Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1922-2008), tên khai sinh là Phan Văn Hòa, bí danh là Sáu Dân. Ông sinh ra trong gia đình nông dân có truyền thống cách mạng và một vùng đất giàu lịch sử yêu nước và đấu tranh anh dũng của biết bao thế hệ kiên cường tại thôn Bình Phụng, làng Trung Lương, tổng Bình Trung, huyện Vĩnh Trị, tỉnh Vĩnh Long (nay là ấp Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long). Có lẽ vì nguyên cớ này, ngọn lửa cách mạng trong ông đã sớm được thắp sáng và càng rực rỡ về sau này.
Quê hương ông là một vùng đất trù phú thuộc đồng bằng châu thổ nằm giữa hai con sông Tiền và sông Hậu với khí hậu ôn hòa. Nơi đây có một vị trí khá đặc biệt, bốn phía đều giáp với các tỉnh, thành phố năng động, phát triển: Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ và Đồng Tháp. Song song đó, thành phố Vĩnh Long còn là trung tâm kinh tế, văn hóa và đầu mối giao thông quan trọng.
Được biết, tỉnh Vĩnh Long ra đời khá muộn (cách đây 300 năm), đây là một vùng đất có lịch sử khai phá, đấu tranh bảo vệ bờ cõi cũng như góp phần vào công cuộc mở rộng lãnh thổ về phía Nam của đất nước ta từ lâu. Vào khoảng giữa thế kỷ XVII, những người nông dân nghèo miền Trung (do bị bóc lột, lao dịch nên đã đến địa bàn nơi đây khai phá) được cho là những người dân đầu tiên của Vĩnh Long.
Từ lâu, Vĩnh Long đã được biết đến là nơi giàu truyền thống yêu nước, đoàn kết. Trong những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của nông dân, ta có thể nhắc đến cuộc khởi nghĩa Lạc Hóa (1841) diễn ra dưới thời Nguyễn. Về sau, con đường cách mạng ở Vĩnh Long ngày càng tiến bộ với sự chuyển biến từ phong trào yêu nước sang con đường cách mạng vô sản. Đặc biệt, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thì Vĩnh Long cũng thành lập năm chi bộ đảng cộng sản. Từ đó, phong trào cách mạng nơi đây càng có quy mô, hành động nhất quán, rộng mở và hiệu quả hơn.
Do đó, ta có thể nói rằng, chính quê hương được mệnh danh là vùng “đất học” này cũng như tinh thần trượng nghĩa, truyền thống chiến đấu anh dũng, bất khuất dạt dào nơi đây đã phần nào hun đúc cho Phan Văn Hòa một bản lĩnh vững vàng cùng một ý chí đấu tranh giải phóng dân tộc cháy bỏng. Sau này, trên con đường hoạt động cách mạng truân chuyên của mình, Phan Văn Hòa dần ít dịp trở về quê hương. Dẫu vậy, tình yêu quê hương, gia đình bao giờ cũng diết da, sâu nặng đối với đồng chí.
Như đã nhắc trên đây, Phan Văn Hòa xuất thân trong một gia đình nông dân đông con nghèo khó. Từng có một thời gian, gia đình ông không có lấy một nơi để trú thân. Sinh thời, cha mẹ ông có tám người con và Phan Văn Hòa là người con út. Do cuộc sống bươn chải vất vả, nhọc nhằn đã khiến thân mẫu ông ra đi khá sớm. Sau này, khi lập gia thất, ông kết hôn với bà Trần Thị Kim Anh, một phụ nữ xuất thân từ gia đình khá giả, giàu tinh thần yêu nước.
Trong hoàn cảnh kháng chiến lúc ấy, hai người phải thường xa cách. Tình yêu của hai người được đơm kết thành bốn người con: hai trai, hai gái. Những tháng ngày gần gụi nhau là đoạn thời hạnh phúc, bình yên biết mấy đối với đôi vợ chồng. Dẫu vậy, niềm vui chẳng kéo dài bao lâu thì đồng chí Phan Văn Hòa nhận được tin ác rằng vợ và đứa con mới 4 tháng tuổi đã bị máy bay Mỹ thảm sát. Ít lâu sau, người con trai lớn - Phan Chí Dũng cũng hy sinh tại Rạch Giá khi chỉ mới 21 tuổi.
Ngót gần 20 năm kể từ khi vợ mất, đồng chí mới tục huyền với bà Phan Lương Cầm. Kể từ đó, bà cùng đồng chí Phan Văn Hòa nuôi dạy và bồi dưỡng những tri thức khoa học, kỹ thuật, lý luận, thực tiễn về sự nghiệp cách mạng cho các con.
Trong gia cảnh khó khăn, thiếu thốn ngày thơ ấu, Phan Văn Hòa sớm cảm nhận được sự nối kết sâu sắc và tình yêu vô bờ đối với quê hương, đất nước cùng những người lao động nghèo. Nguyên cớ là bởi từ thuở bé ông đã phải rời xa vòng tay mẹ mà trở thành con nuôi cho ông Phan Văn Chi.
Trong thời gian ấy, ông được nuôi nấng và lớn lên bởi sữa từ nhiều phụ nữ trong vùng. Thuở nhỏ, ông là một đứa trẻ hiếu động, yêu các vở hát bội và có niềm say mê đặc biệt với những người có “nghề” võ. Thế nên, ông đã theo thầy học võ với mong muốn là bảo vệ bản thân và những người yếu thế.
Năm 10 tuổi, ông được đi học tại một lớp vỡ lòng ở làng Bình Phụng. Ấy vậy nhưng con đường học vấn của ông chẳng hanh thông bởi cùng lúc ông phải phụ giúp gia đình việc đồng áng. Thêm vào đó, ông còn phải đi ở đợ cho các gia đình khác trong vùng. May mắn thay, nhờ khoảng thời gian đó ông thường đi ôm gà phụ cho ông chủ trong gia đình đó mà sau này ông biết thêm nhiều vùng, nhiều lối đi để sau này phục vụ cho công tác liên lạc và thoát khỏi sự lùng sục của kẻ thù khi khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại.
Song, suốt thời thơ ấu rày đây mai đó “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” đã hun đúc một ý chí sắt đá “cứu nước, cứu dân” trong Phan Văn Hòa. Bởi càng thu vào tầm mắt nỗi cơ cực của người dân, sự xa xỉ, phung phí của những kẻ giàu có, trịch thượng càng làm tăng sự đồng cảm, lòng căm thù các thế lực cường quyền. Do đó, ngay khi được giác ngộ thì đồng chí đã quyết tâm hy sinh vì cách mạng.