1. Mấy ngày nay, cánh đồng Bàu Vá trước nhà tôi đã thành một công trường ầm ào tiếng động cơ và khói bụi. Cũng chẳng còn bao lâu nữa, cánh đồng sẽ biến mất, nhường chỗ cho những khu dân cư mới mọc lên. Rồi người ta cũng sẽ chóng quên nơi đây từng là cánh đồng xanh thoang thoảng hương thơm của các loài rau gia vị cung cấp cho các chợ ở Huế.
Trên cánh đồng này, rau răm được trồng nhiều nhất, kế đến là rau thơm. Rau răm là một loài rau phổ biến, luôn có mặt trong bữa ăn của người Việt; còn rau thơm là một loài rau của ẩm thực xứ Huế mang vị cay nồng rất dễ chịu. (Ở đây phải phân biệt rau thơm với các loài rau gia vị tương tự như rau húng, bạc hà…) Có một chi tiết khá thú vị: rau thơm chỉ trồng nhiều ở hai nơi, đó là làng rau Ngọc Hà (Hà Nội) và Huế. Nói cách khác là chỉ có chất đất ở Ngọc Hà (Hà Nội) và ở Huế mới trồng được rau thơm, còn không đất nơi nào cho ra được hương vị cay nồng rất riêng ấy.
Nghe chuyện, chợt nhớ người bạn Huế sống ở Sài Gòn, mỗi lần ra Huế ăn bún bò giò heo đều xin chủ quán dĩa rau sống thiệt nhiều rau thơm để ăn cho đã thèm. Hay mới đây, bạn lại rủ tôi qua Thành nội tìm một gánh bún bò bên đường mà theo lời kể của bạn là: “Mệ bán bún khi mô cũng cột mấy sợi lạt vô mấy cái khoanh heo và rau sống thì có rau thơm, có tía tô, kinh giới…” Tiếc là qua tìm thì quán đã không còn; có lẽ mệ đã quá già nên nghỉ bán...
2. Bữa bạn bè cấp 3 của tôi gặp mặt thầy cô giáo cũ ở Huế, cô giáo cũ đã về hưu đưa mấy lát mứt hơi lạ rồi nói: “Mấy đứa em nếm thử rồi biết mứt chi!” Đó là mứt vỏ trái thanh trà, ngọt ngọt, the the, cay cay mà theo lời cô: “Mứt ni ăn không chỉ cho vui mà còn chống cảm, ho và cả chống cái lạnh nữa...” Ăn mứt vỏ thanh trà cứ làm tôi nhớ lại mấy thứ vỏ quả, củ mà ngày trước mẹ hay muối chua để nấu canh. Trái bầu khi ăn tươi thì gọt vỏ, nhưng khi muối chua thì để nguyên cả vỏ mới ngon, quả dưa hường cũng vậy. Nhưng lạ nhất là cái món vỏ sắn muối chua. Vỏ sắn ăn tươi không được vì độc tính nhưng xắt nhỏ ra rồi muối chua thì có thể nấu canh ăn. Hồi nhỏ tôi rất thích ăn canh chua vỏ sắn, nói ngon thì hơi quá nhưng ăn cũng được, có vị riêng. Cái món canh chua vỏ sắn đó cũng lâu lắm rồi, hồi những năm 80 khi mà cả làng cùng đói kém…
Cô giáo là con gái Huế rặt, dạy môn Sử. Tiết học của cô luôn được học trò chờ đợi. Dạy hay là một lẽ, cô còn là “sứ giả” của văn hóa Huế, của ẩm thực Huế đối với lũ học trò ở một vùng quê xa ngái như chúng tôi. Cô là cô giáo đầu tiên mặc áo dài lên lớp vào những năm khó khăn ấy. Cô kể: “Áo dài cô mặc lần đầu là vào năm 1984, như một sự kiện lạ lùng của học sinh rứa, nhớ lại mà vui và cảm động rứa...” Hay có lần cô đọc bài vè về các món ăn bình dân Huế: “Hai tay bóc bánh lọc tôm/ Con mắt thì nhắm cái mồm hả ra…” là nói về chuyện ăn cay của người Huế, cay đến nhắm mắt nhắm mũi nhưng vẫn thèm.
Nếm cái vị mứt vỏ thanh trà từ tay cô làm, nghe cô kể: “Cô vẫn thường gội đầu bằng nồi nước tổng hợp hoa lá trong vườn nhà, có mùi thơm, vị cay nồng thiệt dễ chịu, bởi rứa nghỉ hưu rồi, con cái đã lớn nhưng đi mô xa mấy ngày là cứ muốn về Huế ngay!”
Chợt nhớ câu chuyện áo dài, bài vè bánh lọc ngày trước của cô giáo, tôi mới nhận ra một điều: cô giáo của lớp tôi đã làm hấp dẫn môn Sử vốn khô khan bằng chất văn của một nữ sinh Đồng Khánh - Huế xưa…