Hàng cây uốn cong dọc theo con đường. Đâu đó phía sau những hàng cây này là dòng sông Huron tối đen. Loogan phóng xe ở tốc độ tối đa được phép, đèn pha rọi sáng những thân cây và cành lá. Mưa rơi nhẹ trên kính chắn gió. Anh giảm tốc, tìm ra lối rẽ và lái xe chầm chậm trên đoạn đường dài dẫn vào nhà.
Ánh trăng chiếu lên mái nhà lát đá. Hai tia sáng nhỏ lọt ra từ hai cửa sổ được che rèm ở tầng trệt. Ngoài ra tất cả đều tối đen.
Loogan tắt động cơ, ra khỏi xe và đi theo con đường lát đá tới ngôi nhà. Anh bỏ lại những món đồ đã mua trong xe - chiếc xẻng, mấy gói đồ ăn. Cửa trước bật mở khi anh tới nơi. Tom Kristoll dẫn anh vào nhà.
“Hơn mười giờ đêm rồi”, Kristoll nói, “Tôi chưa từng gặp cậu khuya thế này. Tôi bán tín bán nghi việc cậu sẽ nhấc máy khi tôi gọi, kiểu như cứ sau một giờ nhất định nào đó trong ngày là cậu không còn tồn tại trên đời nữa”.
“Thì tôi đã đến rồi đây”, Loogan đáp.
“Tôi nói nhảm đấy. Đừng để bụng. Cảm ơn vì cậu đã tới. Cậu muốn uống gì không? Không à? Tôi thì lại muốn, vừa mới tợp một ly xong. Nhưng thôi, uống một ly là đủ rồi.”
Họ đi vào phòng khách. Trên tay vịn ghế sofa có một chiếc ly rỗng. Những dầm gỗ chăng ngang phía trên, ánh sáng từ chiếc đèn bàn in bóng của chúng lên trần. Sàn nhà được lát đá, trong góc có một lò sưởi kiểu cổ với ngọn lửa cháy phía sau cánh cửa sắt.
Chân đi bít tất, Kristoll đi qua đi lại trong phòng. Anh ta mặc quần âu màu xám tro với đường kẻ nhạt. Áo sơ mi trắng thì nhàu nhĩ và bỏ thõng ra ngoài quần. Một chút râu mọc lởm chởm dọc theo quai hàm khiến khuôn mặt anh ta có vẻ phờ phạc.
“Có lẽ anh nên ngồi xuống”, Loogan nói.
Kristoll đứng khựng lại. Dường như chợt ý thức được vẻ bề ngoài của mình, anh ta cho áo vào trong quần, sau đó vuốt mặt bằng hai bàn tay.
“Không có thời gian đâu David.”
“Được rồi. Vậy thì chỉ cho tôi xem cái đó đi.”
Kristoll dẫn Loogan qua hành lang tối đen. Họ đến ngưỡng cửa phòng làm việc và Kristoll với tay vào trong để tìm công tắc đèn.
Loogan đã từng nhìn thấy căn phòng này. Trong bóng tối, anh hình dung về nó: ở cuối phòng có một bàn làm việc và ghế dựa, phía sau bàn là ba cửa sổ mái cong, kệ sách kê dọc tường hai bên, bốn ghế nệm được đặt đối diện nhau tạo thành một hình vuông hoàn hảo trong khoảng trống giữa căn phòng.
Đèn bật sáng. Kristoll lùi lại phía sau. Vật đầu tiên Loogan nhìn thấy là một trong những chiếc ghế đã bị lật đổ trên sàn. Vật thứ hai là một xác người.
“Có vài điều tôi cần phải hỏi anh”, Loogan nói.
Anh đứng nhìn cái xác, hai tay đút túi. Kristoll thì đứng ở ngưỡng cửa.
“Hỏi đi”, Kristoll nói.
“Cái gì hiển nhiên thì hỏi trước, anh chắc chắn là hắn chết rồi chứ?”
“Hẳn rồi.”
“Nếu không thì sẽ rất rắc rối đấy.”
