Xe ô tô của tên trộm là một chiếc Honda Civic có cửa sau. Tấm chắn bùn bị gỉ còn kính chắn gió bị nứt, nhưng giảm xóc vẫn tốt và động cơ chạy êm. Loogan lái xe theo hướng đông nam về phía thành phố, chạy dọc đường bờ sông. Cơn mưa đã tạnh hẳn.
Anh tới ngoài rìa thành phố, qua cầu và đi theo hướng đông bắc. Các biển hiệu dần xuất hiện quanh anh: khu mua sắm, trạm xăng. Anh thầm nghĩ mình vẫn có thể thay đổi ý định. Anh chẳng nợ nần gì Tom Kristoll. Anh có thể đơn giản dừng xe ở bất kì bãi đỗ nào, vứt chiếc xe ở đó, tìm một bốt điện thoại công cộng, gọi taxi về ngôi nhà của vị giáo sư sử học, lấy tất cả những món đồ cần thiết, đi một taxi khác ra sân bay, lên chuyến bay đầu tiên rời khỏi đó. Tới sáng, anh đã ở một thành phố khác rồi.
Anh vẫn tiếp tục lái xe, bỏ lại những biển hiệu phía sau. Anh đi chậm dần theo hướng bắc, mắt tìm khoảng trống giữa những hàng cây. Có hai cột gỗ, ở giữa là lối đi trải sỏi. Đi thêm một đoạn, lối đi dần mở rộng tới một bãi trống. Những tấm gỗ đóng đường tàu đánh dấu ranh giới bãi đất.
Anh tắt máy, tắt đèn pha. Đống đồ đạc ở cạnh anh trên ghế trước, cái xẻng và một chiếc cào anh lấy từ garage của Kristoll nằm trên ghế sau. Anh mở một chai nước, uống một nửa trong khi vẫn ngồi trong xe. Anh nhận thấy cửa bên cạnh chưa chốt bèn lơ đãng đưa tay khóa nó lại. Chợt anh cảm thấy mình thật ngu ngốc.
Anh ra khỏi xe và chờ đợi trong bóng tối, uống nước, làm quen với việc chỉ có một mình nơi này, sẽ không có ai xông tới chỗ anh từ phía đám cây hay ngoài rìa bãi đất.
Mặt trăng rọi sáng trên cao, chưa tròn hẳn. Anh đợi một chút cho mắt quen với bóng tối và nhìn thấy phía bên phải có một con đường dẫn vào trong rừng. Một biển báo cắm ở đầu đường - trong bóng tối anh không đọc được, nhưng anh biết trên đó viết gì: Công viên Marshall.
Mười phút sau, anh nghe thấy tiếng một chiếc xe khác. Cặp đèn pha nảy lên trên con đường trải sỏi và cuối cùng một xe Ford đậu bên cạnh chiếc Civic.
Tom Kristoll bước dứt khoát. Những viên sỏi vỡ vụn dưới giày anh ta khi Tom đi tới chỗ Loogan đang đứng.
“Chỗ này ổn đấy”, Kristoll nói. “Tôi đã đúng phải không nào? Ở phía đường chẳng nhìn thấy gì đâu.”
“Đúng là không thấy.”
“Vào giờ này cũng chẳng còn ai quanh đây nữa.” Anh ta nhấn một nút trên đồng hồ đeo tay và mặt anh ta sáng lên trong bóng tối. “Xin lỗi vì tôi đến muộn. Tôi vừa định đi bỗng nhớ ra khi Laura về sẽ thấy ngôi nhà trống không và xe anh nằm ở lối vào. Thế nên tôi viết vội một mảnh giấy báo với cô ấy tôi và cậu đang đi xem phim, sau đó có thể đi uống một chút. Không phải là lời nói dối đáng tin nhất, nhưng biết làm sao được.”
Kristoll khóa xe, họ lấy chiếc xẻng và cào rồi đi theo con đường nhỏ. Kristoll chiếu đèn pin trên mặt đường phía trước. Khi đi hết con đường, họ đâm xuyên qua rừng khoảng hai mươi hoặc ba mươi yard1 tới một bãi trống. Lá khô và cành cây phủ kín mặt đất. Họ bỏ lại dụng cụ ở đó và đi ngược lại con đường, sau đó xếp một cành cây gãy để đánh dấu lối vào.
