Chiếc xẻng cần đạt một số yêu cầu nhất định: mũi nhọn, cán ngắn để tiện sử dụng trong không gian hẹp. Anh tìm thấy đúng thứ mình cần ở siêu thị tại khu bán đồ làm vườn.
Anh xếp gọn chiếc xẻng vào xe đẩy và khoan thai đi giữa các kệ hàng lấy thêm vài món đồ nữa: mấy cục pin, một túi đất trồng cây, một can thuốc diệt cỏ. Tiếp đó là hai đôi găng tay lao động bằng da. Ở quầy thực phẩm, anh mua bốn chiếc sandwich bọc màng nhựa và một chai nước.
Các quầy thanh toán đều đông nghẹt người. Anh đứng xếp hàng dưới ánh đèn neon nhấp nháy và cân nhắc hình thức thanh toán. Trong ví anh có một thẻ tín dụng mang tên David Loogan. Không phải tên khai sinh, nhưng giờ đó là cái tên anh sử dụng. Anh sẽ không dùng tấm thẻ tín dụng này.
Anh nhẩm tính trong đầu và quyết định sẽ thanh toán bằng tiền mặt.
Hàng người nhích dần lên phía trước, anh tin rằng mình sẽ ra khỏi đây thật nhanh và dễ dàng, nhưng anh đã lầm. Người thu ngân muốn tán gẫu một chút.
“Hình như tôi đã gặp anh ở đâu rồi”, cô ta nói.
“Không chắc đâu.”
Cô ta cao, vòng hông nở nang, toát lên vẻ hấp dẫn mặc dù ánh đèn lạnh lẽo làm nổi bật những nếp nhăn quanh mắt và miệng.
“Nhìn anh quen lắm”, cô nói.
Người đàn ông với cái tên David Loogan không muốn mình trở nên quen thuộc với bất kì ai. Anh muốn mình phải thật mờ nhạt, không có gì đáng nhớ cả.
“Có lẽ tôi đã từng gặp anh mua hàng ở đây rồi”, cô thu ngân gợi ý.
“Chắc thế rồi”, anh nở một nụ cười xã giao.
Anh bận bịu bày các món đồ lên quầy thanh toán. Cô thu ngân cầm chĩa mũi xẻng lên trời để quét mã in ở cán cầm.
“Chắc hẳn anh là một thợ làm vườn”, cô nói.
Đáng ra anh có thể đồng ý và mọi chuyện sẽ kết thúc ở đó, nhưng anh lại thấy bối rối. Anh định nói “Tôi là một biên tập viên” nhưng lập tức ngừng lại. Không thể nói sự thật được. Anh sử dụng ngay lời nói dối đầu tiên xuất hiện trong đầu:
“Tôi là nghệ sĩ tung hứng”, anh nói.
Đó là một sai lầm. Cô cảm thấy anh thật quyến rũ. Cô mỉm cười, đặt chiếc xẻng xuống cuối quầy thu ngân và với lấy túi đất một cách chậm rãi.
“Chắc là anh phải giỏi lắm”, cô nói nhẹ nhàng, “Tôi chưa từng thấy ai tung hứng xẻng xúc đất bao giờ. Nhưng thế này sao đủ được nhỉ? Anh phải dùng đến ba cái xẻng chứ?”.
Nào thì quyến rũ, anh nói:
“Tôi có sẵn ba cái xẻng rồi. Ai cũng tung được ba cái. Nhưng ai tung hứng được bốn cái mới thật là giỏi.”
“Thế thì hẳn là đặc biệt lắm”, cô nói, “Anh làm việc ở đâu? Tiệc cho thiếu nhi à?”.
Anh chờ vài giây và trả lời bằng giọng nghiêm túc nhất có thể:
“Tiệc ngoài vườn.”
“Chà. Thế thì anh có chắc chúng ta chưa gặp nhau bao giờ không?”
Rõ ràng cô ta đang tán tỉnh mình, Loogan thầm nghĩ. Anh nhìn ngón tay khi cô quét mã của chiếc sandwich. Một chiếc nhẫn cưới.
“Tôi thề là đã từng gặp anh rồi”, cô nói, “có khi chúng ta từng học cùng một trường cũng nên”.
“Tôi chưa từng đến trường”, anh đáp, “Tất cả những gì tôi biết về môn tung hứng đều nhờ tự học”.
“Nghiêm túc đấy. Tôi tin là chúng ta từng học cùng trường trung học.”
“Tôi đâu có học trung học ở đây.”
“Ừ thì tôi cũng thế”, cô nói, “Mà cũng lâu lắm rồi. Nhưng anh khiến tôi nhớ đến một người bạn trai học cùng lớp. Để tôi nhớ xem tên anh ta là gì nào”.
