Tom Kristoll sở hữu một căn nhà trên sườn đồi có rừng cây bao phủ nhìn ra sông Huron. Đó là một sự kết hợp đồ sộ giữa những dầm gỗ lớn và cửa kính rộng.
Mái nhà ốp đá đen, sân trong cũng lát đá. Một cầu thang rộng cũng bằng đá dẫn tới bể bơi.
Vào những kì nghỉ cuối tuần của mùa hè, Kristoll tổ chức tiệc cho nhân viên và các cây viết của tạp chí Gray Streets. Lần đầu được mời, Loogan đã định sẽ không đến, nhưng Kristoll đích thân gọi cho anh vào đầu giờ chiều. Họ đã chuẩn bị đủ thứ cho buổi tiệc nướng ngoài trời, chỉ thiếu mỗi nước sốt, liệu anh có thể tiện đường mua giúp không? Loogan đành miễn cưỡng đồng ý. Anh tới bữa tiệc và bắt gặp Kristoll bận đồ trắng từ đầu đến chân đang chỉ đạo việc chuẩn bị vỉ nướng. Vợ Kristoll càu nhàu vì anh ta bắt cả khách khứa làm việc. Cô ta tiếp đón Loogan, dẫn anh đi thăm một vòng ngôi nhà rồi giới thiệu anh với một loạt văn sĩ và thực tập sinh.
“Đây là David Loogan”, cô nói với họ, “biên tập viên mới của Tom”.
Laura Kristoll mặc một chiếc áo cánh màu xanh da trời và quần lửng. Cô gái với mái tóc vàng óng mượt này có bằng nghiên cứu về văn học Anh, môn mà hiện giờ cô đang giảng dạy ở trường đại học. Phần lớn thực tập sinh ở đó là sinh viên của cô. Cô đảm bảo Loogan lúc nào cũng có đủ đồ uống. Cô đưa anh khăn tắm và đồ bơi để dùng nếu anh muốn ra bể bơi. Khi anh lang thang về phía bìa rừng để lánh khỏi đám đông, cô cũng để anh được tự nhiên.
Sau đó, khi anh sửa soạn ra về, cô đến gần anh và nói nhỏ:
“David, hình như tối nay anh không được thoải mái cho lắm.”
“Có đấy chứ”, anh nói với cô.
“Thế thì anh sẽ quay lại đây chứ?”
“Đương nhiên rồi”, anh nói, mặc dù trong thâm tâm anh chẳng có ý định đó.
Suốt mùa hè, Loogan nhận một loạt dự án biên tập từ Tom Kristoll. Anh làm việc với nhiều tác phẩm cùng một lúc và chẳng bao lâu sau, những tập bản thảo đã chất ngập cả ngôi nhà. Trên từng trang giấy đều có những phần chỉnh sửa được anh ghi bằng nét chữ ngay ngắn rõ ràng.
Vào một buổi tối của tháng Bảy, Kristoll gọi điện mời Loogan đi uống rượu. Loogan lái xe tới một quán ăn dưới phố. Người phục vụ dẫn anh tới một quầy nhỏ lát gỗ màu sẫm, được chiếu sáng bằng duy nhất một bóng đèn treo trên giá bằng thép. Kristoll gọi cho anh một ly rượu Scotch.
“Thế mà cứ tưởng cậu sẽ không chịu đến cơ đấy”, Kristoll nói. “Tôi định sẽ phải tới lôi cậu ra đây. Kế hoạch, lời thoại đã sẵn sàng hết rồi: ‘Khi tôi mời cậu một ly, cậu phải uống cạn mà tận hưởng’. Tôi định nói thế đấy.”
Loogan giả bộ thư giãn. Anh ngồi xoay ngang, quay lưng về phía tường, chân trái gập lại còn chân phải duỗi thẳng dọc theo nệm ghế.
