• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Vắt qua những ngàn mây
  3. Trang 18

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 33
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 33
  • Sau

15Về thủ phủ gió ngàn

Từ xưa đến nay, nhắc đến việc huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm an toàn khu, là thủ đô kháng chiến, thủ đô gió ngàn, là người ta nói đến vị thế địa chính trị của vùng đất này: tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ.

Thế địa chính trị thì đã hẳn. Nhưng tôi còn có một điều đoan chắc nữa, ấy là Bác Hồ rất yêu thiên nhiên, rất am hiểu phong thủy nên nơi nào Người từng ở, chốn ấy tất phải đẹp.

Thư thái núi sông

Đến Định Hóa, mắt du khách không bao giờ ngớt thỏa thuê bởi những cảnh đẹp, lạ chuyển liên tục giữa hùng vĩ với bình yên giữa choáng ngợp và thư thái. Cấu trúc địa hình của huyện chạy dài theo hướng tây bắc - đông nam nên tạo ra diện mạo địa hình vùng lãnh thổ chủ yếu là vùng núi cao, đồi và núi đan xen, địa hình phức tạp.

Nói về lý do chọn Định Hóa làm an toàn khu, Bác từng viết:

Trên có núi, dưới có sông

Có đất ta trồng, có bãi ta chơi

Tiện đường sang Bộ Tổng

Thuận lối xuống trung ương

Nhà thoáng, ráo, kín mái

Gần dân, không gần đường.

Tôi về xóm Khuôn Tát (núi Hồng), xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên để chiêm ngưỡng cái thế đất ấy. Đây là nơi Bác Hồ ở và làm việc ba lần: ngày 20/11/1947, ngày 1/1/1948 đến ngày 7/3/1948, ngày 5/4/1948 đến ngày 1/5/1948. Lán của Bác ở nằm khuất giữa một rừng cây xanh ngắt, được bao bọc bởi ba bề núi cao là Khau Lị, Khau Vịt và núi Hồng, tựa lưng vào núi cao mây phủ rừng rậm thâm u, nhìn ra một bình nguyên bao la với suối uốn quanh, đồng lúa xanh biếc, rừng cọ, đồi trà xanh thẳm, trông thật mướt mắt. Từ lán đi khoảng 300m qua những con đường quanh co uốn lượn như dải lụa là gặp cây đa dễ đến vài ba trăm tuổi cành lá sum suê, thân rễ chằng chịt. Dưới gốc đa này, chiều chiều, Bác và anh em bảo vệ xuống đánh bóng chuyền, tập võ để giải trí và rèn luyện sức khỏe. Ngay phía dưới vài chục bước chân có một bãi đá to, phẳng, suối Khuôn Tát róc rách chảy qua, tuôn nước trong mát suốt bốn mùa. Tập võ, chơi thể thao xong, Bác và anh em bảo vệ lại xuống đó tắm giặt, câu cá. Bà Lý Thị Hoa, sinh năm 1945, người Dao, bán hàng tạp hóa ngay bên cạnh gốc đa mời tôi vào nghỉ chân, uống nước. Bà cho biết mình từ huyện Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang về Khuôn Tát ở, làm ruộng, trồng trà… từ năm 1962 đến nay. Lúc ấy cây đa đã to lắm rồi. Bà bảo hầu như ngày nào cũng có khách đến nơi này, họ đi thăm cây đa, lán và hầm của Bác, đi chơi thác, tắm suối.

Đến nay An toàn khu (ATK) Định Hóa đã có 128 điểm di tích lịch sử cách mạng, là nơi ở và làm việc của Bác Hồ, nơi đóng quân của các cơ quan trung ương để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Các điểm di tích này phân bố trên khắp địa bàn của huyện và tập trung nhiều tại các xã: Điềm Mặc (24 điểm), Phú Đình (10 điểm), Trung Lương (10 điểm), Định Biên (9 điểm)... Trong tổng số 128 điểm di tích lịch sử, có 13 điểm được nhà nước công nhận và xếp hạng di tích cấp quốc gia, 6 điểm công nhận và xếp hạng di tích cấp tỉnh, các điểm di tích còn lại đến nay đã được bộ, ngành trung ương và Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên kiểm kê và lập hồ sơ trình công nhận.

