò, ủ trong tám giờ rồi mang sao trên bếp củi, chõ sao là gốm Đông Triều (sao bằng chảo gang, chảo nhôm thì chất lượng trà giảm). Trong suốt ba giờ sao trà ấy, ông có cái ấm và phích nước sôi bên cạnh, được mẻ nào là lấy trà pha vừa để thử vừa để thưởng thức luôn. “Sáng nào ông cũng dậy sớm pha trà uống. Năm 1980 ông mất lúc 93 tuổi”, anh nhớ lại.
Các bậc cao niên kể lại, xưa kia cây trà mọc hoang trên rừng nơi núi đồi ven khe suối cao từ 150m đến 384m ở khắp đảo Vân Đồn. Thời phong kiến, trà Vân không chỉ được làm, tiêu thụ trên đảo mà còn theo tàu vượt biển vào bán tận thành tỉnh Quảng Yên (xã Quỳnh Châu, huyện Yên Hưng). Trà Vân là sản vật được các bậc quan lại, quý tộc, những người nho nhã rất ưa chuộng. Từ lúc còn nhỏ đã cùng ông nội phơi, vò, sao, uống trà nên anh Chiến cũng được truyền niềm mê đắm trà Vân. Bao năm qua, dù người dân phát trà trồng keo, bạch đàn, anh vẫn giữ lại đồi trà gia bảo. Không những thế, anh còn đi khắp vùng tìm những cây trà cổ để ghi dấu, bảo tồn. Anh ước tính toàn huyện Vân Đồn hiện có khoảng 500 héc-ta đất thích hợp để trồng trà Vân, tập trung ở các xã Trà Bản và Quan Lạn. “Nếu làm kỳ công theo đúng cách của các cụ ngày xưa, một cân trà Vân sẽ có giá 700.000 đồng. Không chỉ thế, làng nghề truyền thống sản xuất trà Vân còn là một sản phẩm du lịch độc đáo nữa. Tôi đang viết dự án để kêu gọi đầu tư”, anh Chiến cho biết.
Không biết bao giờ ước mơ của anh Chiến mới thành hiện thực để trà Vân đừng hiếm hoi như hiện tại. Bởi tôi muốn mua trà về uống và làm quà, hỏi khắp mấy nhà còn giữ nghề thì chỉ có bà Ngọ vét cho được hai cân mà bà định để dành uống Tết. Giá bán cũng chỉ mới có 120.000 đồng một kg.
Mười năm kể từ ngày được Phó Giáo sư - Tiến sĩ Khảo cổ học Đỗ Văn Ninh khai tâm, tôi mới được hạnh ngộ trà Vân. Nhưng ông đã không còn. Rót chén trà đỏ hương bay phảng phất, tôi thành kính dâng lên linh hồn ông!
“Trên núi Vân có trồng một loại trà ngon. Trà này được chế biến sao tẩm theo một kỹ thuật riêng có tại địa phương. Trà nước đỏ và ngọt, nhân dân vùng này rất ưa thích, người ta cũng đặt cho loại đặc sản này cái tên trà Vân”, Đỗ Văn Ninh, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Khảo cổ học.
Box
- Các cuộc khai quật khảo cổ đã xác định huyện đảo Vân Đồn (trước đây là Cẩm Phả) có dấu chân người đến khai thác từ hơn 14.000 năm trước.
- Toàn tỉnh Quảng Ninh ước có 669 ha trà, sản lượng 2.718 tấn/năm.
- Hái trà thật sớm vào một ngày đẹp trời, trong lúc không khí ban mai còn trong trẻo, nhẹ nhàng trên đỉnh núi, và cái hương của sương mai còn đượm trên cành lá, thì ngoài cái hương vị của trà còn thêm cái hương vị thanh tú của sương nữa (…) khí âm và dương hòa hợp với nhau mà tạo thành sương, cho nên sương là cái tinh anh của trời đất. Người nào hoặc động vật nào uống được đủ cái quỳnh tương thần bí, trong sạch, nhẹ nhàng đó có nhiều hi vọng trường sinh được. Trà là bạn của bậc ẩn sĩ thanh cao. Theo sách Trà lục thì “cái thú của trà ở sắc, hương, vị và cái phép chế trà ở chỗ tinh khiết khô ráo. Uống trà đừng nên có nhiều bạn. Vì khách nhiều quá thì ồn, mà ồn thì mất nhã thú. Độc ẩm thì gọi là u (vắng vẻ), hai người uống thì gọi là thắng (thích), ba bốn người thì gọi là thú (hứng thú), năm sáu người thì gọi là phiếm (phàm tục), bảy tám người thì gọi là thi (thi ân, bác ái)”.
(Lâm Ngữ Đường, Sống đẹp, Nguyễn Hiến Lê dịch)