Rừng cây ở Tiểu Sa Hà
Tháng 2 năm 2010, Thiên Thiên đi học, trường học ở làng Tiểu Sa Hà ở Xương Bình, chúng tôi lại chuyển nhà.
Lúc đó Tiểu Hắc và Tiểu Sơn đều chết rồi, chúng tôi lại có hai con chó con, thêm mười con gà, ba con vịt, chúng tôi cần thuê một căn nhà trong làng.
Hôm đó chúng tôi lại đi loanh quanh trong làng, đến rừng dương ở phía bắc ngôi làng, thấy một khoảng sân đang xây dựng dở. Bên trong khoảng sân có một căn nhà, cửa sổ hướng nam, mái nhà lợp tấm a-mi-ăng, còn có cả mái hiên. Nhà được chia thành bốn gian phòng nhỏ xếp cạnh nhau, mỗi phòng đều có cửa ra vào và cửa sổ.
Chủ nhà là một cặp vợ chồng khoảng hơn bốn mươi tuổi, họ nói có thể sửa sang theo yêu cầu của chúng tôi. Chúng tôi yêu cầu xây một bể phốt to phía sau phòng, lắp đặt bồn cầu ở phòng phía đông để làm nhà vệ sinh, phòng bên cạnh lắp ống nước, vòi nước và bồn rửa bát để làm bếp. Hai phòng phía tây để thông, ở giữa lắp một cái cửa để làm phòng ngủ. Sân không cần láng xi măng mà lát gạch. Khoảng sân phía đông lắp thêm một vòi nước để mùa hè có thể giặt quần áo ngoài sân. Chủ nhà còn chủ động lắp lò sưởi ở cả bốn phòng, và dựng một cái lán nhỏ ở phía tây để đặt nồi hơi.
Nhưng sân rất nhỏ, chiều đông tây mười mét, chiều nam bắc khoảng ba, bốn mét. Phía nam sân là nhà của chủ nhà. Căn nhà rất cao, đằng sau còn có một cái bệ, trên bệ cũng có mái che nhỏ để đặt nồi hơi.
Cổng chính nằm về phía đông của căn nhà, lối vào có mái che bằng tấm a-mi-ăng. Cửa chính nhìn ra hướng bắc, trông ra rừng cây.
Tôi nói với bố Thiên Thiên: “Sân này chật quá”.
Bố Thiên Thiên nói: “Chúng ta có thể coi rừng cây là sân mà”.
Rừng cây rất lớn, phía đông là đường làng, phía tây cũng là đường làng, khu rừng rộng bằng cả cái làng. Đa số là cây dương, tận cùng phía bắc có một ít cây liễu, phía đông có vài cây đào, chủ nhà của chúng tôi trồng ba cây hương xuân nhỏ ở đằng sau sân.
Bên ngoài cổng nhà chúng tôi, cây dương mọc thưa hơn, có vài chỗ đất trống. Chủ nhà dựng một cái nhà vệ sinh đơn giản ở chỗ đất trống bằng tấm lợp a-mi-ăng, ngoài ra còn có một đống gạch cũ chưa dùng đến, một đống cát, mấy đống củi. Bên cạnh đó có vài chỗ đất trống, bố Thiên Thiên muốn dựng chuồng gà, tôi muốn trồng rau.
Phía bắc khu rừng là mương nước của làng, phía bắc của mương nước là đường cái, phía bắc đường cái là hồ trữ nước Sa Hà.
Chủ nhà xây một cái cửa nhỏ trên bức tường đằng sau nhà mình để tiện ra vào. Chị chủ nhà rất nhiệt tình, bảo chúng tôi có thể ra vào bằng cửa đó, nhưng cửa đó thông với nhà họ, nên chúng tôi đi lại vài lần thì ngại quá, quyết định sẽ ra vào bằng cổng chính.
Vì vậy, việc đầu tiên là xây đường đi.
Tôi và bố Thiên Thiên khảo sát quanh rừng cây. Phía đông có một con đường rất rộng, dẫn ra đường cái phía đông ngôi làng, cũng là đường mà xe chuyển nhà của chúng tôi đi qua. Nhưng ngôi làng ở phía nam, cửa hàng và bến xe đều ở góc tây nam của làng, đi từ đường cái phía đông sang thì vòng vèo quá. Gần chúng tôi hơn thì có ba ngã tư nữa. Ngã tư phía đông rất hẹp, còn có nhiều ổ gà, xe ba gác rất khó đi. Ngã tư phía tây rất gần, cũng rất rộng rãi. Chúng tôi thử đi xem sao, ngôi nhà ngay ngã tư đó có con chó to canh cổng, lại không bị xích, khi chúng tôi đi qua nó liền sủa inh ỏi, ông chủ đi ra, mặt mũi đỏ gay và đầy mùi rượu, sẵng giọng hỏi chúng tôi: “Anh chị là ai? Muốn làm gì? Đi qua cửa nhà tôi làm gì?”.
Thế nên chỉ còn cách đi bằng ngã tư thứ ba cũng nằm ở phía tây, nhưng xa hơn. Ngã tư này rất rộng rãi và bằng phẳng, trước cửa nhà người ta cũng không có chó, hai bên đường đều có nhà dân.
Ngã tư này cách cổng nhà chúng tôi khoảng ba bốn trăm mét, nhưng đoạn từ cổng nhà ra ngã tư lại không có đường, chỉ có cây cối. Ba người chúng tôi mượn xẻng của nhà chủ để làm đường. Đầu tiên, chúng tôi đi khảo sát vài vòng từ cổng nhà ra ngã tư phía tây, xem đi thế nào cho tiện, cho gần. Dọc đường còn có vài đống củi và những cái hố lớn, cần phải tránh chúng nữa.
Cuối cùng chúng tôi cũng xác định được lộ trình phù hợp nhất. Bố Thiên Thiên định hình đường đi, sau đó chúng tôi dọn hết cỏ trên đường. Đường này cần rộng hơn để vừa cho xe ba gác đi. Sau khi làm sạch cỏ, chúng tôi lấp những cái hố nhỏ và san bằng những chỗ mấp mô, dọn hết đá sỏi trên đường, rồi lấy chân giẫm, lấy xẻng nện để mặt đường ém chặt xuống. Cuối cùng thì con đường ngoằn ngoèo, mấp mô trong rừng dương đã hoàn thành, chúng tôi men theo con đường đó vào làng mua thức ăn, ra trạm xe buýt, đưa Thiên Thiên đi học.
Sau đó, chúng tôi bắt tay vào dọn nhà. Phòng phía tây là phòng ngủ của Thiên Thiên, trong phòng đặt một cái giường đơn. Đầu giường lắp bàn học và một cái giá sách, đối diện là một cái ghế sô pha và tủ quần áo nhỏ được kê sát tường. Phòng bên cạnh là phòng ngủ của chúng tôi, bên trong có kê một cái giường đôi, bức tường phía đối diện giường đôi thì kê một cái tủ quần áo có gương. Bên dưới cửa sổ có bàn làm việc và bàn máy tính. Chúng tôi không có ti vi.
Phòng của Thiên Thiên và phòng của bố mẹ đều có cửa riêng, bức tường giữa hai phòng cũng có cửa thông nhau, có thể qua lại phòng nhau.
Nhà vệ sinh rộng bằng phòng ngủ, chúng tôi để máy giặt và nhiều đồ lặt vặt. Lúc đầu chúng tôi định lắp bình nước nóng năng lượng mặt trời, nhưng chị chủ nhà nói tấm lợp a-mi-ăng sẽ không chịu được, bảo chúng tôi sang nhà chị mà tắm. Đương nhiên chúng tôi ngại không sang, nên quyết định mùa đông thì đến nhà tắm công cộng trong làng, mùa hè thì mua một cái bồn nước to để đựng nước, rồi múc nước ra tắm.