“Cậu kín tiếng lắm”, Kristoll nói, “nhưng tôi cũng thích kiểu người kín tiếng không kém gì những loại người khác. Tôi không bắt cậu tiết lộ bí mật của mình đâu”.
“Tôi chẳng có bí mật nào hết, Tom à. Anh có thể hỏi tôi bất cứ chuyện gì.”
“Vậy thì, cậu từ đâu tới?”
“Portland.”
“Cậu chuyển tới Ann Arbor được bao lâu rồi?”
“Bốn tháng.”
“Cậu làm gì trước khi tới chỗ tôi.”
“Ý anh là công việc à?”
“Đúng thế.”
“Tôi làm việc ở gánh xiếc.”
“Liệu tôi có phải cho cậu biết là ở Ann Arbor này chẳng có gánh xiếc nào hết?”
“Không phải ở Ann Arbor đâu”, Loogan nói, “đấy là trước khi tôi chuyển đến đây”.
“Vậy là cậu trốn khỏi gánh xiếc và tới Ann Arbor.”
“Cũng gần như vậy.”
“Nhiều người đi theo hướng ngược lại cơ đấy. Cậu làm gì ở gánh xiếc?”
“Tôi là nghệ sĩ tung hứng.”
“Chúng ta có nên nói tiếp về chủ đề này không nhỉ?”, Kristoll hỏi.
“Gọi bồi bàn đi Tom. Bảo cô ấy mang đến vài cái bánh mỳ nữa. Tôi sẽ chứng minh cho anh thấy.”
“À còn về quê nhà của cậu, Portland ấy. Nó nằm ở bang Oregon hay Maine.”
“Anh thích chỗ nào hơn?”
Kristoll bật cười và cầm lấy cốc. Loogan với tay lên trên, đầu ngón tay đung đưa nhè nhẹ chụp đèn bằng thép. Một lúc sau, người hầu bàn đem tới một lượt rượu mới và họ tán gẫu về những chuyện khác: chất lượng các cây viết của tờ Gray Streets, về các nhà văn nói chung, cái nóng mùa hè ở Michigan.
Đó là một buổi nói chuyện dễ chịu và vào những buổi tối sau đó, họ tiếp tục tán gẫu với nhau ở cùng một quầy rượu hoặc trong văn phòng của Kristoll. Một lần, Kristoll bất chợt tới viếng thăm nhà Loogan.
“Cậu mà không cho tôi vào nhà thì cũng bằng đuổi tôi xuống địa ngục, David à!”, Kristoll nói.
“Không đâu. Mời anh vào”, Loogan đáp.
Kristoll xem xét đồ đạc trong phòng khách, mặt đá lò sưởi. Anh ta thực sự ngưỡng mộ những bức tranh và họa tiết treo trên tường.
“Chúng không phải của tôi đâu”, Loogan nói.
“Dĩ nhiên rồi.”
Khác với Loogan, Kristoll chẳng giấu giếm gì khi nói về bản thân mình. Anh ta lớn lên trong khu ngoại ô trung lưu ở Detroit, chuyển đến Ann Arbor để học trường Đại học Michigan. Anh ta gặp vợ mình ở đó và cùng với một nhóm bạn nhỏ sáng lập nên tạp chí Gray Streets - một tòa soạn sinh viên. Tạp chí tương đối thành công trong bốn năm, cho tới khi Kristoll và vợ chuyển tới bang khác học cao học. Khi Laura Kristoll trở về Ann Arbor dạy ở trường đại học, Tom Kristoll bắt đầu tìm cách phục hưng tòa soạn, dần dần giành nó khỏi tay đám sinh viên.
Trong những năm sau đó, số lượng phát hành của tạp chí đã tăng lên đáng kể, và sự phát triển của mạng Internet đem đến đối tượng độc giả mới. Kristoll tự tay thiết kế trang web Gray Streets như một phương tiện để phát hành lại những tác phẩm từ các số báo cũ giờ không còn được in nữa. Các blogger khám phá ra trang web và bắt đầu viết bài đánh giá. Trong các bài viết của tạp chí, việc phát hành trên mạng cũng được nhắc đến. Kết quả là còn nhiều người đọc tạp chí Gray Streets trên mạng hơn cả đọc bản in trên giấy.