“Ngừng thở, không có nhịp tim. Hắn chết thật rồi.”
Người đó thực sự có vẻ như đã chết. Anh ta nằm ngửa, mặt nghiêng sang bên trái. Đôi mắt mở to, trợn trừng. Bên thái dương đẫm máu. Tay trái duỗi thẳng, bàn tay mở; tay phải dọc theo thân người. Những ngón tay trắng nhợt chạm vào mặt sàn lát gỗ màu sẫm. Chân trái co, chân phải duỗi. Chỉ còn thiếu mỗi công đoạn kẻ vạch phấn xung quanh xác chết nữa thôi.
“Anh không biết hắn là ai phải không?”, Loogan nói. “Trước đây anh chưa từng gặp hắn.”
“Chưa bao giờ.”
“Vậy hắn đột nhập vào đây. Hẳn là một tên trộm.”
“Thực ra hắn chưa phá hoại thứ gì cả. Cửa ngoài sân không khóa. Nhưng đúng vậy, tôi đoán hắn là một tên trộm.”
Có lẽ là một tên trộm thật, Loogan nghĩ thầm. Hắn khoảng hơn ba mươi tuổi một chút, cơ thể săn chắc, mái tóc mỏng màu vàng. Khuôn mặt được cạo râu gọn gàng. Hắn mặc áo cao cổ màu đen đúng kiểu dân trộm cắp, quần kaki màu sẫm và giày nâu. Trên cổ tay trái hắn có hình xăm: một họa tiết gồm những vòng tròn đan vào nhau.
“Hắn tới đây bằng cách nào vậy?”, Loogan hỏi.
“Hắn đi ô tô”, Kristoll đáp.
“Tôi có thấy chiếc xe nào đâu.”
“Hắn đỗ xe bên đường dưới sườn đồi. Tôi đã đưa nó vào garage.”
Loogan đi nửa vòng quanh xác chết.
“Anh có chắc là muốn... làm việc này không?”
“Không thể để hắn ở đó như thế được”, Kristoll nói.
“Cũng chưa quá muộn để gọi cảnh sát. Tự vệ chính đáng mà.”
“Đương nhiên là thế.”
“Cảnh sát sẽ muốn biết tại sao anh không gọi điện thông báo ngay”, Loogan nói. “Hẳn là biết phải trả lời sao rồi: do bị kích động mạnh. Cũng hợp lý đấy chứ.”
“Tôi không chắc mình muốn đánh liều là cảnh sát có thể hiểu được”, Kristoll nói khẽ. Anh ta nghiêng người dựa trên khung cửa, mắt nhìn xuống sàn.
“Kể với tôi chuyện gì xảy ra đi”, Loogan nói. “Lúc đó anh ngồi ở bàn làm việc à?”
“Đúng thế. Tôi nghe có tiếng động ở lối vào.”
“Và thế là anh đứng dậy.”
“Phải. Hắn nhìn thấy tôi. Có lẽ hắn không nhận ra có người còn ở trong nhà. Hắn lao thẳng vào tôi.”
“Sau đó anh đánh hắn à? Bằng gì thế?”
Kristoll chỉ tay vào chai rượu Scotch Glenfiddich còn gần đầy trên một chiếc bàn thấp đặt giữa hai chiếc ghế.
“Cái này ở đâu ra?”, Loogan hỏi.
“Từ bàn làm việc. Tôi cầm theo nó.”
“Anh nghe thấy có kẻ rình mò. Thế là anh cầm theo vũ khí. Vậy anh đánh hắn mấy lần?”
“Hai lần. Có thể là hơn. Tôi cũng không chắc.”
Loogan bỏ tay phải khỏi túi quần và xoa đằng sau gáy. “Sẽ tốt hơn nếu anh nhớ rõ điều đó...”, anh nói, “... và nếu như có nhân chứng nào khác nữa”.
“Tôi ở đây một mình”, Kristoll nói, “Laura đi vắng suốt cả buổi tối”.
“Đi đâu?”