Phòng bếp cũng là một phòng rộng, còn có bồn rửa. Chúng tôi đã bày hết tủ lạnh, bếp từ, lò vi sóng, nồi, niêu, bát, đĩa ra nhưng phòng vẫn có vẻ trống. Việc đầu tiên bố Thiên Thiên làm là xây bệ bếp. Anh ấy nói với chủ nhà, đem chỗ gạch không dùng đến và chọn được mấy tấm gỗ từ trong đống củi, rồi xây một cái bệ bếp dọc theo tường từ nam sang bắc, đặt tấm gỗ lên trên, ở giữa còn làm cái giá ba tầng để đặt đồ đạc.
Sau đó bố Thiên Thiên hỏi nhà chủ, được người ta chỉ cho đi chợ đồ cũ ở Hồi Long Quan mua bình ga, bếp ga, máy hút mùi, lò nướng. Tôi xếp hết những thứ đó lên bệ bếp. Phiền nhất là máy hút mùi, trên tường không có lỗ nên không đặt được ống thông gió.
Bố Thiên Thiên nghĩ ra một cách, đi mượn chủ nhà búa và tua vít để đục tường. Đục lủng được một viên gạch, bố Thiên Thiên lấy búa gõ cho nó rơi ra, cứ như vậy đục được mấy viên gạch, tạo thành lỗ vừa đủ rộng để đặt ống thông gió cho máy hút mùi.
Chủ nhà cho chúng tôi một cái tủ cũ, chúng tôi đựng bát đũa và gạo, mì. Họ còn cho chúng tôi một cái bàn gấp, chúng tôi để làm bàn ăn.
Chúng tôi sắp xếp đâu ra đấy, mỗi ngày đều vào làng đi chợ bằng con đường nhỏ xuyên rừng mà chúng tôi tự làm. Con chó Tiểu Hoa cũng đi theo chúng tôi vào làng.
Một hôm, đi chợ về mới phát hiện quên chìa khóa, đành quay vào trong làng, đi một đoạn xa đến cổng chính nhà chủ, gõ cửa gọi nhà chủ mở cửa cho chúng tôi vào. Nhà của vợ chồng chủ nhà xây trên móng cao, chắc là để bằng với các nhà hàng xóm, căn nhà rất cao, sân thì lại rất thấp, hai nhà phía đông và phía tây đều thấp, muốn lên nhà chính phía bắc phải bước lên một cái bậc cửa khá cao.
Chúng tôi đi lên bậc cửa, đi xuyên qua nhà chính phía bắc rồi vào sân nhà chúng tôi bằng cửa sau của nhà chủ, và mở cửa từ bên trong.
Sau này chúng tôi còn quên chìa khóa vài lần nữa, đều phải đi xuyên qua nhà chủ nhà để vào nhà. Có một lần gọi cửa mãi mà không ai không mở cửa, họ không có nhà.
Chúng tôi quay vào rừng, đợi một lúc, bố Thiên Thiên xem xét bức tường và nói: “Bức tường này cũng thấp, để anh thử trèo qua xem”.
Bố Thiên Thiên nhặt mấy viên gạch xếp chồng lên nhau, giẫm lên đống gạch trèo lên bức tường phía đông, đứng trên tường quan sát, đi ra phía nam, nhảy xuống bậc cửa của nhà chủ rồi nhảy xuống sân, mở cửa từ bên trong cho hai mẹ con vào nhà.
Có lần bố Thiên Thiên không có ở nhà, tôi và Thiên Thiên về đến nhà thì nhận ra lại quên chìa khóa, tôi cũng nhặt mấy viên gạch để trèo tường vào mở cửa.
Cuối cùng chúng tôi nghĩ ra một cách, giấu chìa khóa xuống dưới một viên đá đặt trong đám cỏ um tùm trước cửa nhà, nếu có ai quên chìa khóa thì có thể lấy chìa khóa ở đó.
Một hôm chúng tôi lười nấu cơm, liền đến quán ăn trong làng. Ăn xong thì trời cũng tối, trên đường về, trời tối đen, không có ánh trăng, chúng tôi cũng không có đèn pin, khi đi vào con đường nhỏ xuyên qua rừng, lúc đầu còn nhìn thấy con đường chúng tôi đã làm, đi một lúc đã không thấy đường nữa rồi, bốn bề toàn là cây, chúng tôi chỉ còn cách đi dò dẫm theo cảm tính. Lần mò mãi cuối cùng cũng tìm đến trước cửa nhà, một con chó xông ra sủa ầm ĩ, là con chó đáng ghét ở nhà hàng xóm phía tây, thì ra chúng tôi đi nhầm đến cửa nhà người ta.
Chúng tôi men theo bờ tường đi về hướng đông, đi về cổng nhà chúng tôi. Vì trời tối đen như mực, mở khóa cửa cũng khó khăn. Vào trong sân, lại mò mẫm để vào nhà.
Ngày hôm sau bố Thiên Thiên vào làng mua dây điện và bóng đèn, lắp một cái bóng đèn trước cổng nhà, một cái khác lắp ở hành lang, công tắc đặt trên tường của hành lang. Nếu về tối thì có thể bật sẵn đèn.
Nhà cửa thu xếp xong thì Thiên Thiên cũng đến ngày đi học. Chúng tôi mua cặp sách và các loại đồ dùng học tập ở Hồi Long Quan, đưa Thiên Thiên đến trường. Trường học ở phía tây rừng cây, từ nhà tôi đi thẳng về phía tây, đi ra khỏi rừng, đi vào đường lớn là đến nơi. Nhưng chúng tôi đi một lần rồi, đoạn rừng đó không có đường, cỏ mọc rất cao, rất khó đi. Khó khăn lắm mới đi đến bìa rừng, ở đó có một cái mương, không qua được. Bố Thiên Thiên định làm một cái cầu độc mộc bắc qua mương nhưng ngộ nhỡ bị ngã xuống, mà nước ở đây vừa bẩn vừa hôi. Vì vậy chúng tôi đành đi đường vòng, đi từ trong làng ra.
Hàng sáng, Thiên Thiên đeo cặp sách, cùng bố mẹ đi theo con đường nhỏ mà chúng tôi làm xuyên qua rừng, vào trong làng, đi về hướng nam, đi đến con đường trục tây nam thì rẽ hướng tây, rồi ra đường lớn trục bắc nam dẫn ra trường học thì rẽ hướng bắc, đi đến cuối đường, đến chỗ gần đường quốc lộ có hồ trữ nước thì trường học nằm ở phía tây.
Hiện giờ chúng tôi nuôi hai con chó con, một con chó vàng đặt tên là Tiểu Hoàng, một con chó lông có đốm đặt tên là Tiểu Hoa. Sáng ra ba người chúng tôi vừa ra cửa thì Tiểu Hoàng đã lặng lẽ ngồi trước cổng canh nhà, Tiểu Hoa len lén đi theo sau chúng tôi. Khi chúng tôi phát hiện ra liền quát nó: “Đi về ngay!”. Tiểu Hoa đứng im không động đậy. Chúng tôi tiếp tục đi, ngoảnh đầu nhìn lại, thấy nó lại đi theo, tôi bèn nhặt một hòn sỏi ném vào nó và quát: “Về ngay! Về ngay!”. Thế là Tiểu Hoa đành quay đầu bỏ về.
Chúng tôi đi đến chỗ rẽ, tôi quay lại thì thấy Tiểu Hoa thò đầu ra khỏi cửa lén nhìn theo chúng tôi, tôi quát thêm lần nữa, nó liền thụt đầu vào mất dạng. Chúng tôi mới đi được vài bước thì nó đột nhiên chạy vọt qua chúng tôi, chạy tới trước mặt chúng tôi rồi quay đầu lại nhìn chúng tôi rồi vẫy vẫy cái đuôi.