“Tôi sẽ tiết lộ cho cậu một bí mật”, một buổi tối Kristoll nói với Loogan. Anh ta để cửa sổ mở, chân gác lên ngưỡng cửa, một chai rượu đặt trên bàn. “Ngày xưa khi tôi và Laura còn học đại học, phần lớn các truyện chúng tôi xuất bản đều do sinh viên viết ra. Chúng tôi cũng tự viết vài tác phẩm và phát hành với bút danh bí mật. Nhưng khi bắt đầu xây dựng website, tôi bỏ hết đống truyện đó. Chỉ những truyện hay nhất mới được đăng tải. Chẳng có truyện nào do tôi viết. Tôi đủ sáng suốt để biết rằng chúng không thuộc về nơi đó. Cậu có biết chuyện đó đã biến tôi thành cái gì không?”
Loogan không lường trước câu hỏi này.
“Gì vậy?”
“Một biên tập viên. Không ai học để trở thành biên tập viên cả, nhưng giờ thì tôi và cậu, chúng ta đều đang làm công việc đó.” Kristoll cầm lấy cốc trên mặt bàn và giữ nó trên đùi. “Giờ thì tôi lúc nào cũng say khướt. Thứ lỗi cho tôi nhé. Rượu Scotch mà.”
“Tôi thấy anh uống vào ít hơn nói ra đấy”, Loogan nói.
“Nói hay lắm, tôi nhận ra đấy... tôi là biên tập mà.”
Cơn gió từ ngoài cửa sổ cuốn bay một lá thư xuống sàn. Khi Loogan với tay để nhặt nó, Kristoll ngăn lại.
“Cậu về đi, David”, anh ta nói nhẹ nhàng. “Mặt trời lặn rồi. Vào mùa này trong năm mặt trời chiếu sáng cả ngày, nhưng giờ cũng tối rồi.”
“Anh không về nhà à?”
“Tôi sẽ ở đây một lúc nữa. Tắt hộ tôi đèn ngoài đó nhé. Chúc cậu buổi tối tốt lành.”
Loogan bước trên tấm thảm ở văn phòng phía ngoài nên không gây tiếng động. Anh dừng lại ở ngưỡng cửa để nhấn công tắc đèn. Quay lại phía sau, anh thấy Kristoll ngồi xoay nghiêng về phía mình, đầu ngả ra sau, hai mắt nhắm lại. Cửa văn phòng đóng khung anh ta trong đó như một bức hình đen trắng: tóc đen cắt ngắn, áo sơ mi trắng toát, bàn làm việc xám đen.
Chiếc đèn bàn chiếu lập lòe trên miệng ly rượu. Ánh sáng khiến da mặt anh ta đượm một màu trắng nhợt. Nó tạo nên cảm giác thư thái và bình thản ở anh ta mà Loogan chưa từng nhìn thấy.
Loogan không thể quên sự bình thản đó, cả sự nhẹ nhàng, thân thiện trong giọng nói của Kristoll khi anh ta bảo anh nên về nhà. Anh rồi sẽ nhớ cả hai điều này khi bắt đầu ngủ với vợ Kristoll.
Cuối tháng Tám, trong viện bảo tàng, Loogan đứng xem bức ảnh cận cảnh một chiếc lá. Chiếc lá tươi, xanh nằm giữa cát và đá, vài hạt cát nhỏ bám trên bề mặt. Loogan đi về phía bên phải và nhìn thấy hàng loạt bức ảnh nhỏ hơn: những chiếc lá khô dần mục nát thành cát bụi. Khi khô héo trên lá có những vết rạn, những đường rãnh màu đen len lỏi khắp nơi như những đường gân.
