Nhiều câu chuyện có thể được kể lại một cách đơn giản, nhưng thực tế thường phức tạp hơn. Mối quan hệ giữa thực dân và thuộc địa, giữa kẻ mạnh và kẻ yếu, là một trong những câu chuyện như thế. Và trong trường hợp này, không gì có thể minh họa tốt hơn về khoảng cách khác biệt giữa câu chuyện đơn giản với thực tế phức tạp bằng cuộc hành trình của Kermaria. Đây là một nhà nguyện khiêm tốn nhưng thực sự đáng yêu ở Brittany, trong lịch sử, đây vốn là một trong những vùng nghèo nhất nước Pháp, và cũng là một trong những vùng đẹp nhất.
Chú thích:
* Bài viết chưa được xuất bản, được viết vào tháng 01 năm 2023.
Câu chuyện mà ai cũng “biết” là chính phủ Pháp và Giáo hội Công giáo là những đồng minh gắn bó trong cuộc thập tự chinh của thực dân nhằm bòn rút của cải từ Việt Nam. Và điều này đa phần là đúng. Nhưng những người đã từng cầu nguyện ở Kermaria hay trong những nhà thờ xinh đẹp vùng Đông Bắc Việt Nam đều là những nông dân nghèo. Họ chưa từng bóc lột bất cứ ai. Họ chỉ đang tìm kiếm sự an ủi bằng một niềm tin về thế giới bên kia, nơi cuối cùng công lý sẽ được thực thi.
Karl Marx đã viết một câu nổi tiếng: “Tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng”. Nhưng câu trích dẫn phổ biến và có ý bài trừ này chỉ là một phần trong một đoạn văn lớn hơn mô tả về đức tin: “là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tâm hồn của những trật tự không có tâm hồn”.
Kermaria, giống như nhiều nhà thờ ý nghĩa ở vùng Đông Bắc Việt Nam, có thể là hiện thân của khát khao về một thế giới với trái tim rộng lớn hơn.
Trong suốt nhiều thế kỷ, cư dân của Brittany nghèo đến mức họ thường sống ở lằn ranh của việc sinh tồn. Khi những tiến bộ trong lĩnh vực hàng hải cho phép con người đương đầu với đại dương, họ trở thành thủy thủ. Họ đã vượt Đại Tây Dương trên những con tàu đơn sơ của mình để đánh bắt cá tuyết ở vùng biển ngoài khơi Canada ngày nay, dành nhiều tháng ở bên kia đại dương vào thời điểm mà nước Mỹ hầu như chưa được khám phá và có dân cư sinh sống. Rất ít người trong số họ biết bơi; nhiều người đã chết xa nhà.
Rồi khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, họ trở thành bia đỡ đạn cho những cuộc thảm sát bên trong chiến hào. Được cử ra tiền tuyến với số lượng lớn, rất ít người trong số họ nói được tiếng Pháp và có thể hiểu được các mệnh lệnh được giao cho họ. Dù sao thì các quan chức quân đội ra những mệnh lệnh đó cũng kém cỏi một cách thảm hại và hoàn toàn vô cảm trước những đau khổ xung quanh. Cũng như những người nông dân nghèo từ Brittany, các cộng đồng dân cư khiêm tốn ở Đông Bắc Việt Nam cũng bị cuốn vào một cuộc xung đột đẫm máu vốn không phải của họ, và họ đã phải chịu đựng điều đó với nỗi kinh hoàng.
Mỗi ngôi làng ở Brittany đều có một đài tưởng niệm những người đã chết trong Thế chiến thứ nhất, và số lượng tên trong đó dường như dài hơn dân số hiện tại của ngôi làng. Có gia đình mất ba, bốn thậm chí năm đứa con trong cuộc xung đột giữa những đế quốc tham lam vốn không màng đến sự nghèo khổ của họ. Đối với những kẻ có quyền lực, những nông dân này chỉ là bộ binh dùng một lần trong cuộc tranh giành quyền lực toàn cầu.