Thiên Thiên nói: “Thôi cho nó đi cùng đi bố mẹ”.
Bây giờ mà không cho đi thì cũng chả còn cách nào khác. Nó mừng rỡ đi bên cạnh chúng tôi cùng đi tới trường học.
Chúng tôi đưa Thiên Thiên vào lớp, chào cô giáo, cô giáo dẫn Thiên Thiên vào chỗ ngồi, lúc sau các bạn lần lượt đến, vây quanh Thiên Thiên nói chuyện với con bé.
Chúng tôi đứng nhìn từ ngoài cửa, Thiên Thiên nói: “Bố mẹ về đi ạ”.
Tôi và bố Thiên Thiên đành ra về. Tiểu Hoa đang chơi với các bạn nhỏ trong sân trường, mừng rỡ đến mức cái đuôi cứ ngoáy tít. Thấy tôi và bố Thiên Thiên ra cổng, nó cũng chạy theo sau.
Vào đến rừng thì nó tự chạy về trước, Tiểu Hoàng vẫn ngồi ngoan ngoãn nơi cổng nhà.
Thiên Thiên ăn trưa ở trường, chiều tan học mới về nhà. Gần tối, Tiểu Hoa lại cùng chúng tôi đi đón Thiên Thiên.
Ban ngày, chỉ có tôi và bố Thiên Thiên ở nhà, chúng tôi bắt tay vào làm chuồng cho bọn vật nuôi.
Chuồng chó thì dễ rồi, chúng tôi vẫn dùng đống gạch cũ của chủ nhà, xây hai cái chuồng nhỏ sát tường ở chỗ hành lang gần cửa ra vào, lót quần áo cũ vào, còn lấy một cái áo giăng ra làm rèm.
Bố Thiên Thiên ra ngoài rừng cắm mấy cái cọc bằng cành cây xuống đất, mua lưới quây quanh rồi cố định lại thành cái chuồng gà. Thiên Thiên rất thích thú, nói rằng như vậy bọn gà vịt có thể ngắm phong cảnh bên ngoài.
Buổi tối, chúng tôi thả gà vịt ra lùa về nhà, đóng cổng, cho chúng đi lại tự do trong sân. Khi nào trời tối hẳn, bọn chúng đều nằm yên ở phía trên lồng, chúng tôi liền bắt chúng nhốt vào lồng, phủ cái chăn bông cũ bên ngoài.
Có một hôm, chúng tôi đang nấu cơm thì nghe thấy tiếng gà kêu, chó cũng sủa, chạy ra xem, thấy con chó dữ của nhà ở ngã tư phía tây đang húc vào lưới chuồng gà, Tiểu Hoa và Tiểu Hoàng sủa con chó to, bọn gà trong chuồng sợ hãi bay loạn lên, mấy con còn bay ra khỏi chuồng và bị con chó kia rượt. Tôi và bố Thiên Thiên vội chạy ra vừa quát vừa ném sỏi xua nó đi.
Chúng tôi quay lại xem, trong chuồng chỉ còn một con gà, ba con vịt không biết bay nên vẫn ở trong. Chúng tôi tìm thấy mấy con trong rừng, lùa chúng về sân. Nhà tôi có tất cả mười con gà, đếm đi đếm lại chỉ còn bảy con, thiếu mất ba con. Chúng tôi tìm thấy xác hai con gà mái trong rừng, còn một con nữa thì không tìm thấy.
Chúng tôi chôn hai con gà mái trong rừng, Thiên Thiên vẽ giun và gạo vào giấy rồi đốt trước mộ chúng.
Tối hôm đó, cả nhà đều rất buồn, mấy con gà đó đã nuôi cả năm nay, từ lúc chúng bé tí đến lúc đã lớn, chưa từng thiếu con nào, vậy mà hôm nay trong một ngày mà mất tới ba con.
Sáng hôm sau, tôi ra mở cổng, thấy một con gà mái ở ngoài cửa, vừa thấy cửa mở ra là nó chạy ngay vào. Tôi chạy vào nhà báo cho hai bố con biết, hai bố con chạy ra ngoài xem, nó đang cúi đầu mổ ngô trong máng.
Bố Thiên Thiên chọn những cành cây vừa to vừa dài trong đống củi của nhà chủ, đào hố rồi cắm chúng san sát nhau, cắm thật chắc chắn quây thành thành một cái chuồng. Cửa chuồng hướng về phía cửa nhà chúng tôi, cửa được làm bằng một tấm gỗ, ở giữa dùng cành cây làm then cửa, bên dưới còn chặn thêm đá. Thấy còn chưa đủ chắc chắn, anh ấy còn chặn bằng hai cây gậy.
Bố Thiên Thiên dùng gạch dựng thêm một cái chuồng để che mưa trong chuồng quây, làm thêm ba cái ổ đẻ trứng, bên trong lót cỏ khô.
Sáng ra chúng tôi băm rau rồi trộn với bột ngô, đổ vào một cái chậu lớn, mang ra chuồng gà, chia ra các chậu thức ăn nhỏ. Rồi xách một xô nước ra, đổ nước vào mấy cái chậu trống. Sau đó về nhà mở cửa lồng ở hành lang ra.
Gà vịt chạy tứ tung, chúng chạy ra rừng cây bới đất. Tôi ra trước cửa chuồng gọi: “Cục cục cục cục”. Từ khi chúng còn nhỏ, chúng tôi đã gọi như vậy mỗi khi cho ăn, chúng nghe thấy tiếng gọi là biết đến giờ ăn. Bọn gà vịt quả nhiên từ tứ phía chạy về chuồng, bắt đầu tranh nhau ăn với uống nước. Chúng tôi đếm và thấy đã về đủ, tôi liền ra ngoài, bố Thiên Thiên chốt mấy tầng bảo vệ cửa lại, sau đó chúng tôi đứng ở bên ngoài xem chúng ăn, đánh nhau, rỉa lông, bới đất, một lúc sau mới vào nhà.
Mùa xuân cây dương ra lá, nên ánh nắng lọt vào chuồng gà rất ít. Một tháng sau, hai con gà trống rất đẹp mã bị bệnh, không ăn uống được gì, co ro trong góc, đi ngoài phân xanh xanh trắng trắng. Bố Thiên Thiên lấy xe ba gác chở hai mẹ con, hai mẹ con ôm gà đến trạm phòng chống dịch ở thị trấn Sa Hà.
Chúng tôi đi qua đường có hồ chứa nước, đi thẳng về hướng tây bắc, đến trạm phòng chống dịch.
Người ở trạm phòng chống dịch tiến hành thăm khám, nghe chúng tôi nói triệu chứng, liền nói: “Đây là bệnh gà rù, không sống được đâu, đem đi chôn là vừa”.
Thiên Thiên nói: “Không đâu”.
Trên đường trở về, Thiên Thiên ôm gà trên tay, nói với giọng bực tức: “Sao họ lại nói thế cơ chứ?”.
Chúng tôi mua vắc xin phòng bệnh gà rù về, nhỏ vào mắt những con gà khác.
Hai con gà trống kia chỉ còn thoi thóp, không ngóc nổi đầu lên, cử động cánh muốn đứng lên, hai ngày sau thì chúng chết. Chúng tôi chôn chúng trong rừng, Thiên Thiên cũng đốt cho chúng tờ giấy vẽ giun và gạo.
Bức tường rào chuồng gà rất kiên cố, dù là chó nhà hàng xóm phía tây hay chó hoang ở trong rừng cũng không làm được gì.