1 Đơn vị trong hệ đo lường Anh-Mỹ, một yard tương đương 0,9144 mét.
Họ đã lôi xác tên trộm ra khỏi phòng bằng một chiếc giường gấp lấy từ tầng hầm nhà Kristoll thay cho giường có xe đẩy. Sau đó, họ lại dùng nó để chuyển cái xác từ cốp chiếc Ford của Kristoll lên trên đồi tới bãi trống. Đó là một việc khó khăn, nhưng họ có đủ thời gian. Kristoll đã trùm kín đầu và thân trên tên trộm bằng túi nylon. Nó sáng lên yếu ớt dưới ánh trăng.
Họ đặt chiếc giường gấp ở rìa phía xa của bãi trống, giữa hai cây bu lô. Loogan giũ áo khoác và đặt nó xuống đất. Kristoll thì đã nhặt chiếc cào lên rồi bắt đầu quét lá và cành cây khỏi bãi trống.
Ánh trăng len lỏi, rọi qua các ngọn cây. Những ngôi sao dần hiện rõ hơn. David Loogan ngồi trên một đám rêu, tựa lưng vào một thân cây uống những giọt cuối cùng trong chai nước mang theo. Anh căng tai lên chú ý xem có tiếng nói, tiếng bước chân hoặc tiếng động cơ ô tô hay không. Rốt cục anh chẳng nghe thấy gì khác ngoài tiếng thở của Kristoll, tiếng lưỡi xẻng đâm xuống mặt đất.
Mọi việc tiến triển thuận lợi. Thoạt đầu Kristoll bắt tay vào việc trước, đánh dấu một hình chữ nhật trên mặt đất, dùng xẻng xúc từng đống đất lớn đổ sang bên cạnh. Sau đó, hai người làm thay phiên nhau, đổ đất sang cùng một bên miệng hố, cào bớt khi đống đất quá cao. Chiếc đèn pin của Kristoll - được buộc trên một cành cây bằng khăn mùi soa - rọi sáng khung cảnh bên dưới. Huyệt mộ ngày càng sâu thêm, đến nỗi giờ chỉ còn đầu và vai của Kristoll nhô lên khỏi mặt đất.
Loogan đứng dậy và đi găng tay. Cả cánh tay anh bê bết bùn đất. Đất lẫn cả vào tóc, và quần áo anh cũng nhuốm màu đất. Kristoll đã cởi bỏ chiếc áo khoác bò; chiếc áo phông trắng giờ đã chuyển hẳn thành màu đen.
Loogan tiến tới phía bên rìa hố và Kristoll ngước nhìn lên.
“Nghỉ ngơi chút đi, David”, anh ta nói. “Tôi còn làm được vài phút nữa.”
Nhưng Loogan lắc đầu và Kristoll đành chịu thua. Họ đổi chỗ cho nhau: Loogan ngồi trên miệng hố, trượt xuống và dùng tay đỡ chân cho Kristoll leo lên.
“Sắp xong rồi”, Kristoll nói. “Sâu thêm một foot rưỡi nữa là ổn.”
Mọi chuyện lại tiếp tục. Họ đổi chỗ lần nữa. Sau cùng Kristoll ném chiếc xẻng qua miệng hố, tuyên bố công việc đã hoàn tất. Loogan giúp anh ta trèo ra khỏi đó.
Họ tới chỗ chiếc giường xếp, mang nó tới rìa hố. Không nói với nhau lời nào, họ cùng ngừng lại và đứng im lặng một phút bên xác tên trộm. Thế rồi, vì chẳng có cách nào trang trọng hơn để làm việc này, họ kéo lê chiếc giường xếp tới bên miệng hố, nhấc một bên khung giường lên và đổ cái xác vào trong.
“Có gì đó không ổn”, Loogan nói.
Kristoll đã nhặt chiếc giường xếp lên và bắt đầu lấp cái hố.
“Sao thế?”, anh ta hỏi.
“Mọi chuyện diễn ra thuận lợi quá”, Loogan đáp. “Hai người đi chôn một xác chết trong rừng và thành công mỹ mãn. Không căng thẳng tí nào. Anh hiểu ý tôi chứ?”
“Không hiểu lắm.”
“Nếu đây mà là một truyện để đăng trên tờ Gray Streets thì anh đã thẳng tay loại bỏ nó rồi.”