Nghe thấy ai đó gọi tên mình, anh quay lại và bắt gặp Laura Kristoll.
“Toàn là lá thôi”, cô nói. “Còn hai phòng giống thế này nữa. Để em chỉ cho anh xem.”
Những bữa tiệc ở nhà Kristoll nối tiếp nhau suốt mùa hè, Loogan đến dự một vài buổi trong số đó. Anh chỉ nói chuyện với Laura vài lần nhưng giờ có vẻ cô rất thoải mái cầm tay anh dẫn đi khắp phòng trưng bày. Đúng như cô nói, toàn là ảnh chụp lá cây: lá sau mưa, lá dưới đáy suối, lá trên đường quê. Cả những chiếc lá bị lửa đốt cháy đen. Một chiếc lá úa được chụp cận cảnh, nhìn mỏng manh và khô héo như thể sắp tan thành bụi. Cô nắm cánh tay anh một cách tự nhiên khi cả hai đứng trước tấm ảnh cuối cùng này. Một lúc sau, anh nói với cô anh có việc cần phải đi. Tay cô trượt xuống dọc theo cánh tay, tới cổ tay và sau cùng là bàn tay anh. Ngón tay hai người đan chặt vào nhau.
“Được thôi anh”, cô nói.
Cô gọi cho anh vào tuần sau đó. Lần này là một triển lãm ảnh khác, tại phòng trưng bày ở trung tâm thành phố. “Nhiếp ảnh gia cũng là người ở thành phố này”, cô nói với anh. “Anh ta làm gì đó với giấy và kính vỡ. Nhưng em hi vọng sẽ có ảnh chụp lá cây.”
Họ đến đó ngay ngày hôm sau. Gần như chẳng có ai ở đây và họ có thể đi dạo thật thoải mái. Với Loogan, có vẻ phần lớn các bức ảnh được chụp bằng cách lôi hết đồ sứ trong tủ ra và ném vào cửa kính. Nhưng Laura thì sung sướng khi tìm thấy một tấm ảnh những cánh hoa và kính vỡ trộn lẫn với những mảnh giấy được xé thành hình lá cây. Cô mua ngay bức ảnh và thương lượng với người chủ phòng trưng bày để chuyển nó về nhà sau buổi triển lãm.
Sau khi rời phòng triển lãm, cô dẫn Loogan tới một tiệm sách cũ. Họ dành cả tiếng đồng hồ lựa chọn sách. Sau đó cô gợi ý cả hai đi uống cà phê và ăn trưa cùng nhau. Cô không nói lời nào khi lái xe đưa anh về nhà. Chiếc xe lăn bánh chậm rãi dưới ánh mặt trời và bóng những hàng cây trên phố. Cô dừng xe bên đường, nhìn qua cửa sổ phía bên anh về phía ngôi nhà.
“David”, cô nói, “em có thể vào thăm nhà anh được chứ?”.
Cô đi sát phía sau anh, bàn tay ấn chặt giữa hai bả vai khi anh mở khóa cửa. Cô dừng lại một chút trong bếp để xem qua bản thảo anh để trên mặt quầy. Sau khi đi qua một hành lang có mái cong, cô nhìn quanh phòng khách. Trên bàn uống trà còn có nhiều bản thảo hơn cả trong bếp, nhưng cô không xem cái nào trong số chúng. Quay sang phía anh, cô lướt nhẹ ngón tay lên cổ anh và nói:
“Em sẽ quay lại ngay.”