Thế nhưng, có một hôm, chúng tôi vừa đón Thiên Thiên đi học về, vừa vào rừng thì nhìn thấy con gà đen của chúng tôi đang đi loanh quanh trong rừng, ba người cùng xua tay, kêu to lùa nó về nhà, về đến cửa nhà lại thấy vài con đang tìm ăn trong đám cỏ.
Chúng tôi lùa hết về sân, ra chuồng gà xem xét thì chỉ có ba con vịt và hai con gà còn ở trong đó. Chúng tôi kiểm tra lại bức tường rào, không phát hiện ra lỗ hổng nào gà có thể chui qua, chúng tôi đoán là chúng bay qua.
Bố Thiên Thiên giăng thêm một vòng lưới, làm cho hàng rào cao thêm hơn một mét. Ngày hôm sau, sau khi lùa chúng ra chuồng, chúng tôi đứng ngoài quan sát một lúc, có mấy con định cất cánh từ mái của cái chuồng che mưa nhưng không thành vì bị lưới chặn lại. Chúng tôi yên tâm đi về.
Một hôm, sau khi đưa Thiên Thiên đi học, tôi và bố Thiên Thiên về nhà làm việc thì nghe thấy tiếng gà “cục cục” ở trong sân, chạy ra xem thì thấy có một con đang ở trong sân thật. Ra cửa thì thấy mấy con gà đã thoát ra ngoài, đang lang thang trong rừng.
Chúng tôi lùa hết gà về nhà, đóng cổng. Đến tối, tôi nghĩ ra một cách, đó là cắt bớt cánh của chúng đi. Lúc đầu Thiên Thiên nhất quyết không đồng ý, chúng tôi phải nói mãi, cuối cùng cũng đồng ý, nhưng con bé yêu cầu cắt ít thôi vì sợ chúng đau.
Sáng hôm sau, chúng tôi cho thức ăn và nước vào chậu đâu vào đấy rồi đóng cửa chuồng, ôm từng con gà ra một, một người giữ chặt, người kia kéo cánh ra dùng kéo cắt một đoạn lông tầm hai đốt tay rồi thả vào chuồng.
Về sau chúng tôi không thấy gà bay ra lần nào nữa.
Có một hôm, chiều đến, chúng tôi lùa gà về sân, trời đã tối rồi, bọn chúng đều đã nằm lên lồng, chúng tôi cho chúng vào lồng. Vừa nhét vừa đếm, đếm được năm con gà, còn thiếu con gà mái đen.
Trời đã tối đen, trong rừng giờ tối không nhìn thấy gì , nhưng chúng tôi vẫn mang đèn pin ra tìm ngoài bãi cỏ, tìm rất lâu mà không thấy.
Thiên Thiên nói: “Chắc nó lại bay ra rồi bị chó cắn chết rồi”.
Bố Thiên Thiên nói: “Ra chuồng gà xem sao”.
Tôi nói: “Không có ở đó nữa đâu”.
Nhưng bố Thiên Thiên vẫn mang đèn pin ra soi chuồng gà, lát sau nghe thấy tiếng anh ấy nói: “Ở đây này!”.
Hai mẹ con tôi chạy ra xem, bố Thiên Thiên soi đèn pin về phía ổ đẻ trứng, con gà mái đen đang nằm im trong đó.
Chúng tôi lùa nó về, phát hiện trong ổ có một quả trứng.
“Oa, hóa ra nó đẻ trứng.” Thiên Thiên nói.
Tôi nói: “Con biết không? Hình như nó đang ấp trứng đấy”.
Thiên Thiên nói: “Hay quá, chúng ta sắp có gà con rồi”.
Bố Thiên Thiên nói: “Nhưng chúng ta không có gà trống, không ấp ra gà con được đâu”.
Tôi nói: “Mai chúng ta đi mua một con gà trống đi”.
Chúng tôi kiếm lấy một cái thùng giấy, lót quần áo cũ và cỏ, cho quả trứng và con gà mái đen vào rồi mang về để trong nhà vệ sinh.
Hôm sau, chúng tôi đi chợ bán gà mua một con gà trống, lông nó xù xơ xác, đang rụt cổ. Chúng tôi ôm nó về nhà, cả đường đi nó nằm im, sợ đến nỗi run cầm cập.
Về đến nhà, bố Thiên Thiên đi mua vắc xin, nhỏ vào mắt nó, rồi nhốt một mình nó vào lồng mấy hôm, khi nó khá hơn mới thả nó vào chuồng gà.
Nó vừa vào chuồng, không lấy gì làm lạ lẫm, ăn một chút thức ăn, uống chút nước rồi lập tức vỗ cánh gáy mấy tiếng, bắt đầu đuổi theo rồi đạp gà mái.
Con gà mái đen vẫn nằm trong thùng giấy chăm chỉ ấp trứng, không động đậy tí nào. Mỗi ngày ra ngoài một lần để ăn và đi vệ sinh.
Chúng tôi để riêng những quả trứng gà đen đẻ sau khi có gà trống, lấy quả trứng con gà mái đen đang ấp ra, thay vào đó năm quả trứng mới. Con gà mái đen ngày nào cũng cần mẫn ấp trứng.
Chúng tôi đếm ngày, đúng hai mươi mốt ngày sau khi thay trứng mới, dưới bụng con gà mái đen phát ra tiếng kêu “chiếp chiếp chiếp” nho nhỏ, bố Thiên Thiên bế con gà đen lên, chúng tôi nhìn thấy hai chú gà con, một chú màu vàng, một chú màu đen, chúng nhỏ xíu và có bộ lông tơ mềm mại.
Chúng tôi rắc kê xuống đất, gà con nhanh chóng ra mổ, ăn xong lại núp vào dưới cánh gà mái đen, có lúc còn ló đầu ra khỏi cánh gà mái đen để nhìn ra ngoài.
Gà mái đen tiếp tục ấp ba quả trứng còn lại, ba ngày sau vẫn không nở ra gà con. Cuối cùng gà mái đen bỏ cuộc, đứng lên dẫn hai con ra sân.
Chúng tôi chốt cổng chính lại, để gà mái đen tự do hoạt động trong sân cùng gà con.
Đáng tiếc là một tuần sau chú gà con màu đen bị ngã vào chậu nước mà chết. Chú gà con màu vàng còn lại đã được một tháng tuổi và đã mọc những sợi lông nhỏ. Bỗng một hôm, chúng tôi nghe thấy tiếng gà mái đen kêu lên kinh hãi “quác quác quác”, chạy ra xem thì thấy cửa không biết đã được mở tự lúc nào, gà mái đen đang ở ngoài cửa còn gà con thì không thấy đâu.
Chúng tôi tìm mãi trong bãi cỏ mà không thấy. Gà mái đen đi ra đi vào tìm kiếm khắp nơi, vừa tìm vừa gọi, trông rất tội nghiệp. Đến tối, nó không vào thùng giấy mà nhảy lên lồng gà nằm cùng những con gà khác, rủ đầu xuống. Lúc nhốt gà vào, chúng tôi đem gà mái đen nhốt luôn vào cùng.
Chúng tôi đã hy vọng những con gà mái khác cũng ấp trứng nhưng con gà trống mới mua bị lây bệnh gà rù, đi ngoài phân xanh xanh trắng trắng, vài ngày sau thì chết.
Chúng tôi không muốn mua gà trống nữa, mà định mua gà con, có thể gà con miễn dịch cao hơn gà trưởng thành, nên có thể sống lâu hơn. Chúng tôi hỏi chủ nhà thì được biết, Mã Trang có họp chợ, bố Thiên Thiên lái xe ba gác đưa chúng tôi đi chợ mua gà.