Huyện Định Hóa có nhiều phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, văn hóa đặc sắc của các đồng bào dân tộc. Nhiều di sản văn hóa đã trở nên nổi tiếng như: nhà sàn Định Hóa (hiện nay được trưng bày tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ở thành phố Hà Nội); nghệ thuật múa rối Tày Thẩm Rộc (Bình Yên) được cử đi tham dự liên hoan nghệ thuật múa rối dân tộc quốc tế (tổ chức tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ở thành phố Hà Nội); lễ hội lồng tồng được duy trì và tổ chức vào đầu xuân hằng năm để cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu; cùng với nhiều di sản văn hóa phi vật thể khác như: các làn điệu sli, lượn, then, dân ca, dân vũ và những phong tục, những sản vật và món ăn độc đáo của các dân tộc đặc trưng cho vùng Việt Bắc. Chính vì biết kết hợp với những tiềm năng ấy nên hệ thống di tích ATK Định Hóa đã phá được cái thế du lịch cứng để hướng đến loại hình du lịch mềm, bền vững.

Thơm ngát hương trà

Diện tích đất tự nhiên của huyện Định Hóa là 51.351,4 ha; trong đó diện tích đất nông nghiệp là 11.142,9 ha chiếm 21,7% tổng diện tích đất, đất lâm nghiệp là 33.595,2 ha, chiếm 65,4%, phần còn lại 6.613,3 ha là đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng. Toàn huyện có tám dân tộc, trong đó đông nhất là dân tộc Tày (chiếm 46% tổng dân số), còn lại là dân tộc Kinh, Sán Chay, Dao, H’mông… Huyện có 24 đơn vị hành chính cấp xã/ phường gồm một thị trấn và 23 xã. Tất cả các xã, thị trấn của huyện là xã ATK và huyện Định Hóa được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ”.

Bên ấm trà xanh, sạch, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, một đặc sản của Định Hóa, ông Mông Đình Tinh, Chánh văn phòng Ủy ban Nhân dân huyện Định Hóa, tâm sự: Định Hóa rất thuận lợi với thế địa chính trị khi xưa nhưng thế địa kinh tế ngày nay thì không phù hợp. Cách thành phố Thái Nguyên 50km, cách thủ đô Hà Nội 130km, không có quốc lộ chạy qua, đường sá lại quanh co nên Định Hóa rất khó phát triển các khu công nghiệp bởi chi phí vận chuyển rất cao. Thế nên huyện tập trung vào thế mạnh của mình là kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt, cây trà được chọn là cây trồng chủ lực. Hiện toàn huyện có 1.003 héc-ta trà, nông dân ở nhiều làng nghề truyền thống đã áp dụng mô hình VietGAP vào sản xuất nên trà sạch, ngon, tiêu thụ tốt.

6 giờ sáng, tôi đến xóm Quỳnh Hội, xã Trung Hội. Quả không hổ danh là làng nghề truyền thống chuyên sản xuất và kinh doanh trà. Những luống trà xanh tươi, búp mỡ màng được trồng hai bên đường đi, cạnh ruộng lúa nước, quanh ao cá của mỗi gia đình rồi vươn lên dần trên những núi đồi cao ngút, mù sương. Thấy ba người đang hông đeo sọt tre, vừa thoăn thoắt hái trà vừa ríu rít chuyện trò, cười vui trên lưng đồi, tôi thích thú leo lên. Ông Nguyễn Tất Minh đang cùng vợ và con gái hái trà. Ông làm trà từ 20 năm nay. Gia đình có một mẫu (3.600m2) đất trồng trà. Sáng tinh sương vợ chồng con cái đã lên đồi hái trà, hái đúng tiêu chuẩn một tôm hai lá. Tầm 9 giờ, nắng lên là ngừng hái để không ảnh hưởng đến chất lượng búp trà. Trà tươi mang về được tãi lên lưới căng ngang xưởng (gọi là hộc) rồi quạt để hong cho khô thì khi ốp (vò bằng máy) trà mới xanh. Vò xong thì cho trà vào tôn quay để sao bằng củi, sao suốt. Trung bình mỗi giờ sao được hai ki-lô-gam trà. “Một năm gia đình tôi hái được bẩy lứa, mỗi lứa làm được 100kg chè (trà) khô, bán được 50 triệu đồng, chưa trừ chi phí.” Trò chuyện miên man về nghề trà, tôi hỏi sốc ông Minh là trà ở đây có nhiều dư lượng thuốc trừ sâu không. Ông bình thản bảo: “Người già nhất làng tôi năm nay 95 tuổi, cả đời ông ấy làm chè, uống chè. Nếu choáng ngợt và thư