Cô tự tìm được phòng tắm phía cuối hàng lang nối với phòng khách. Loogan thì đi xung quanh để đóng rèm cửa. Anh rà soát một lượt bộ sưu tập đĩa CD của vị giáo sư, nhận ra chúng nghèo nàn một cách khủng khiếp. Anh đành mở tạm một kênh radio ở Detroit chuyên phát nhạc jazz không lời. Khi Laura quay lại phòng khách, cô đã bỏ lại túi xách. Mái tóc vốn được bới cao giờ buông trên hai vai. Đôi môi cô tươi tắn hơn. Thêm hai cúc của chiếc áo cánh cũng được mở, để lộ làn da rám nắng điểm chút tàn nhang. Hơi thở của cô phảng phất hương bạc hà khi cô đứng thật sát khuôn mặt anh, bàn tay luồn ra sau gáy.
Anh hôn cô cuồng nhiệt. Đứng, ngồi, và sau cùng cả hai nằm dài trên ghế sofa, cơ thể cô ép chặt lấy anh. Họ từ từ cởi đồ, thật chậm rãi. Khi cô trút bỏ chiếc váy ngắn, anh nhận ra cô đã bỏ lại đồ lót trong túi xách. Trên một xấp nệm ghế sofa trải xuống sàn, họ làm tình với nhau.
Sau đó, họ lên trên gác, ngủ giữa những tấm ga trải giường mát mẻ của vị giáo sư sử học. Khi Loogan tỉnh giấc, trời đã tối và anh chỉ còn lại một mình. Theo phản xạ anh với lấy chiếc đồng hồ đeo tay thường đặt trên bàn ngủ cạnh giường. Hóa ra anh đã vứt nó trên sàn phòng khách. Xuống dưới nhà, anh nhận thấy nệm ghế sofa đã được đặt lại ngay ngắn. Quần áo anh được treo trên ghế, đồng hồ đeo tay trên mặt lò sưởi. Thế mà đã hơn chín giờ tối.
Chuông điện thoại reo khi anh đang mặc quần áo, anh nhấc máy, tiếng Laura ở đầu dây bên kia: “Anh thật là đáng gờm.”
“Đúng đấy, khi nào anh đi tất1”, anh đáp.
1 Theo như một số chuyên gia, phụ nữ và đàn ông sẽ dễ đạt được cực khoái nếu đi tất.
“Anh ngủ say quá. Nhìn cái cách anh ngủ đúng là một kì quan. Em chẳng dám đánh thức anh nữa.”
“Ngủ là một trong những biệt tài của anh mà.”
“Em chỉ muốn gọi để cho anh biết mọi chuyện đều rất tuyệt vời, không có gì phải lo ngại cả. Anh cũng chẳng phải người hay lo lắng mấy chuyện này phải không David?”
“Không đâu.”
“Nhưng em muốn mình thống nhất với nhau vài điều. Để biết trả lời thế nào khi có ai đó hỏi tới chuyện này. Em sẽ cố gắng nói sát với sự thực hết mức có thể: chúng mình tới phòng triển lãm, tiệm sách và đi ăn trưa. Sau đó chúng ta chia tay luôn.”
“Được đấy.”
“Nói như vậy thì hơn là ‘Em chẳng biết anh, chưa gặp anh, thậm chí cũng chưa nghe nói tới anh bao giờ’.”
“Hẳn là thế rồi.”
“Vậy thì ổn rồi”, cô nói. “Em phải đi đây. Mình nói chuyện sau nhé.”
“Được thôi.”
“Tạm biệt anh, David.”
“Tạm biệt em.”
Hai ngày sau, Loogan gặp Tom Kristoll vào buổi tối. Anh e rằng sẽ cảm thấy kì quặc, nhưng cuối cùng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Hai người ngồi uống rượu Scotch trong văn phòng của Kristoll sau giờ làm việc. Họ tán gẫu một chút về những tập bản thảo. Sau đó Kristoll kể về chuyến du ngoạn châu Âu của anh ta cùng với gia đình khi còn là một thiếu niên.
Cái tên Laura chỉ được nhắc tới có một lần.
“Tôi đang tìm hiểu thêm về cậu đấy, David ạ”, Kristoll nói. “Giờ tôi sẽ lật tẩy hết các bí mật của cậu.”