Trên xe ba gác, chúng tôi men theo đường cái phía bắc có hồ trữ nước, đi về hướng đông nửa giờ đồng hồ thì đến chợ. Ở đó con gì cũng có, chó con, thỏ con, mèo. Gà cũng có nhiều giống khác nhau, có gà tam hoàng, gà công nghiệp, có cả gà ác. Chúng tôi nghĩ gà ác chắc là khỏe mạnh hơn gà thường, liền mua mười con gà ác con. Chúng tôi nói với người bán gà: “Chọn cho chúng tôi ba con trống, bảy con mái”.
Người bán gà bắt từng con lại xem xét, rồi đặt vào thùng giấy chúng tôi mang theo. Chúng tôi mang thùng về, trông thấy người bán vịt, những con vịt thật đẹp, cổ xanh, lông bóng bẩy, trông rất giống vịt cổ xanh, nên chúng tôi mua ba con.
Về đến nhà, bố Thiên Thiên đi mua vắc xin về nhỏ vào mắt bọn gà con.
Nhưng chỉ trong vòng một tuần, bọn gà ác con lần lượt đi ngoài rồi chết, chỉ còn hai con, cũng đang đi ngoài, không thích vận động, trông rất lù rù.
Chúng tôi tưởng hai con gà này chắc cũng không qua khỏi, nhưng nó lại sống và ngày một lớn, lông trắng tinh, trên đầu có cái mào đen.
Chúng tôi còn mua mấy loại hạt giống rau ở chợ. Lúc này rừng dương đang bay đầy bông trắng, chúng tôi đã thấy có người trong làng làm đất chuẩn bị trồng rau, chúng tôi cũng về nhà dọn vườn trồng rau.
Trong rừng bị cây che nên rất ít ánh nắng. Khoảng rừng sau nhà chúng tôi cây thưa nên nhiều ánh nắng hơn, nên chúng tôi chỉ còn cách trồng rau ở sau nhà.
Cả nhà tôi lấy xẻng xới đất, xẻng nào cũng đụng phải rễ cây, to có nhỏ có. Nhỏ thì dễ dàng cắt đứt, còn to thì phải chặt rất lâu. Chúng tôi làm cả ngày mới được một khoanh đất nhỏ, vài ngày sau đã xới được một mảnh vườn xinh đẹp.
Chúng tôi chia mảnh đất này thành bốn luống rau, đào rãnh, mua vòi nước, lấy nước từ vòi trong sân để tưới vào các rãnh. Chúng tôi trồng bí đỏ, hẹ, ngô, dưa chuột, đậu đũa, cải chíp,… Chờ mãi nó mới mọc ra mầm rất bé. Chúng tôi chăm chỉ tưới nước, làm đất nhưng chúng vẫn lớn rất chậm.
Chị chủ nhà ra tưới ba cây hương xuân nhà mình, trông thấy vậy liền nói: “Không được đâu, rễ cây hút hết dinh dưỡng rồi, rau không lớn nổi đâu. Cây này do người làng trồng, không chặt được, nhưng nếu cây chết thì lại khác. Cứ rạch một vòng quanh vỏ cây hoặc đốt gốc, vỏ cây bị thương tự khắc chết, thế rau mới lớn được”.
Thiên Thiên nói: “Không được”.
Tôi nói: “Không sao, trồng rau không cần vội vàng, lớn được thế nào thì lớn. Cây người trong làng trồng cũng phải rất lâu mới lên cao được như thế này”.
Thế nhưng mầm rau nhà chúng tôi đúng là lên quá chậm. Chúng tôi thấy vườn rau ở ven làng của người ta cũng trồng khoảng thời gian bằng chúng tôi mà đã ra lá vừa to vừa xanh, họ đã cắm sào để rau leo giàn rồi, rau của chúng tôi mới mọc ra năm, sáu cái lá con.
Chúng tôi nghĩ đến lời chủ nhà nói “Trồng rau không có phân thì lớn làm sao nổi”, chúng tôi cũng thử bón phân. Chúng tôi mượn gáo múc phân bón của chủ nhà, đào rãnh rồi múc phân từ trong bể phân ra rải vào rãnh. Vì sợ hỏng mầm cây, chúng tôi còn tưới một lượt nước sau khi bón.
Cả nhà ba người chúng tôi đều ám mùi phân hôi thối, bận rộn bón phân từ chiều đến tối mịt. Sáng hôm sau thấy hình như mầm cây lên xanh hơn một chút, khỏe hơn một chút. Nhưng mấy ngày sau xem lại thì những mầm cây đó không có nhiều thay đổi.
Tôi vắt óc suy nghĩ, vào rừng xem xét nghiên cứu, xem còn có chỗ nào thích hợp trồng rau hơn không. Bên cạnh mương nước ở đầu phía bắc rừng cây quả nhiên còn có đất trống, nhưng nước ở cái mương đó vừa bẩn vừa hôi, còn trôi nổi các loại rác thải, tôi không muốn trồng rau ở đó chút nào.
Rồi tôi nghĩ ra một cách: trồng rau trong sân nhà. Sân nhà chúng tôi tuy chật nhưng chiều đông tây khá dài, trong sân lại luôn nhiều nắng. Tôi nói với bố Thiên Thiên, anh ấy ủng hộ ngay. Chúng tôi nói chuyện với chủ nhà, chủ nhà cũng đồng ý, thế là chúng tôi bắt tay vào việc ngay.
Sân nhà lát bằng gạch cũ, bố Thiên Thiên lấy tua vít, một loáng đã cạy được một viên lên. Anh ấy cạy từ đầu đông sang đầu tây, được một khoảng đất đủ rộng.
Nhưng đất bên dưới toàn là đá với sỏi, chúng tôi quyết định thay đất. Tôi và bố Thiên Thiên xúc đất lên xe ba gác, mang đổ ra ngoài, rồi đào đất tốt ngoài rừng về đổ xuống. Chở qua chở lại vài vòng, khoảnh đất nhỏ trong sân đã biến thành mảnh đất màu mỡ.
Chúng tôi tưới nước, chuyển mầm cây bí đỏ, ngô, dưa chuột,… ở mảnh vườn ngoài rừng về trồng. Bố Thiên Thiên chọn mấy cành cây ở đống củi của chủ nhà làm thành hàng rào để tránh bọn gà vào phá.
Rau được trồng trong sân quả nhiên lớn rất nhanh, cành to, lá xanh mướt, mỗi ngày một khác. Nhất là lá bí đỏ, mỗi lá phải to bằng cái quạt. Tôi muốn cho dây bí đỏ bò lên nóc nhà nên bảo bố Thiên Thiên kiếm cành cây dài bắc giàn cho ba ngọn bí bò lên mái nhà, khi chúng lớn hơn một chút, tôi lấy dây buộc dây leo của chúng vào cành cây để chúng cứ thế mà bò lên.
Tôi đi bộ trong rừng, phát hiện bên cạnh mương nước có mấy cây thục quỳ, bây giờ trong sân có đất trồng nên tôi và bố Thiên Thiên đem ba cây về trồng ở đầu phía đông trong sân nhà.
Rồi tôi muốn trồng thêm nhiều hoa trong vườn hơn. Sân nhà chị chủ cũng trồng hoa, họ cho tôi hạt giống hoa dạ lý hương và hoa phượng tiên, chúng tôi mang trồng trong sân.
Tôi thấy trong rừng có rất nhiều cây hoa bìm biếc con, tôi đem về rất nhiều trồng thành hai hàng ở hai bên cổng chính, rồi nhờ bố Thiên Thiên bắc giàn để chúng leo lên.
Tôi đứng trước cửa ngắm nghía, liền nghĩ ra một ý hay: trồng mướp rồi để nó bò lên cửa thành cái giàn che nắng.