Chưa hết, bắt đầu từ thế kỷ 12, những người nông dân nghèo, bị coi là dốt nát này đã xây dựng được một nhà nguyện cực kỳ tinh xảo và cảm động. Với mái nhà bằng gỗ có hình dạng như một chiếc thuyền lật ngược, với những tượng thánh chất phác có khuôn mặt ngộ nghĩnh giống những người dân Brittany, và với mái nhà lợp bằng đá phiến trông giống như một chiếc mũ giáp thời trung cổ, Kermaria thực sự vô cùng quyến rũ.
Tuy nhiên, điều khiến nó trở nên đặc biệt hơn cả là Danse macabre của nó, hay còn được gọi là Vũ điệu Tử thần. Thuật ngữ này được sử dụng để nói về những bức bích họa dài dọc theo các bức tường bên trong các nhà thờ, mô tả việc tất cả mọi người bị đưa đến Ngày Phán xét. Ở hai bên của mỗi nạn nhân, những bộ xương đang nhe miệng cười được trang bị những chiếc liềm lớn, lắc lư và vui mừng. Không ai trốn thoát: hoàng đế và giáo hoàng, nhà vua và giám mục… Thông điệp gửi tới những kẻ có quyền lực rất rõ ràng: “Hôm nay các người khiến chúng tôi khốn khổ, nhưng số phận của các người cũng giống như số phận của chúng tôi”.
Không còn nhiều những Vũ điệu Tử thần thời Trung cổ này còn sót lại: trong số đó chỉ có bảy tác phẩm ở Pháp và vài chục tác phẩm trên khắp châu Âu. Nhưng bức bích họa ở Kermaria, được vẽ vào khoảng năm 1500, là một trong những bức được bảo tồn tốt nhất và là một trong những bức cuốn hút nhất.
Tuy nhiên, không phải tất cả các nhân vật trong Vũ điệu Tử thần đều được áp giải bởi những bộ xương đáng sợ ở hai bên. Ở Kermaria, một bác sĩ, một phụ nữ và một nông dân nghèo đã được sắp xếp để ở bên nhau, nắm tay nhau khi tiến tới Ngày Phán xét đáng sợ. Thông thường, trên khắp châu Âu, những người yêu nhau sẽ nắm tay nhau, như thể không gì có thể chia cắt họ. Thậm chí cả cái chết.
Nhiều năm trôi qua và Vũ điệu Tử thần tuyệt vời của Kermaria đã dần biến mất dưới những lớp thạch cao và vôi quét. Sau đó, vào thế kỷ 19, giám mục của một thị trấn gần đó tha thiết muốn xây dựng một nhà thờ lớn và hiện đại, đến nỗi ông đã nghĩ đến việc phá bỏ các công trình kiến trúc cũ xung quanh để lấy đá và các tác phẩm nghệ thuật cho dự án phù phiếm của mình. Khi đó Kermaria đã bắt đầu bị lên kế hoạch phá dỡ, tương tự như Bùi Chu ở Việt Nam.
Nhưng có lẽ Chúa không muốn điều này xảy ra. Vào năm 1856, một cơn bão đã khiến những mảng thạch cao từ các bức tường bên trong nhà nguyện rơi xuống, và một phần của Vũ điệu Tử thần lại được nhìn thấy một lần nữa. Cảm xúc khi nhìn thấy bức bích họa thời trung cổ đã rung động mạnh mẽ đến mức hàng trang hàng trang chữ ký kêu gọi đã không ngừng tăng lên tại địa phương, để yêu cầu bảo tồn cho Kermaria.
Phải mất nửa thế kỷ để điều này cuối cùng cũng xảy ra. Nhưng nó đã xảy ra. Và bằng cách đấu tranh cho nhà nguyện xinh đẹp của họ, những người nông dân nghèo ở Kermaria đã cứu được một di sản thế giới độc nhất vô nhị. Khi thực hiện điều đó, họ đã nói với những người có quyền lực - bao gồm cả các giám mục - rằng sẽ có ngày công lý không tha cho họ. Ngày mà thế giới sẽ trở nên thành tâm hơn và những người yêu nhau sẽ không còn bị cái chết ngăn cách nữa.