Kristoll mỉm cười. Anh ta chậm rãi lôi chiếc giường gấp trên mặt đất.
“Nếu đây là một truyện để đăng trên tờ Gray Streets”, anh ta nói, “tôi sẽ bị nổ lốp xe giữa đường. Một tay cảnh sát tốt bụng sẽ ló mặt ra ngay khi tôi đỗ xe bên lề đường. Đây mà là truyện trên Gray Streets thì sẽ có cả một cô gái tóc vàng bí ẩn nữa, có lẽ cô ta sẽ phang tôi một cú vào đầu và đẩy tôi lăn xuống cầu thang”.
Kristoll chĩa tay cầm của chiếc giường xếp vào xác tên trộm.
“Nếu đây mà là truyện đăng trên Gray Streets, hắn chỉ giả vờ chết thôi.Cậu và hắn ở cùng một phe và tất cả mục đích của chuyện này là dụ tôi vào rừng và khiến tôi tự đào huyệt chôn mình”, anh ta thoải mái dang rộng hai tay. “Nếu cậu định giết tôi, cứ dùng cái xẻng. Tôi chỉ cần: không đâm vào mặt.”
Loogan lắc đầu.
“Tôi chẳng còn đủ sức đâu. Nhưng anh nói đúng ý tôi đấy. Nếu đây mà là truyện hư cấu, mọi thứ sẽ kịch tính hơn thế này nhiều. Nhưng chúng ta đã bỏ sót gì nhỉ? Thử xem lại kế hoạch nhé. Chúng ta chôn cái xác trong rừng, thu gom dụng cụ, nhặt hết mấy chai nước rỗng - không để lại dấu vết. Khi tới chỗ xe dưới chân đồi, chúng ta lau rửa một chút, thay quần áo. Tôi lái xe của tên trộm, anh theo sát phía sau. Rồi chúng ta đi tới một khu bất hảo, vứt cái xe lại đó trên phố. Vậy là xong. Cái xác, chiếc ô tô đều đã được phi tang. Còn thiếu gì vậy nhỉ?”
Kristoll nắm cán cầm của chiếc giường xếp, đặt nó đứng thẳng. Anh ta tì cằm lên mu bàn tay.
“Cậu tỏ ra vụng về”, anh ta nói. “Cậu quên lau dấu vết trên bánh lái. Vậy là cậu đã để lại dấu vân tay.”
“Được đấy. Tôi sẽ nhớ lau bánh lái. Còn gì nữa không?”
Kristoll dường như suy nghĩ về câu hỏi này một lúc, sau đó nhún vai.
“Còn khẩu súng thì sao?”, Loogan hỏi.
Chiếc đèn pin được chiếu vào huyệt mộ, nhưng dưới ánh sáng của nó Loogan có thể thấy rõ mặt Kristoll. Khuôn mặt anh ta tối sầm lại trong giây lát và rồi sức sống lại trở lại trên đó. Đầu tiên là ở mắt, đôi mắt của một người đang toan tính.
Một nụ cười thoáng xuất hiện trên mép Kristoll.
“Cậu đã chờ mãi để hỏi tôi câu đó đúng không? Kiên nhẫn ghê nhỉ.”
Loogan im lặng.
“Làm thế nào cậu biết về khẩu súng?”, Kristoll hỏi.
Câu hỏi đó lơ lửng trong không khí bên trên bãi đất. Ở bên cạnh, cành cây treo chiếc đèn pin đung đưa nhè nhẹ. Bóng ánh sáng hình tròn đảo trên mặt đất.
“Tên trộm có một vết ở cẳng chân”, Loogan nói. “Đó là dấu vết của chiếc đai đeo bằng da.”
“Cậu là thám tử à?”, Kristoll cười nhẹ.
“Không. Tôi chỉ đọc rất nhiều truyện. Người ta thường hay đeo gì ở cẳng chân? Hẳn là bao súng. Trong bao súng thì có gì nhỉ?”
“Hiển nhiên rồi.”
“Vậy hắn có một khẩu súng”, Loogan nói, “Thật là một sự thật thú vị. Thêm nữa: anh đã lấy khẩu súng đó. Tôi có thể nghĩ ra hai do cho việc này. Thứ nhất, anh cảm thấy bị đe dọa. Nhà anh bị đột nhập. Anh lập kế hoạch ra ngoài vào ban đêm để phi tang một cái xác. Khi đó một khẩu súng sẽ giúp anh cảm thấy yên tâm hơn nhiều”.