“Thật à?”, Loogan hỏi.
“Laura kể hết với tôi rồi. Cậu thích dành thời gian đến xem triển lãm, và có sở thích rất tinh tế về nhiếp ảnh. Thêm hai chi tiết thú vị nữa trong hồ sơ của David Loogan.”
Loogan và Laura gặp nhau đều đặn các tuần sau đó. Thường thường cô tới nhà anh. Chỉ một lần họ gặp nhau ở khách sạn, lần khác ở văn phòng trường đại học nơi cô làm việc.
Cô gần như chẳng bao giờ nói về chồng mình hay phàn nàn về cuộc sống gia đình không hạnh phúc hoặc những thói quen của anh ta. Loogan thì lắng nghe chăm chú, cố gắng không bỏ sót một lời chê bai nào dù là nhỏ nhất. Anh tự nhủ mình sẽ chấm dứt mối quan hệ này ngay lập tức nếu nhận ra cô có dã tâm nào đó. Nhưng mỗi khi cô nói về chồng mình, những sự việc thường liên quan tới chính Loogan. Cô thường kể lại những gì Kristoll đã nói: những lời khen ngợi Loogan hoặc một câu bình luận vu vơ.
Một buổi chiều, cô đứng trần truồng trước cửa sổ phòng ngủ của Loogan, mắt nhìn xuống sân.
“Tom cho rằng anh đang che giấu vài bí mật đen tối nào đó”, cô nói. “Anh là một người có quá khứ phức tạp. Chồng em còn tin rằng anh đã từng có thời gian ngồi tù nữa.”
Cô nói điều đó một cách đơn giản, suồng sã. Loogan nằm trên giường, ngước mắt nhìn cô:
“Thế à?”
“Đúng vậy đấy. Tom tôn trọng những người là tội phạm. Tờ Gray Streets được phát miễn phí cho thư viện của nhiều nhà tù. Anh ta còn cho xuất bản vài truyện do tù nhân viết.”
“Vậy thì chồng em đoán anh làm gì để phải ngồi tù?”
Cô rời khỏi cửa sổ và tiến về phía giường, kéo chăn rồi trèo vào nằm cạnh anh.
“Ồ không có gì ghê gớm đâu”, cô nói. “Có lẽ là tội phạm ‘có học thức’. Kiểu như lừa đảo, tham ô hay kí séc khống. Anh đã từng lừa đảo ai chưa?”
“Anh chưa từng phải vào tù mà.”
“Em cũng đoán là không phải”, cô nói, ngón tay vuốt dọc theo xương quai xanh của anh. “Nếu anh mà có ngồi tù thì cũng phải là vì một hành động bạo lực nào đó. Một tội ác gây ra trong cơn thịnh nộ. Bao giờ chúng cũng được thực hiện bởi những con người vốn rất trầm lặng.”
“Thật à?”
“Nếu họ có phỏng vấn hàng xóm của anh trên truyền hình, hẳn là tất cả đều sẽ nói: ‘Anh ấy là người cực kì tử tế, chẳng gây rắc rối cho ai bao giờ’”.
Anh nhắm mắt, miệng cười nhạt.
“Thế em sẽ nói sao?”
Môi cô lướt trên má anh.
“Em sẽ kể với họ rằng ngay từ đầu em đã biết anh là người vô cùng nguy hiểm.”
Vài tuần nữa trôi qua - tháng Chín, rồi bắt đầu tháng Mười. Một ngày của Loogan lúc nào cũng xoay quanh Laura Kristoll, Tom Kristoll và tờ Gray Streets. Thế rồi vào một buổi tối thứ Tư, chuông điện thoại reo vang khi anh đang ngồi trong bếp với tập bản thảo đặt trên bàn trước mặt. Người gọi điện là Tom Kristoll, băn khoăn không biết liệu Loogan có thể giúp được không. Anh ta cần một chiếc xẻng xúc đất.