Kristoll nhìn về phía cửa trước. “Cô ấy đến văn phòng ở trường Đại học. Tối nay cô ấy phải chấm bài.”
“Liệu mấy giờ thì cô ấy về?”
“Tôi không rõ”, Kristoll nói. “Đấy cũng là một trong những lí do khiến ta không thể trì hoãn được nữa. Tôi muốn hắn ta biến khỏi đây trước khi cô ấy về.”
Anh ta bước vào phòng, ánh đèn trên trần nhà in một đường sắc nét trên quai hàm.
“Tôi đã suy nghĩ kĩ rồi, David. Nếu tôi báo cảnh sát, nhẹ nhàng lắm thì chuyện này cũng lên báo trên trang nhất. Rồi người ta sẽ bàn tán về nó. Tôi sẽ phải giải thích với tất cả những người mình biết. Chỉ nghĩ đến đã thấy khủng khiếp rồi. Mọi người sẽ nghĩ sao về tôi sau chuyện này? Mà đó vẫn còn là tình huống dễ chịu nhất đấy nhé.”
Anh ta liếc nhìn cái xác.
“Trường hợp xấu nhất là đám cảnh sát sẽ nghi ngờ. Có thể hắn chưa có tiền án tiền sự gì, lại còn đi làm tình nguyện ở nhà thờ, có một tuổi thơ bi kịch hay những chuyện khốn kiếp đại loại thế. Ai đó ở phòng công tố quyết định phải đưa chuyện này ra ban hội thẩm. Rồi thì hai trong số ba người trong bồi thẩm đoàn không ưa vẻ mặt tôi. Tôi phải dành cả năm trời làm việc với luật sư và ngồi ở tòa án. Tôi không tưởng tượng nổi chuyện mười hai con người có trí tuệ phát triển bình thường nhất trí khép tội mình, nhưng ai mà biết được.”
Kristoll nghỉ một chút, đôi mắt sáng rực lên dưới hàng lông mày. Sau đó anh ta nói tiếp: “Hắn chẳng là gì với tôi cả. Đáng ra tên khốn này đừng có bước chân vào đây thì hơn. Tôi không hối tiếc những gì mình đã làm. Hắn không đáng để tôi tiêu tốn một phút nào. Giờ tôi định sẽ lái xe ra một bãi đất trống đâu đó, đào lỗ bỏ hắn xuống, và sau đó quên hẳn mình đã từng nhìn thấy hắn”.
Anh ta hướng cái nhìn của mình từ Loogan tới một dãy sách trên kệ dọc theo tường.
“Nãy giờ tôi thuyết giáo thế đủ rồi”, anh ta nói. “Nghe này, David. Cậu có thể rời khỏi đây nếu muốn. Đáng ra tôi không nên gọi cậu tới. Tôi sẽ tự giải quyết chuyện này. Cậu không phải nhúng tay vào đâu.”
“Nhưng giờ tôi đã tham gia vào chuyện này rồi.”
“Tôi đòi hỏi ở cậu nhiều quá.”
“Anh đã nhờ tôi giúp rồi.”
“Giờ nhận ra vẫn còn kịp mà.”
“Đó chính là điều mà nãy giờ tôi cố nói cho anh hiểu”, Loogan nói. “Tôi vẫn tin rằng anh sẽ không gặp phải chuyện gì nếu nhờ tới cảnh sát. Nhưng nếu anh đã quyết vậy thì tôi sẽ giúp.”
Kristoll im lặng. Đôi vai anh ta vốn nãy giờ so lại giờ mới thả lỏng ra thoải mái.
“Cảm ơn David.”
Thái độ của Tom Kristoll thay đổi hẳn. Giờ anh ta thoải mái đứng dựa cánh tay vào lưng ghế, tay áo của chiếc sơ mi trắng đã được xắn lên.
“Tôi dám chắc là cậu vừa mới đi mua sắm”, anh ta nói với Loogan. “Cậu mua được chiếc xẻng tốt chứ?”
“Phải.”