Cũng nhờ câu hỏi vui ấy mà tôi tìm ra ông tổ nghề trà Quỳnh Hội. Ông Nguyễn Bá Đại, sinh năm 1924 (mới 91 tuổi chứ không phải 95 tuổi như ông Minh nói), nhưng da dẻ vẫn hồng hào, trí tuệ minh mẫn và trò chuyện sôi nổi, vui vẻ lắm. Năm 1964, ông Đại dẫn 16 hộ gia đình (năm 1965 có thêm bốn hộ) với hơn 70 nhân khẩu từ thôn Tiên Bá, xã Quỳnh Thọ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình lên xã Trung Hội, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên làm kinh tế mới. Ông nhớ lại: “Chúng tôi được đảng ủy, ủy ban giao cho một cánh rừng rậm rạp, âm u. Có bảy quả đồi với khoảng mười lăm mẫu đất thì mất ba mẫu đồi cỏ tranh toàn sỏi đá không trồng trọt gì được, chỉ làm được đất đóng gạch. Nhưng chúng tôi kiên trì, đảng và nhà nước hỗ trợ nên cứ khai hoang dần dần. Phát rừng xong, chúng tôi trồng chè. Ông Bường, giám đốc xí nghiệp chè trong Bình Yên, lên Phú Thọ lấy quả chè giống về đưa chúng tôi ươm trồng được 12 héc-ta. Nhà nước cho vay bốn năm chè cơ bản. Một ngày công được bốn hào, mua được một cân gạo. Một quả trứng ngày đấy giá có tám xu. Trồng bốn năm là chè hái được thì chuyển sang chè kinh doanh. Chúng tôi hái chè tươi bán cho xí nghiệp. Chè loại một là bốn hào một cân, loại hai là hơn ba hào một cân.”

Tất cả các gia đình lên xã Trung Hội khai hoang đều là người một thôn Tiên Bá nên bà con sống với nhau đầm ấm, vui vẻ, đoàn kết. Bà con lấy chữ Quỳnh trong tên xã quê hương Quỳnh Thọ ghép với chữ Hội trong tên xã quê mới Trung Hội thành Quỳnh Hội để đặt tên xóm. Xóm vừa kỷ niệm 50 năm thành lập cũng là 50 năm tuổi nghề trà, cán bộ và nhân dân xã Quỳnh Thọ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình lên chung vui rất đông. Được xem là ông tổ nghề trà Quỳnh Hội, gia đình ông Đại có hơn một mẫu trà. Trước đây ông bà cùng bốn người con trai, hai người con gái cùng làm trà, nhưng từ năm 1991, bố con ông ra mặt đường mua đất làm nhà để sống và buôn bán thì số trà của nhà cho người trong xóm làm. Con trai ông là Nguyễn Quang Đạt, sinh năm 1954, đi bộ đội về làm Trưởng ban tổ chức Nhà máy chè Kim Anh, rồi lên phó giám đốc, tổng giám đốc Công ty cổ phần chè Kim Anh rồi mới về hưu.

Không chỉ Quỳnh Hội, cây trà đã tạo thu nhập khá ổn định cho người dân Định Hóa. Hiện toàn huyện có 1.003 ha, có 9 tổ hợp tác làng nghề sản xuất, chế biến trà, huyện tập trung xây dựng một số cơ sở sản xuất trà an toàn trên địa bàn theo tiêu chuẩn VietGAP, nhiều tổ hợp tác đã cho ra sản phẩm trà có chất lượng cao, có bao bì, nhãn mác, địa chỉ sản xuất cụ thể, giá bán trà đã nâng lên từ 1,5 lần đến 2 lần, giúp tăng thu nhập cho người trồng trà. Định Hóa phấn đấu trồng mới và trồng thay thế bình quân 100 ha trà/năm; đến năm 2020 diện tích trà kinh doanh là 2.500 ha, sản lượng trà búp tươi đạt trên 30.000 tấn.