Nhà chủ nhà có rất nhiều mướp đã già, họ cho chúng tôi một quả, lấy hạt ra trồng hai bên cổng. Đây là lần đầu tiên tôi trồng mướp, đất trước cửa nhà cũng không tốt, toàn đá và cát, nhưng mướp lớn rất nhanh. Bố Thiên Thiên cắm các cành cây xuống, rồi còn mua thêm dây sắt chăng ngang chăng dọc, bắc thành giàn để chúng bò lên kết quả trên đó.
Lúc sinh nhật Thiên Thiên vào tháng sáu, hoa dại, cỏ dại trong rừng mọc bạt ngàn. Thục quỳ với dạ lý hương trong vườn đã ra hoa. Cây bìm biếc ngoài cửa cũng đã nở hoa, có hoa trắng, hoa hồng, hoa xanh, hoa tím.
Ngày sinh nhật Thiên Thiên, chúng tôi mời cô giáo và các bạn học của Thiên Thiên đến nhà ăn cơm. Lớp Thiên Thiên có mười bạn, thêm mấy cô giáo, nên không đủ chỗ ngồi. Chúng tôi mượn chủ nhà một cái bàn và mấy cái ghế, xếp ra sân. Lát sau mặt trời lên, chúng tôi khiêng bàn ra đặt dưới giàn mướp trước cửa nhà, đặt chiếc bàn hướng ra rừng cây.
Cô giáo và các bạn từng người, từng người gọi điện thoại để chúng tôi ra đường đón, rồi đi theo con đường nhỏ chúng tôi tự làm để về nhà. Bữa trưa, người lớn một bàn, các con một bàn. Chúng tôi nấu cơm, hầm thịt, và làm mấy món xào.
Lũ trẻ vừa ăn cơm vừa nói chuyện ríu rít, rồi đến tiết mục tặng quà, ăn bánh sinh nhật.
Ăn bánh xong, Thiên Thiên cùng các bạn ra rừng chơi. Bố Thiên Thiên không thấy yên tâm, nói: “Dẫn cả chó theo nữa”.
Thiên Thiên gọi “Tiểu Hoa, Tiểu Hoàng”, Tiểu Hoa lập tức chạy theo, còn Tiểu Hoàng đi vài bước thì dừng lại ngập ngừng không đi nữa rồi quay lại trước cửa ngồi canh.
Người lớn chúng tôi ở lại nói chuyện. Mướp đã leo giàn, mọc rất nhiều lá, che nắng cho chúng tôi, gió mát từ trong rừng thổi ra, vô cùng dễ chịu.
Buổi chiều, bố mẹ các bạn đến đón, các bạn của Thiên Thiên đều không muốn rời đi. Vì chỉ có hai phòng ngủ, nên không thể ở hết nhiều người như vậy, cuối cùng chỉ có hai bạn thân nhất ở lại ngủ qua đêm với Thiên Thiên, hai cô bé đó vô cùng mừng rỡ. Các bạn phải về thì phụng phịu, bố mẹ phải dỗ dành mới chịu về.
Đi ra đến cửa chuồng gà, tôi bảo: “Thiên Thiên, con tặng mỗi bạn một quả trứng gà đi”.
Thiên Thiên nói: “Vâng ạ, trứng gà nhà mình ăn rất ngon mà”.
Tôi mở cửa chuồng, Thiên Thiên dẫn các bạn vào trong chuồng, các bạn phải về mỗi người tự tay chọn một quả trứng gà rồi vui vẻ ra về.
Buổi tối, ăn cơm xong, Thiên Thiên cầm đèn pin cùng hai bạn vào rừng khám phá. Tôi bôi kem chống muỗi cho chúng, bố Thiên Thiên muốn đi cùng nhưng Thiên Thiên không cho. Bố Thiên Thiên lại bảo: “Vậy cho Tiểu Hoa đi theo”.
Bọn trẻ cùng Tiểu Hoa đi vào rừng chơi, bố Thiên Thiên bật đèn ngoài cổng lên, đứng ở cổng nhà nhìn theo. Từ xa có thể nhìn thấy ánh đèn pin trong rừng và tiếng bọn trẻ cười nói.
Chờ mãi không thấy bọn trẻ về, bố Thiên Thiên đi ra đi vào, đứng ngồi không yên. Lúc đầu tôi khuyên anh ấy đừng lo lắng, nhưng gần mười giờ tối vẫn chưa thấy bọn trẻ về, tôi cũng bắt đầu lo lắng. Chúng tôi lấy đèn pin cùng vào rừng tìm được bọn trẻ về.
Mùa hè đến rồi, thời tiết ngày càng nóng bức, ban ngày chỉ ở trong nhà thôi mà mồ hôi cũng ra đầm đìa. Chúng tôi thường bê bàn ra ngoài cổng, ăn cơm trong rừng.
Bố Thiên Thiên có thói quen dạo bộ, ngày nào cũng đi vài cây số theo đường cái bên hồ trữ nước. Trời nóng quá, anh ấy cũng cảm thấy mệt. Về sau anh ấy thấy trong rừng mát mẻ, liền muốn tạo một con đường để đi bộ trong rừng.
Chúng tôi cầm xẻng xuất phát từ cửa nhà đi về hướng bắc, gặp cỏ thì phạt cỏ, gặp hố thì lấp hố, đến chỗ mương nước thì rẽ sang phía đông, cứ thế làm một con đường dẫn đến tận đường cái phía đông.
Vào những ngày hè, bố Thiên Thiên đi bộ theo con đường đó mỗi ngày, đi đến đầu đông thì vòng lại, về đến đầu tây lại quay đầu, cứ thế đi mấy lượt.
Thiên Thiên đi học đã mấy tháng rồi, tôi thấy con bé rất vui, muốn viết lại câu chuyện chúng tôi rời thành phố về Ngô Các Trang. Thiên Thiên giúp tôi đặt tên cho cuốn sách là “Về quê nuôi con”. Mỗi ngày tôi dành một tiếng buổi sáng và một tiếng buổi chiều để viết, viết xong thì đi dạo để nghĩ lại phần vừa viết và dự định cho phần tiếp theo.
Có những lần đi tản bộ cùng bố Thiên Thiên, tôi đều nói với anh ấy về ý tưởng của mình liên quan đến hình tượng nhân vật, sắp xếp tình tiết, cảm nhận mà tôi muốn thể hiện, rồi lắng nghe ý kiến của anh ấy.
Mỗi lần tôi đi tản bộ, nếu Tiểu Hoa trông thấy là nó luôn bám theo tôi, còn Tiểu Hoàng ngoan ngoãn ngồi trước cửa giữ nhà.
Tiểu Hoa luôn đi sau tôi, đến đầu đông, tôi quay đầu trở lại, nó cũng quay lại theo. Mỗi khi đi đến đầu tây, Tiểu Hoa lại chạy vượt qua tôi, chạy lên con đường dẫn về cổng nhà. Nó chạy được một đoạn thì ngoái đầu lại, thấy tôi quay đầu đi về phía đầu đông, nó lại chạy theo, tiếp tục đi sau tôi.
Tuy nước trong mương rất bẩn nhưng hai bên bờ mọc lên rất nhiều cây sậy và hoa dại, tạo nên một khung cảnh khá đẹp.
Có một hôm, Tiểu Hoa đi vào rừng cùng tôi, hôm đó trời rất nóng, ve sầu trên cây kêu inh tai. Tiểu Hoa vừa đi vừa thè lưỡi. Đi đến gần mương nước, Tiểu Hoa bỗng chạy đến bên mương, nhảy xuống, bơi dưới mương nước.