Cô cho găng tay và pin vào cùng một túi, thuốc diệt cỏ thì để vào túi khác.
“Dennis”, cô thốt lên, mắt ngước nhìn anh, “hay là Daniel nhỉ?”.
David Loogan cầm lấy cái xẻng trên mặt quầy và tưởng tượng ra cảnh mình đâm lưỡi xẻng vào cổ người thu ngân.
“Ted”, anh nói với cô, “Tên tôi là Ted Carmady”.
Cô mỉm cười lắc đầu:
“Anh chắc không?”
“Chắc chắn.”
“Thế tôi đoán sai bét còn gì”, cô bỏ qua với một cái nhún vai.
Anh để chiếc xẻng vào xe đẩy trong khi người thu ngân tính tiền. Anh chắc rằng cô không còn hứng thú gì nữa, nhưng cô lại nguệch ngoạc gì đó trên tờ hóa đơn trước khi đưa cho anh. Khi đi ra anh liếc nhìn mảnh giấy và đọc tên cô (Allison) cùng với số điện thoại trên đó trước khi kín đáo vò nát nó.
Ở bãi đỗ xe, Loogan chỉnh lại cổ chiếc áo da màu đen và nhìn đồng hồ. Chín giờ rưỡi tối thứ Tư của một ngày tháng Mười. Trời mưa nhỏ và những chiếc xe đậu trong bãi sáng lên dưới ánh đèn vàng.
Ánh đèn làm anh yên tâm. Anh không sợ bóng tối, nhưng lại thường cảm thấy khó chịu khi đi ra ngoài sau khi mặt trời lặn. Các bãi đỗ xe làm anh căng thẳng. Những tiếng bước chân vọng từ bãi đỗ xe vào ban đêm cũng đủ làm tim anh đập thình thịch.
Loogan bước chậm rãi giữa những hàng ô tô, tay đẩy chiếc xe hàng. Anh cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy một bóng người đang tiến về phía mình. Đó là một gã đàn ông gầy gò với khuôn mặt hốc hác và đôi mắt sâu. Hắn mặc một chiếc áo khoác có mũ trùm đầu, quần rách ở đầu gối. Tay phải đút trong túi áo.
Loogan chợt nghe thấy tiếng ù phát ra từ những chiếc đèn, tiếng bánh xe của cái xe đẩy.
Mày ổn mà - anh tự nhủ. Sẽ không có chuyện gì đâu.
Khi người đó tới gần, hắn bỏ tay khỏi túi áo khoác. Loogan nhìn thấy ánh phản chiếu. Bằng kim loại, anh nghĩ. Một lưỡi dao.
Theo phản xạ anh với tay định chộp lấy cổ tay hắn nhưng dừng lại kịp lúc. Gã đàn ông gầy gò nhảy lùi lại và chạy vụt qua, nắm chặt trước ngực một chiếc điện thoại màu xám bạc. Hắn lẩm bẩm gì đó mà Loogan không nghe được.
Sau khi hắn đi mất, chuyện dừng lại ở đó và Loogan tới chỗ đỗ xe của mình. Anh bỏ cái xẻng vào cốp xe cùng với túi đất và các món đồ còn lại. Anh đóng cốp và đẩy chiếc xe hàng tới một chỗ còn trống.
Tiếng ù của những chiếc đèn giờ đã ngừng. Mọi thứ trở lại bình thường. David Loogan chỉ là một người tới mua hàng như bao người khác. Chẳng ai có thể thấy điều gì bất thường cả. Anh mở cửa xe và trượt vào sau tay lái. Trông anh chẳng có vẻ gì giống một người đang sửa soạn đi đào huyệt mộ.
Người đàn ông tự xưng là David Loogan này đã tới sống ở Ann Arbor từ tháng Ba. Anh thuê một ngôi nhà nhỏ có sẵn đồ đạc ở mạn phía tây: một ngôi nhà khung gỗ mái nhọn với hành lang phía trước, sân nhỏ phía sau nhà có hàng rào mắt cáo bao quanh.
Anh la cà cả ngày quanh khu phố Liberty và State, đọc báo trong quán café, xem phim ở rạp Michigan. Anh quan sát đám sinh viên đại học đi và về, nghe lén họ tán gẫu với nhau. Anh không có vẻ lạc lõng giữa đám sinh viên: ở tuổi ba mươi tám, người ta có thể nhầm anh là một sinh viên lớn tuổi hoặc một giảng viên trẻ.