“Tôi có ba chiếc xẻng khác ở trong garage, nhưng tất cả đều có cán cầm dài tới năm feet1. Chúng vô dụng trong... không gian hẹp.”
1 Đơn vị đo chiều dài của Anh-Mỹ, là số nhiều của foot. Một foot tương đương 0,3048 mét, ở đây năm feet tương đương với 1,52 mét.
“Vậy thì cái xẻng mới mua dùng được đấy.”
“Chúng ta có lẽ sẽ bị phồng rộp cả tay lên trước khi xong việc. Đáng ra tôi phải nhắc cậu mua găng tay.”
“Tôi mua rồi”, Loogan nói. “Cả nước uống và bánh sandwich nữa. Ngoài ra tôi cũng mua một ít đất trồng cây và một can thuốc diệt cỏ.”
“Để làm gì thế?”
“Ngụy trang thôi. Người thu ngân ở đó đã rất tò mò muốn biết liệu tôi có phải thợ làm vườn không.”
“Gọi cậu tới đây quả là quyết định sáng suốt”, Kristoll cười khẩy.
“Rồi sẽ biết”, Loogan nói. “Giờ chúng ta phải tính kế hoạch giải quyết chuyện này. Ban nãy anh nói tới một bãi đất trống, nhưng tôi không đồng tình lắm. Như vậy quá lộ liễu. Một khu đất có rừng bao phủ thì tốt hơn.”
“Quanh đây làm gì có chỗ nào như vậy.”
“Đúng thế. Có lẽ là ở đâu đó bên kia thành phố. Phải suy nghĩ cẩn thận mới được. Nhưng trước hết, anh phải làm một việc cho tôi đã.”
Kristoll lộ rõ vẻ bối rối. Loogan chạm vào cổ tay áo của chiếc sơ mi anh ta đang mặc.
“Anh cần phải thay quần áo.”
Những chiếc rèm trong phòng làm việc đã được đóng, nhưng sau khi Kristoll rời khỏi đó, Loogan bật đèn bàn bên cạnh một trong những chiếc ghế và tắt đèn trên trần nhà. Anh đưa bóng đèn tới gần cái xác và quỳ xuống bằng một chân. Anh vỗ nhẹ vào túi quần túi áo người đó, chỉ toàn tiền xu, không thấy chiếc chìa khóa nào - có lẽ Kristoll đã lấy chúng để dời xe ô tô của hắn. Anh lật nghiêng cái xác một chút để có thể kiểm tra túi sau. Trong đó, anh tìm được một chiếc khăn mùi soa nhưng không thấy ví.
Theo phản xạ anh giơ mu bàn tay tới gần mũi và miệng của người đó. Không thấy hơi thở. Anh đặt hai ngón tay lên khuỷu tay hắn. Da thịt không ấm cũng không lạnh. Đương nhiên là không thấy mạch đập. Anh cẩn trọng nhấc tay phải hắn lên và nhìn vào các đầu ngón tay. Bên dưới những móng tay có màu đỏ. Anh đặt lại tay xác chết xuống sàn và đứng dậy. Anh chợt nhận ra mình đang run rẩy và tim đập liên hồi.
Anh nhìn kĩ lại xác chết một lần nữa hòng tìm ra những điểm đáng chú ý khác. Chiếc tất của hắn đã bị tuột ra ở cẳng chân phải, một chút da trắng lộ ra dưới gấu quần. Loogan quỳ xuống và nhấc gấu quần lên. Có một đường hằn trên da vòng quanh cổ chân người đó, so với dấu vết thường thấy do một chiếc tất tạo ra thì nó quá sâu và sắc nét.
Loogan đứng dậy. Anh nghe thấy tiếng chân trên cầu thang. Kristoll đã đổi sang một đôi giày đi bộ. Anh ta xuất hiện ở cửa phòng làm việc trong trang phục quần jeans, áo sơ mi kẻ không cài khuy, một chiếc áo phông trắng ở trong và áo khoác bò bên ngoài.
“Tôi tìm được một chỗ rồi”, anh ta nói.