• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Vì tình yêu Hà Nội
  3. Trang 41

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 40
  • 41
  • 42
  • More pages
  • 57
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 40
  • 41
  • 42
  • More pages
  • 57
  • Sau

Những nhà thờ tuyệt đẹp ở phương Bắc xa xôi*

Vào mùa hè năm 2019, tôi cùng gia đình mình đã dành thời gian đi bộ đường dài dọc Na Uy. Phần lớn niềm vui thích đến từ khung cảnh tuyệt đẹp của các vịnh hẹp, nơi biển tiến sâu vào một dãy núi hùng vĩ và những ngôi làng hoang sơ cùng cánh đồng xanh nhanh chóng nhường chỗ cho những vách đá tối tăm gần như thẳng đứng. Nhưng tôi cũng rất ấn tượng khi đến thăm một số nhà thờ độc đáo thời Trung cổ nằm rải rác vùng Scandinavia. Và câu chuyện bảo tồn của họ khiến tôi liên tưởng đến các nhà thờ vùng Đông Bắc Việt Nam.

Chú thích:

* Bài viết đã được biên tập để đăng trên trang VNExpress International vào ngày 09 tháng 9 năm 2019.

Hơn một nghìn nhà thờ với những cây cột thẳng đứng giống như cột buồm (hay ván gỗ) được xây dựng từ thế kỷ 12 trở đi tại vùng đất mà ngày nay là Na Uy. Các nhà thờ nhỏ như nhà nguyện, với tối đa hơn hai chục cây cột đỡ kết cấu bằng gỗ. Tầng tầng lớp lớp các mái nhà lợp ngói chồng chất không đều, nhấp nhô cao dần khiến chúng trông như những con thú có mai đang hiền lành gặm cỏ trên những cánh đồng tươi tốt men theo vịnh hẹp.

Các Stave Church (nhà thờ cột và ván gỗ) được xây dựng vào giai đoạn một quốc gia Viking chuyển đổi sang Cơ đốc giáo, có thể là miễn cưỡng. Các trang trí chạm khắc xung quanh cửa mô phỏng hình rồng và quái vật, chứ không phải là những trinh nữ hay thánh. Và những bức phù điêu bằng gỗ của chúng kể các câu chuyện về thần thoại Scandinavia, không phải về Kinh Thánh. Sự kết hợp độc đáo giữa các di sản văn hóa Viking và Cơ đốc giáo khiến các nhà thờ cổ kính của Na Uy trở thành một kiểu kiến trúc đặc biệt. Tuy nhiên thật không may, chúng đã sớm trở thành một “loài” có nguy cơ tuyệt chủng.

Vào thế kỷ 14, Cái Chết Đen đã giết chết hai phần ba dân số địa phương. Nguồn nhân lực và tài nguyên sụt giảm khiến các nhà thờ không được bảo tồn, nhiều nhà thờ đổ sụp. Sau vài thế kỷ, tổn thất thậm chí còn nghiêm trọng hơn khi các cộng đồng địa phương trở nên thịnh vượng hơn. Kể từ đó, nhiều nhà thờ bị phá bỏ để xây dựng những nhà thờ lớn hơn.

Vào năm 1650, chỉ còn lại 270 nhà thờ cột, và đến năm 1800 chỉ còn sót lại 70 trong số đó. Đó là khi Fortidsminneforeningen, một tổ chức bảo tồn di sản lâu đời nhất trên thế giới ra đời, những người sáng lập ra nó là các nghệ sĩ, nhà sử học và nhà khảo cổ học. Nhân vật chủ chốt là J. C. Dahl, một họa sĩ nổi tiếng thời bấy giờ. Ông được biết đến chủ yếu với những bức tranh miêu tả phong cảnh Na Uy ảm đạm. Mặc dù sự nghiệp của ông chủ yếu ở nước ngoài, nhưng mỗi khi trở về nước, J. C. Dahl luôn xúc động trước vẻ đẹp của những nhà thờ cổ kính và mong muốn cứu chúng khỏi bị xóa sổ.

Fortidsminneforeningen kêu gọi bảo vệ các nhà thờ cột. Cùng với đó, họ huy động đóng góp quỹ để mua lại những nhà thờ sắp bị phá bỏ và cải tạo lại dựa trên cách họ hiểu về thiết kế ban đầu của nhà thờ trong quá khứ xa xôi.