Ngôi nhà anh thuê nằm ở góc phố có hàng cây trồng thẳng tắp vốn thuộc về một giáo sư sử học hiện đang trong kì nghỉ phép để tập trung nghiên cứu ở nước ngoài. Khu vườn sau nhà bị bỏ hoang. Trong tháng Tư, David Loogan bỏ ra vài ngày thử trồng hoa ở đó. Anh mua hạt giống và gieo xuống đất. Sau đó anh tưới nước và chờ đợi. Chẳng có tiến triển gì cả.
Vào một buổi chiều tháng Năm, anh tìm thấy một tờ tạp chí truyện ngắn ai đó đã bỏ quên ở quán café. Nó có tên là Gray Streets. Anh gọi một cốc cappuccino, ngồi trên ghế nệm dày cộp rồi bắt đầu đọc mẩu chuyện về một người đàn ông bị khép tội giết người bởi một phụ nữ xinh đẹp và bí ẩn.
Ngày hôm sau, anh dọn dẹp lại văn phòng của vị giáo sư, bỏ đống sách vở khỏi mặt bàn. Anh mở máy tính và bắt đầu viết câu chuyện về một kẻ giết người mang chứng sợ những bãi đỗ xe. Anh mất ba ngày để hoàn thành bản nháp mà sau khi in ra và đọc qua một lần, anh xé nó làm đôi rồi tống vào sọt rác.
Bản thứ hai anh viết mất bốn ngày, và anh thấy cũng chỉ tạm chấp nhận được. Anh vứt xấp bản thảo trên bàn suốt một tuần. Một buổi tối anh nhét nó vào ngăn kéo và bắt đầu viết lại lần thứ ba. Mất vài đêm cặm cụi anh mới tìm được cốt truyện ưng ý. Kẻ giết người trở thành người hùng của cả câu chuyện khi cứu một cô gái từ tay nhân vật phản diện. Cao trào của câu chuyện diễn ra ở tầng trên cùng của một bãi đỗ xe. Loogan lưỡng lự có nên để cô gái ở lại với kẻ giết người sau khi được cứu không, nhưng sau cùng anh quyết định sẽ hay hơn nếu cuối cùng cô ta bỏ đi.
Khi đã nghĩ ra đoạn kết ưng ý, anh in một bản hoàn chỉnh có tựa đề ở trang đầu nhưng không đề tên tác giả hoặc địa chỉ liên lạc. Sau đó anh xem tờ Gray Streets để tìm địa chỉ tòa soạn tạp chí. Nó nằm cách chỗ anh chừng vài phút đi xe, trên tầng sáu của một tòa nhà dưới phố. Anh đến đó và thấy cửa trước bị khóa vì là ngày thứ Bảy, nhưng anh tìm được lối đi cho nhân viên ở phía sau - tấm cửa thép được chặn bằng một viên gạch. Một cầu thang bẩn thỉu dẫn tới tầng sáu. Anh đi qua văn phòng của một kế toán và một công ty làm phim tài liệu trước khi tới được nơi mình cần. Trên cửa kính mờ, dòng chữ màu đen được viết gọn gàng: Gray Streets.
Anh để bản thảo trong phong bì không đề tên. Nó quá dày để có thể nhét qua khe cửa dưới, nhưng phía trên có một ô cửa nhỏ. Anh luồn tập bản thảo qua đó và nghe thấy tiếng nó rơi trên sàn phía bên kia cánh cửa.
Những ngày sau đó, anh trở lại với nhịp sinh hoạt thường lệ, đi xem phim và la cà quán café. Một đêm khó ngủ, anh vào văn phòng của giáo sư và ngồi trước máy tính vừa đọc kĩ từng dòng vừa chỉnh sửa. Anh cắt bớt một số từ ngữ không cần thiết và cảm thấy câu văn mạnh mẽ hơn nhiều. Ngày hôm sau anh in một bản thảo mới và ghé qua tòa soạn sau giờ làm việc, leo lên chiếc cầu thang hẹp, luồn một phong bì nữa qua ô cửa.
Anh chắc rằng đây là lần cuối cùng. Anh giữ cho mình bận rộn bằng cách đi lượn khắp nơi: từ viện bảo tàng, triển lãm nghệ thuật cho tới công viên. Nhưng mọi chuyện chưa dừng ở đó. Trí nhớ của anh thật tinh tường, anh có thể nhớ được từng câu, từng đoạn văn; đến nỗi có thể viết lại chúng khi đi trên đường hoặc khi ngừng lại ngắm một bức tranh. Lại một đêm mất ngủ nữa trong văn phòng của giáo sư, anh ở trong đó một tiếng, rồi ba tiếng, nghiền ngẫm từng từ, sửa từng dấu chấm dấu phẩy.