Tôi quát to gọi nó lên bờ, nó bơi lên bờ, toàn thân ướt đẫm nước đen. Nó lắc người, lăn vài vòng dưới đất, lông dính đầy bùn đất, bò dậy tiếp tục đi theo sau tôi. Về đến nhà, tôi vào phòng ngồi một lát rồi ra xem, thấy nó đã sạch sẽ, phần lông màu trắng thì trắng tinh, phần lông màu đen thì đen nhánh. Không biết nó đã làm thế nào.
Cả mùa hè, chúng tôi thường thấy nó chạy về nhà, toàn thân đều là bùn đất, lúc sau lại thấy sạch sẽ trở lại.
Trường học cho nghỉ hè, chúng tôi muốn đưa Thiên Thiên đi du lịch, nhưng không có ai chăm sóc lũ chó với gà, vịt. Tôi nói chuyện với chủ nhà, hỏi xem họ có thể tìm giúp chúng tôi một người trông coi chúng được không, chúng tôi sẽ gửi tiền. Chị chủ nhà nói: “Không cần, tôi rảnh mà, tôi giúp chị cho chúng ăn, anh chị cứ đi đi”.
Chúng tôi cho hết gà, vịt, chó vào sân, mang cả chậu nước và chậu thức ăn vào, thức ăn của chó và bột ngô đặt ở dưới mái che. Cuối cùng, mỗi người đeo một cái ba lô lên đường, chị chủ nhà khóa cổng lại.
Mùa hè năm 2010, chúng tôi đi Cam Túc. Chúng tôi đến Lan Châu rồi bắt xe đi về phía tây. Sau đó vì chán ngồi ô tô, chúng tôi mua ba chiếc xe đạp cũ ở Thiên Chúc, men theo Kỳ Liên Sơn, đạp xe năm ngày đến Vũ Uy Nam, chúng tôi bán xe, bắt tàu hỏa đi Đôn Hoàng.
Chúng tôi đi du lịch trong vòng mười tám ngày, ngồi tàu hỏa về đến Bắc Kinh đã là buổi tối, chúng tôi gọi trước cho chị chủ nhà, nhờ chị ấy bật sẵn đèn ngoài cửa.
Chín giờ tối tàu về đến Bắc Kinh, chúng tôi đi tàu điện ngầm, rồi đổi sang xe buýt, về đến Tiểu Sa Hà đã mười một giờ. Chúng tôi xuống xe, đi xuyên qua làng, đến bìa rừng, từ xa đã trông thấy ánh đèn sáng trước cửa nhà.
Con đường chúng tôi làm đã mọc đầy cỏ, cỏ mọc lại cao nên rất khó đi, chúng tôi chỉ biết đi theo hướng có ánh đèn, giẫm lên cỏ mà đi. Trong rừng tối om, muỗi bay tới tấp, nhiều con côn trùng phát sáng bay đầy trong rừng.
Thiên Thiên nói: “Oa, có đom đóm kìa!”.
Chúng nhỏ hơn đom đóm ở quê tôi, nhưng trông cũng rất đẹp.
Cuối cùng chúng tôi cũng về đến cổng nhà có ánh điện sáng, mở cửa, Tiểu Hoa và Tiểu Hoàng ra đón, chúng tôi đếm lũ gà vịt đang nằm trên lồng, không thiếu một con.
Chúng tôi giẫm phải một đống phân gà trước cửa phòng ngủ, mở cửa phòng, trên bàn đặt một hộp trứng gà và trứng vịt.
Hai con gà ác con ngoan cường vẫn sống khỏe mạnh đến mùa thu, một con bắt đầu đẻ trứng, con kia bắt đầu gáy. Chúng tôi rất vui vì đàn gà lại có gà trống, hơn nữa trông nó rất khỏe mạnh, nó dẫn đầu cả đàn gà.
Có điều ba con vịt cổ xanh đều là vịt đực, không hoạt bát, ba con mà như một con, một con làm gì là hai con còn lại làm cái đó, hành động của chúng như có bàn tay giật dây trong múa rối bóng vậy. Không những thế, chúng ăn rất khỏe, cứ trông thấy chúng là thấy chúng đang ăn.
Chủ nhà nói: “Nuôi bọn này chỉ tổ phí cơm, thịt ăn cho rồi”.
Chúng tôi lại không nỡ làm như vậy.
Bây giờ, chúng tôi có bảy con gà đẻ trứng và ba con vịt đẻ trứng, trứng gà, trứng vịt ăn không hết, đành phải làm trứng muối.
Dây bí đỏ đã bò lên mái nhà, ra rất nhiều quả trên đó. Chúng tôi thường đứng trên bậc cửa của nhà chủ nhìn lên nóc nhà, đếm xem có bao nhiêu quả bí đỏ mới ra.
Lá cây trong rừng đã vàng và rụng nhiều, đến khi cây trút sạch lá, nhìn thấy bí đỏ ngày nào cũng lớn lên một chút nên tôi không nỡ hái. Đến khi trời trở lạnh, chúng tôi đều mặc áo bông, chị chủ nhà mới nói: “Sắp lạnh đến đông cứng cả người rồi, không hái là chúng sẽ bị đóng băng rồi chết hết cả đấy”.
Tôi đành nhờ bố Thiên Thiên mượn cái thang của nhà chủ trèo lên mái nhà, hái hết bí đỏ xuống. Chúng đều là bí đỏ quả dài, quả to nhất phải dài gần một mét, vỏ màu vàng. Quả bé nhất trông giống quả bí ngòi, vẫn còn xanh.
Tôi đếm được ba cây bí đỏ ra tổng cộng ba mươi hai quả. Chúng tôi biếu chị chủ nhà ba quả cỡ nhỡ, cho Thiên Thiên biếu cô giáo và tặng các bạn mấy quả.
Tối đó tôi bổ một quả ra, hấp lên, ăn vừa mềm vừa ngọt.
Sáng hôm sau tôi lại hấp một miếng nữa, Thiên Thiên nói: “Mẹ ơi, mẹ đừng ngày nào cũng ăn, nếu không sẽ nhanh hết lắm”.
Tôi nói: “Vẫn còn đầy đây này”.
Thiên Thiên nói: “Không được, sẽ ăn hết mất”.
Ngược lại, thu hoạch của ruộng rau ngoài rừng lại rất thê thảm, dưa chuột được vài quả, đậu đũa không được một nắm, khoai lang cũng rất bé, luộc lên rất cứng và nhiều xơ. Ngô cao chừng một thước, tuy đã ra hoa và ra những bắp nhỏ, nhưng bên trong bắp ngô chỉ có lưa thưa mấy hạt.
Lập thu, tôi còn trồng cải thảo và củ cải, đến mùa đông, cải thảo vẫn nhỏ xíu, không cuộn thành bắp, chỉ là mấy cái lá nhỏ.
Rau trong sân nhà thì lên rất tốt, nhưng vì trồng quá ít nên cũng không thu được mấy. Chúng tôi định năm sau chỉ trồng ba cây bí đỏ, để đất trồng hoa.
Mùa hè cả sân ngập nắng, nhưng mỗi ngày trôi qua, căn nhà của nhà chủ đổ bóng nhiều dần, ánh nắng ít dần đi, cái bóng lúc đầu chỉ đổ ra sân, sau dần nó bò lên cửa sổ, đến cuối tháng mười một, bóng đổ hoàn toàn phủ kín cửa sổ, trong phòng không có ánh nắng lọt vào, khắp nơi chỉ có bóng râm lạnh lẽo.
Tôi mua than cục, nhóm nồi hơi, lò sưởi trong phòng nóng bỏng tay, nhưng nhiệt độ trong phòng cao nhất cũng chỉ có mười độ. Buổi đêm dụi lửa đi, sáng ra nhiệt độ trong phòng chỉ còn bốn độ. Sáng nào trên bậu cửa sổ cũng có hoa băng rất đẹp. Quần áo đều lạnh toát. Chúng tôi nghĩ ra cách sấy ấm quần áo bằng máy sấy, mặc như vậy sẽ ấm hơn nhiều.