Tổ chức này cũng đã giúp ghi lại hình ảnh và thông tin về các di sản quý giá có nguy cơ bị xóa sổ này. Những họa sĩ phác thảo tái hiện lại hình dáng đẹp đẽ của hàng chục nhà thờ cột, trong khi các nhà sử học nghiên cứu lịch sử của chúng. Nhờ vậy mà chúng ta được biết về Torolf, một thợ mộc bậc thầy, người đã xây dựng một vài công trình trong số đó với sự hỗ trợ của nửa tá trợ lý người địa phương cho mỗi công trình. Công việc của họ bao gồm chuẩn bị và lắp ráp gần 2.000 mảnh gỗ mà không cần bản thiết kế hay đinh, một thành tựu kỹ thuật đòi hỏi kỹ năng phi thường.

Khi nhận thức về di sản được nâng cao, việc phá dỡ các nhà thờ bằng gỗ dần chậm lại. Nó dừng lại hoàn toàn vào năm 1880, gần 35 năm sau khi tổ chức được thành lập. Đến nay, 28 nhà thờ cổ còn lại đều được bảo vệ thông qua sự kết hợp các sáng kiến của khu vực công và tư. Tám trong số đó nằm trong danh sách di sản của Na Uy và một trong số đó đã lọt vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO… nhưng đây là gần một thế kỷ rưỡi sau khi J. C. Dahl và các đồng nghiệp của ông bắt đầu chiến dịch của họ.

Khi đi thăm lần lượt từ nhà thờ cổ kính này đến nhà thờ cổ kính khác, tôi nghĩ rằng lịch sử của chúng rất tương đồng với câu chuyện đang xảy ra ở Việt Nam ngày nay. Trên thực tế có hơn 1.200 nhà thờ thuộc các giáo phận Bùi Chu, Phát Diệm và Thái Bình, ở các tỉnh Nam Định và Ninh Bình. Đây là nơi các nhà truyền giáo Công giáo đổ bộ vào năm 1553, rất lâu trước thời thuộc địa và biến vùng này trở thành cái nôi của Công giáo Việt Nam.

Nhiều nhà thờ ở vùng Đông Bắc Việt Nam có tuổi đời hơn một thế kỷ. Và cũng giống như ở Na Uy, chúng là sự kết hợp tuyệt vời giữa các truyền thống văn hóa hoàn toàn khác nhau. Các bố cục hình chữ thập là từ phương Tây, trong khi dáng vẻ tương tự đình chùa lại là nét châu Á không thể nhầm lẫn. Nhưng những công trình này đang bị đe dọa, khi người dân địa phương giàu lên và có đủ điều kiện thay thế các nhà thờ cũ bằng những công trình đồ sộ hơn (và với họ là đẹp hơn). Khi tôi rời Na Uy, nhìn lại kỳ nghỉ gia đình của mình, tôi cảm thấy có hy vọng. Theo các nhà sử học kinh tế, thu nhập bình quân đầu người của Na Uy vào giữa thế kỷ 19 tương đương với Việt Nam vào cuối thế kỷ 20. Trong khi đó, ở Việt Nam, nhận thức về di sản của cả người dân và chính phủ đang phát triển nhanh chóng. Sự giàu có và ý thức cao hơn cho phép người ta lạc quan. Nếu 28 trong số 70 nhà thờ cột còn lại có thể được cứu ở Na Uy, thì cũng có thể bảo tồn kiến trúc nguyên bản của một số lượng lớn các nhà thờ cổ ở vùng Đông Bắc Việt Nam.

Cùng với đó, chúng ta có thể ghi chép lại kiến trúc và lịch sử của những tòa nhà đặc biệt này. Ví dụ, chúng ta không biết liệu có nhân vật nào tương tự như người thợ mộc bậc thầy Torolf đã tham gia vào việc thiết kế và xây dựng các nhà thờ hay không. Và tuy rằng Việt Nam không trải qua bất cứ điều gì giống như Cái Chết Đen, chúng ta cũng đã bỏ qua nhiều điều về những gian khổ mà người dân địa phương đã trải qua trong cuộc đấu tranh giành độc lập của đất nước.

Đồng bằng sông Hồng hoàn toàn khác với các vịnh hẹp của Na Uy. Cảnh quan bằng phẳng, biển có màu nâu của sông, và không khí mù sương do độ ẩm cao làm mờ ranh giới giữa đất và trời. Có điều gì đó hơi buồn phía chân trời miên man, đây đó rải rác những tháp chuông nhà thờ xa tầm mắt.

Vì vậy, tôi không kỳ vọng sẽ có một lượng lớn du khách đổ bộ về các vùng quê của các tỉnh Nam Định và Ninh Bình. Nhưng hy vọng một ngày nào đó, có một số lượng không nhỏ du khách sẽ đến đây để chiêm ngưỡng những nhà thờ tráng lệ của những nơi này, giống như các du khách ở Na Uy.