Loogan nhìn kĩ khuôn mặt Kristoll trong ánh sáng tù mù.
“Còn lí do thứ hai”, Loogan nói, “tốt hơn là không nên nói ra. Anh không muốn nghe đâu”.
“Cứ nói đi.”
“Không sao đâu, Tom. Anh có thể giữ những bí mật của mình.”
“Nghe có vẻ cậu đã biết hết rồi. Cứ nói đi.”
“Được thôi”, Loogan nói. “Anh lấy khẩu súng vì nó gây bất lợi cho anh. Câu chuyện của anh đã vô lí sẵn rồi, khẩu súng khiến nó thật tức cười. Một tên trộm đột nhập vào nhà anh, có lẽ là để ăn cướp. Nếu hắn thực sự là trộm, hắn phải nhận ra ngay có ai đó đang ở trong nhà. Nếu hắn đã mang súng, đáng ra hắn phải cầm nó ở tay cho tới khi chắc chắn trong nhà không có ai. Nhưng đằng này lại không. Nếu hắn cầm súng, anh không giết nổi hắn bằng một chai Scotch đâu.”
Loogan chuyển cái nhìn từ Kristoll sang phía ngôi mộ.
“Như thế có nghĩa là anh biết hắn. Hắn không phải là một tên trộm. Anh đã để hắn vào nhà. Hắn cảm thấy an toàn nên không cần cầm súng. Cứ để nó trong bao đeo ở cẳng chân là ổn. Đó là câu chuyện hợp lý duy nhất. Cũng vì lí do đó chúng ta phải đem hắn đi chôn. Nếu hắn là một kẻ lạ mặt, chúng ta hoàn toàn có thể vứt xác hắn ở đâu đó. Người ta tìm ra hắn thì cũng có sao đâu. Chẳng ai nghi ngờ anh cả. Nhưng ta phải chôn hắn đi, vì anh có quen biết hắn.”
Kristoll hít một hơi thật sâu.
“Tôi sẽ nói cho cậu biết hắn là ai, nếu cậu muốn biết.”
“Anh không cần phải kể cho tôi”, Loogan nói. “Nhưng anh cần nghĩ tới khẩu súng. Đó là súng của hắn. Có thể người ta sẽ dò ra khẩu súng này thuộc về hắn. Nếu anh giữ nó, điều đó có thể khiến anh liên quan tới hắn.”
“Cậu nói đúng, David. Tôi sẽ thủ tiêu nó.”
“Làm ngay đi. Anh cầm theo nó tới đây phải không? Nếu phải đoán, tôi cho rằng anh đang đeo ở cẳng chân.”
Kristoll để mặc chiếc giường xếp đổ xuống đất và bước chân phải lên. Anh ta kéo ống quần bò, thoạt đầu để lộ ra trong ánh đèn pin một bao đeo súng bằng da màu nâu, sau đó là một báng súng lục mạ kền. Kristoll quỳ một chân xuống và cởi dây đeo, sau đó đứng thẳng lên và rút súng ra. Anh ta giao lại nó cho Loogan.
“Rõ là loại súng cỡ nhỏ”, Kristoll nói, tay ước lượng cân nặng của nó, “tôi đoán có lẽ là cỡ hai mươi hai hoặc ba mươi hai. Đáng ra tôi phải biết nhiều hơn về súng ống mới phải”.
Loogan lau bao súng bằng áo sơ mi và thả nó xuống huyệt mộ.
“Tôi không biết nó có được nạp đạn hay không”, Kristoll nói, “hay thậm chí cả cách kiểm tra cái đó. Tôi cho rằng nó có nạp đạn”.
“Có một nút ở bên cạnh để mở chốt”, Loogan nói. “Nhưng súng có nạp đạn hay không chẳng quan trọng, trừ khi anh định sử dụng nó. Quanh đây chẳng có ai ngoài chúng ta. Anh định bắn tôi à?”
Bàn tay Kristoll nắm lại quanh báng súng. Anh ta chĩa súng xuống mặt đất.
“Tôi không đủ sức.”
“Vậy thì lau nó đi và vứt xuống dưới đó”, Loogan nói. “Hãy hoàn thành nốt công việc quái quỷ này và biến khỏi đây thôi.”