Anh định sẽ để mặc nó trên ổ cứng máy tính. Hay in nó ra thì sao nhỉ? Hai ngày sau, vào lúc chạng vạng tối, anh lại một lần nữa đứng ở hành lang đó, tập bản thảo bỏ trong phong bì kẹp dưới nách. Anh đứng trước cánh cửa có ô cửa mở phía trên, cố gắng nhìn qua lớp kính mờ. Có lẽ đằng sau cánh cửa đó chẳng có ai cả, anh thầm nghĩ. Chỉ là một căn phòng trống, dưới sàn có hai cái phong bì bám đầy bụi. Và giờ thì lại thêm một cái thứ ba nữa.
Đột nhiên cánh cửa bật mở.
Người đàn ông mở cửa mặc một bộ đồ màu xanh đậm với sơ mi xanh da trời và ca vát lụa. Anh ta dừng lại để đội mũ - một chiếc mũ phớt màu đen có dải băng cùng màu với bộ quần áo. Người đó bỏ mũ xuống và mở rộng cửa khi nhìn thấy Loogan với chiếc phong bì.
“Là anh đó à”, người đó nói, “vào đây đi”.
Anh ta lẩn vào bóng tối của căn phòng và vài giây sau đèn bật sáng ở văn phòng phía trong. Đứng ở khung cửa được thắp sáng, người đó cầm mũ vẫy Loogan lại gần.
Loogan toan bước tới.
“Tôi không thể ở lại được”, anh nói.
“Sao thế?”
Biết trả lời thế nào đây. Câu trả lời trong tâm trí anh - bởi vì trời sắp tối - sẽ có vẻ thật kì quặc.
“Không có chuyện tôi ra lôi cậu vào đây đâu”, người đàn ông bận đồ xanh nói.
Giọng nói của anh ta có một vẻ trang trọng kì cục, y như giọng diễn viên đọc lời thoại. Anh ta ra hiệu cho Loogan ngồi xuống ghế và đi ra sau bàn giấy. Giữa đống giấy tờ trên mặt bàn, Loogan nhìn thấy hai phong bì của mình, cả hai đều có vết mở ở bên cạnh.
“Tôi đã chờ anh đến”, người đàn ông mặc đồ xanh nói, “Thông minh lắm, cậu không đề tên. Điều đó làm tôi chú ý”.
Anh ta quẳng chiếc mũ vào khay đựng giấy. Loogan không nói một lời.
“Lần này cũng lại là truyện đó à, hay là một tác phẩm khác?”
Nhìn xuống chiếc phong bì để trên đùi, Loogan nói: “Vẫn là nó. Tôi đã chỉnh sửa thêm một chút”.
“Cậu cứ cẩn thận đấy. Nếu truyện này hay hơn nữa, tôi không thể xuất bản được.” Anh ta ngồi xuống ghế sau bàn giấy. “Lí do tôi chờ cậu ở đây là: Tôi muốn dành cho cậu một lời đề nghị. Tôi muốn cậu làm việc cho tôi.”
Thật là bất ngờ. Loogan cau mày.
“Tôi không phải là nhà văn.”
“Tôi không cần thêm nhà văn nữa. Giờ tôi có cả đám nhà văn ngồi nguệch ngoạc trong văn phòng này, toàn một lũ vô tích sự. Không, người tôi cần là một biên tập viên.”
Loogan nhấp nhổm trên ghế.
“Tôi không nghĩ là mình đủ khả năng. Tôi chưa học qua nghề này bao giờ.”
“Làm gì có ai được học nghề này từ trước đâu”, anh ta nói. “Người ta không học cái này ở trường. Chẳng có ai dự định làm nghề biên tập. Nó là một chuyện gì đó xảy đến với anh, kiểu như bệnh vàng da hoặc ngã xuống giếng vậy.”
Người đó chỉ tay vào tập phong bì của Loogan:
“Tôi thích những gì mà cậu đã làm. Mỗi bản thảo đều có sự cải tiến rõ rệt. Vấn đề là, cậu có làm được thế với tác phẩm của người khác hay không?”
Loogan nhìn ra cửa sổ, bên ngoài là một màu tối sẫm. Chẳng có vấn đề gì, anh nghĩ. Mình có thể từ chối lúc nào cũng được.
“Coi như tôi làm được đi”, anh tự nghe thấy tiếng mình nói, “nhưng giờ tôi không cần tìm việc làm. Tôi không biết mình sẽ cảm thấy sao khi phải tới văn phòng làm việc mỗi buổi sáng”.
Người đàn ông bận đồ xanh ngồi ngả người trên ghế.
“Cậu không phải đến đây đâu. Cậu có thể làm ở nhà, cũng chẳng cần làm việc theo lịch. Chỉ cần cậu làm một thứ thôi.”
“Gì vậy?”
“Nói cho tôi biết tên cậu.”
Một phút ngập ngừng. Sau đó:
“David Loogan.”
“Tom Kristoll.”