V
ùng quê xứ Huế có câu ca dao về hai thứ đặc sản: “Thuốc lá Phong Lai, khoai Thế Chí.” Sau này trong những cuộc vui bên bàn nhậu, mấy bác nông dân còn “chế” thêm: “Thuốc lá Phong Lai, khoai Thế Chí, bí Điền Môn, mướp rồn (mướp leo rào) Điền Hải, rau cải Điền Lộc...” Ngoài làng Phong Lai thuộc xã Quảng Thái, huyện Quảng Điền, các địa danh còn lại đều thuộc vùng Ngũ Điền, huyện Phong Điền - là vùng đất cát pha thịt ven sông ven phá nên phát triển trồng trọt rất thuận lợi...
Làng tôi - làng Đại Lược, xã Điền Lộc - từ xưa đến nay đã được mệnh danh là làng rau xanh. Rau cải trồng trong vườn, cả cánh đồng trước mặt làng bạt ngàn rau; mùa mưa lũ, khi cánh đồng làng bị ngập nước, dân làng mang hạt cải, hạt ngò, bầu cây mướp đắng con lên độn cát cao, trồng trong những mảnh vườn vuông vắn.
Nhớ có lần tôi cùng với một người em đồng nghiệp về quê tác nghiệp. Sau một ngày làm việc, đêm hôm đó, hai anh em nghỉ lại luôn nhà tôi ở quê. Trời vừa hé sáng, nghe lao xao tiếng người ngoài đường, đứa em đồng nghiệp vùng dậy ôm camera quay cảnh hai ôn mụ (ông bà) đang tưới rau, nhổ rau ở vườn sau rồi cảnh những phụ nữ nối đuôi nhau triêng gióng nhịp nhàng gánh rau ra chợ. Đời sống của một vùng quê trồng rau xanh cứ thế tràn vô ống kính thành một phóng sự truyền hình sinh động...
Tôi vẫn thích nhất là gánh rau xanh về chợ của mạ tôi cũng như mấy o, mấy dì trong làng mỗi buổi sớm mai. Gánh rau đó, mấy bó rau muống, cải bẹ, xà lách được xếp ở một đầu gánh; đầu kia là rau thơm, ngò, mấy bó hành hay bia-rô. Rau tuy đều có chung màu xanh cả nhưng mỗi loài rau thì lại có một màu xanh riêng đậm, nhạt khác nhau. Nếu có thêm mớ rau dền hay bông bí thì gánh rau còn có thêm màu đỏ, màu vàng nữa...
Cũng nhờ ở xứ sở của rau nên mấy quán bún bò giò heo bán trong chợ Đại Lược quê tôi như quán mụ Xuân, o Gái khác với các nơi là ở dĩa rau sống. Kêu một tô bún thì trên tô đã được rắc một lớp hành ngò xanh rồi; lại có cả một dĩa rau sống to với đầy đủ xà lách, tần ô, ngò, rau thơm; nhìn thôi đã thấy thích mắt. Mà nếu ăn hết rau thì cứ kêu thêm, sẽ có một dĩa rau đầy khác được chủ quán bưng ra với cái giọng vồn vã: “Ở mô chơ ở cái đất Đại Lược này thì rau xanh khi mô cũng có cả!”
Rau xanh nhiều nhất là dịp giáp tết Nguyên đán. Đó là thời điểm mùa lụt đã đi qua, mùa lúa thì mới cấy xong, đất đai và con người cùng thật thảnh thơi để cây cỏ đâm chồi nảy lá. Người dân trong làng chuyên công canh tác rau để bán trong dịp cuối năm mà lo tiền sắm Tết. Cuối năm, cánh đồng làng tất bật cảnh người nhổ rau, người mua rau bán rau. Rồi đến khi qua Tết, những đám cải, đám ngò hay tần ô còn sót lại để giống cho mùa sau, hoa nở tưng bừng màu vàng, màu trắng, màu tím nhạt như những bức họa đồng quê...
Mấy năm ni, mưa lụt ít về nên cánh đồng rau làng tôi gần như xanh quanh năm. Mấy bận về quê, nghe bà con ở thôn Nhất Đông, là nơi có cánh đồng rau lớn nhất trong xã, nói rằng, có người trồng rau mỗi ngày thu vô triệu bạc là thường. Trồng rau cho thu nhập cao nhưng đòi hỏi người trồng phải siêng năng, thức khuya dậy sớm chăm bón cho rau...
Nhưng cũng có năm rau xanh rẻ như cho, mỗi bó xà lách hay cải bẹ giá có ngàn bạc, một rổ ngò mơn mởn là thế mà giá cũng cỡ 5 ngàn là cùng. Mà để có một bó rau đâu phải dễ. Người đàn ông trong nhà phải chặt tre, chẻ lạt bó rau, những sợi lạt tre để bó rau ngắn, mảnh, mất rất nhiều công; cánh phụ nữ thì phải ra đồng từ chiều hôm trước để nhổ rau, chao đất ra khỏi rễ, rồi mang về nhà bó từng bó một, bán cho những người buôn chuyến đi các chợ xa hoặc gánh ra chợ làng để bán. Công việc của người phụ nữ đôi khi kéo dài đến nửa đêm mới xong được gánh rau xanh...
Nổi tiếng là vựa rau của vùng nông thôn xứ Huế nên rau xanh của quê tôi không chỉ bán ở chợ quê mà còn cung cấp cho cả thị trường Quảng Trị, Huế… Hồi trước, những gánh rau theo những chuyến đò ngược xuôi sông quê đến các chợ lớn ở chốn thị thành. Bây giờ thì đã có xe tải về tận vườn rau để thu mua. Rau luôn là nguồn thu nhập thường xuyên cho nhiều người dân quê.
Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác sung sướng của thằng bé con khi theo mạ, theo bà đi chợ bán rau những ngày giáp Tết. Trời chưa sáng nên mạ phải thắp đèn dầu nhổ rau ngoài vườn, rồi đưa vô sân bó từng bó một cùng bà nội. Cải bẹ, tần ô, xà lách, thêm mấy mớ ngò, ném, rau thơm… Tờ mờ sáng, uống xong mấy chén, ba ra vườn cắt thêm mấy nhánh lay ơn, vạn thọ, cúc đại đóa, rồi đưa vô sân để bà nội bó thành từng bó, chất lên trên mấy bó rau… Trời vừa hửng sáng, đã thấy một gánh rau xanh điểm xuyết màu vàng của bông vạn thọ, bông cúc, màu hồng của mấy nhánh lay ơn để tươm tất trước sân nhà… Tôi lon ton chạy theo sau gánh rau của bà, ra khỏi lũy tre đầu xóm thì trời đã sáng tỏ. Những con đường nhỏ từ các xóm dẫn đến chợ đi qua cánh đồng làng ngày giáp Tết là một thước phim đẹp nhiều âm sắc tôi không thể nào quên được...
Năm tháng trôi qua, dù giá rau có lên xuống thế nào thì người làng tôi vẫn chuyên tâm trồng rau trên cánh đồng quê yêu thương của mình. Những mùa rau xanh đã nuôi lớn những đứa con của làng, để họ được đi đó đi đây lập thân dựng nghiệp. Bởi thế mỗi lần về quê, đi ngang qua cánh đồng rau, tôi như được thấy lại những tảo tần của bà, của mạ tôi vẫn còn đâu đây mà nghe khóe mắt cay cay, để bao yêu thương trìu mến ùa về...