Lúc Thiên Thiên làm bài tập, bàn tay lạnh đến nỗi không giữ được bút, chúng tôi lại mua thêm máy sưởi điện, đặt bên cạnh bàn học của con bé.
Nồi hơi của chúng tôi có thể nướng khoai. Tôi mua khoai lang, cứ buổi chiều là lại dùng nồi hơi nướng khoai, một lúc sau là cả sân thơm lừng mùi khoai nướng. Khi Thiên Thiên đi học về, khoai đã nướng xong, lấy khoai từ trong nồi hơi ra, chúng tôi mỗi người một củ, bóc vỏ vừa ăn vừa thổi phù phù.
Mùa đông thật dài, từ tháng mười hai đến hết tháng một, trong phòng không chút ánh nắng lọt vào. Chúng tôi mua hai tấn than, mỗi tấn tám trăm tệ, mà vẫn không đủ dùng, về sau chúng tôi lại mua thêm một tấn.
Ban ngày có ánh mặt trời, ở trong rừng rất thoải mái. Cây đã trút hết lá, ánh nắng ngập tràn muôn nơi. Ban ngày chúng tôi thường ra rừng cây, dựa vào đống củi của nhà chủ để sưởi nắng. Bố Thiên Thiên giăng dây trên cành cây để phơi chăn vào những hôm nắng đẹp.
Khi tuyết rơi, chúng tôi cào sạch tuyết trong sân, quét sạch tuyết trên con đường trong rừng và trong chuồng gà.
Bắt đầu từ cuối tháng một, nắng trên tường tràn dần xuống, đến một hôm có tia nắng lọt vào trong phòng, hôm sau tia nắng lớn hơn một chút, một tuần sau thành một vệt nắng. Ngày 15 tháng 2, cả cửa sổ ngập tràn ánh nắng.
Thiên Thiên nghỉ đông, chúng tôi về quê ở Hà Bắc ăn tết, đến rằm tháng giêng mới quay lại, vẫn là chị chủ nhà giúp chúng tôi trông coi chó và đàn gà vịt.
Mùa xuân năm sau, Tiểu Hoàng đẻ một bầy chó con, chết mất một con, Thiên Thiên cho bạn học hai con, chúng tôi giữ lại một con chó con màu đen, đáng tiếc là không lâu sau nó cũng chết mất.
Chúng tôi vào làng mua chim bồ câu, xây tổ cho nó ở trên bậc cửa, hàng ngày rắc hạt ngô ra sân cho chúng ăn, chúng bay xuống sân, ăn xong lại bay đi bay lại trong rừng. bay mệt thì về đậu trên nóc nhà. Chúng còn đẻ rất nhiều chim bồ câu con, một ổ hai con, một trống một mái. Đến mùa đông, tổ của chúng không có nắng, chúng lần lượt bay đi mất không thấy quay lại, cuối cùng cái tổ chim trống không.
Sang năm thứ ba, chúng tôi nuôi hai con mèo, chúng rất thân với hai con chó, bốn con vật thường quấn lấy nhau, cùng ra rừng nằm sưởi nắng. Có lần tôi ngồi trong rừng tắm nắng thì nhìn thấy con mèo có lông dài hơn con còn lại mà Thiên Thiên đặt tên là “Lông Dài” nằm bên cạnh đống cát, nhìn chằm chằm mấy con chim sẻ đang rỉa lông rỉa cánh trên đống cát. Tôi quan sát rất lâu, nó vẫn không có động tĩnh gì. Khi tôi về nhà rồi, lúc sau thấy nó ngậm một con chim chạy về, vờn rất lâu trên bậc cửa rồi mới ăn thịt. Từ đó chúng tôi thường bắt gặp nó ăn chim sẻ.
Mùa hè năm đó, cuốn “Về quê nuôi con” của tôi hoàn thành. Tôi gửi bản thảo đến rất nhiều nhà xuất bản, mong đợi hồi âm.
Mùa thu, Thiên Thiên lên lớp năm. Sau ngày khai giảng, lớp Thiên Thiên vắng mất ba bạn, chỉ còn bảy bạn, tính cả Thiên Thiên là có bốn bạn nữ. Xích đu và sân cát trong trường Thiên Thiên đã chơi chán, con bé nói: “Nghe nói các bạn chuyển đến trường to có cả sân vận động, thư viện, môn học cũng nhiều hơn ở đây. Con cũng muốn học ở trường to”.
Chúng tôi không có niềm tin ở trường học truyền thống, khuyên nhủ con bé suốt một học kỳ. Khi hết học kỳ, lại có một bạn nữ tìm được trường mới, học kỳ sau không thấy đến lớp nữa. Thiên Thiên kiên quyết đòi chuyển trường, giục chúng tôi tìm trường. Chúng tôi đành tìm trường khác cho con bé.
Tháng 1 năm 2013, chúng tôi đưa Thiên Thiên đi tham dự buổi phỏng vấn và thi viết để vào trường mới, nhưng không đỗ. Thiên Thiên lại bắt bố mẹ tìm trường khác, chúng tôi tìm được hai trường, nhưng Thiên Thiên cũng không thi đỗ. Chúng tôi khuyên con bé bỏ cuộc, nhưng con bé không chịu, tiếp tục bắt bố mẹ tìm trường khác. Đến tận trường thứ năm, sau khi phỏng vấn, nhà trường đồng ý nhận, yêu cầu Thiên Thiên tháng hai đến học vào đầu học kỳ mới.
Trường học đó ở Bắc Uyển, có sân vận động và thư viện rất đẹp, có nhà ăn tự phục vụ, còn có cả nhà thể chất. Thiên Thiên rất phấn khởi: “Con cũng sắp được học trường to rồi”.
Chúng tôi thuê một một căn hộ ở khu dân cư gần đó, cửa sổ hướng nam, trong phòng có sàn gỗ, có chỗ ngồi bên cửa sổ, có hệ thống sưởi, trong nhà vệ sinh còn có đèn sưởi. Thiên Thiên rất thích thú.
Quay lại rừng cây, chúng tôi bàn chuyện chuyển nhà. Cả nhà thống nhất những thứ khác có thể cho đi nhưng nhất định phải mang theo Tiểu Hoa.
Chúng tôi tặng lại sách cho trường, tặng một phụ huynh có vườn cây ăn quả ở trong làng gà vịt và mèo, để Tiểu Hoàng lại trông nhà.
Vài ngày trước khi dọn nhà, Tiểu Hoa bỗng mất tích. Nó vốn thích chạy quanh làng, nhưng tối nào cũng sẽ quay về. Lần này không thấy quay về, chủ nhà nói: “Chắc là động dục, vài ngày là lại về thôi”.
Chúng tôi chờ mấy ngày mà không thấy Tiểu Hoa quay về. Thiên Thiên bảo bố mẹ in ảnh Tiểu Hoa và thông báo tìm chó ra rồi dán khắp nơi, vừa dán vừa hỏi thăm mọi người. Họ đều nói không biết.
Thiên Thiên sắp phải đi học rồi, chúng tôi đành gọi công ty chuyển nhà đến chuyển đồ đạc.
Xe sắp chạy, tôi nói với chị chủ nhà: “Nếu Tiểu Hoa quay về, chị gọi điện cho em để em về đón nó nhé”.
Chị nói: “Được”.
Chúng tôi lên xe, xe chạy về hướng đông, đi theo con đường đã dẫn chúng tôi đến đây, rời xa rừng cây.