"Có một thứ mà cậu đã đoán sai, David à. Hắn thực sự là một tên trộm. Tôi không nói dối chuyện đó đâu.”
Họ đang đi về phía tây trên chiếc xe của Tom Kristoll. Kristoll ngồi sau bánh lái, bận áo phông và quần jeans mới; Loogan ngồi cạnh anh ta trong bộ đồ đi mượn dùng để tập chạy màu xám. Họ đã bỏ lại chiếc xe Civic màu xanh da trời trên phố trước một căn hộ bỏ hoang.
“Tên hắn là Michael Beccanti”, Kristoll nói. “Tôi gặp hắn ba năm trước. Nói ‘gặp’ cũng chưa chính xác lắm, chúng tôi chỉ viết thư cho nhau thôi. Hắn đọc một mẩu chuyện trên tờ Gray Streets, thấy thích nó và viết thư cho tôi về chuyện đó. Tôi hồi âm một cách lịch sự. Sau đó hắn gửi tôi một truyện. Nó đầy rẫy lỗi chính tả, được viết tay trên giấy màu vàng. Tuy thế ý tưởng cũng khá ổn: nếu tôi nhớ không nhầm, một câu chuyện về sự trả thù. Một tay buôn ma túy giết vợ của một người đàn ông, sau đó người này gây nên một cuộc chiến giữa tay buôn ma túy và một trong những đối thủ của hắn. Tôi đã làm việc với hắn về truyện này, cùng nhau sửa lại sao cho hay hơn. Sau đó tôi cho đăng lên tạp chí.”
Hắn viết thêm vài truyện nữa. Chúng đều phải chỉnh sửa rất nhiều, nhưng hắn có dư thời gian để viết lại. Lúc đó hắn đang ngồi tù. Họ tóm được hắn sau một loạt những vụ đột nhập và ăn trộm. Theo lời hắn kể, hắn cũng khá giỏi làm chuyện đó. Hắn sẽ hành động vào những đêm trời nóng, khi mọi người để cửa sổ mở, và chui qua rèm cửa vào nhà. Lúc đó có ai ở nhà hay không chẳng quan trọng - hắn làm mọi thứ rất nhẹ nhàng nhanh gọn. Cuối cùng một đêm nọ, có người tỉnh giấc khi hắn đang hành sự - một tay rắn mặt hình như theo tôi nhớ làm nghề lái xe chở rác - và rón rén tới bên Beccanti với cây gậy bóng chày trong tay. Thế là cảnh sát tóm được hắn. Trước đó hắn chưa từng bị bắt, vậy nên lần này hắn tin tưởng mình sẽ được lãnh án treo. Nhưng cảnh sát đã biết tất cả về hắn. Hóa ra lần nào hắn cũng cắt rèm cửa theo cùng một cách - một nhát phía trên, một nhát phía dưới, rồi một nhát chéo tạo thành một hình giống như chữ Z. Thế nên họ có cả một chồng hồ sơ dày cộp: Ba mươi mốt vụ đột nhập. Họ thậm chí còn đặt biệt danh cho hắn là Zorro.
Kristoll nhìn thẳng khi nói. Loogan quan sát anh ta từ ghế bên cạnh.
“Hắn được tha khỏi trại tù Jackson năm ngoái, quay trở lại Ann Arbor. Hắn gọi điện cho tôi, rất trịnh trọng, và hỏi liệu có thể gặp tôi được không. Vậy là chúng tôi đi ăn trưa cùng nhau. Hắn kể việc thích nghi trở lại với cuộc sống bình thường khó khăn như thế nào. Cảnh sát quản thúc tìm được cho hắn ở đâu đó công việc xếp hàng lên kệ mà hắn thấy căm ghét. Tôi đoán hắn muốn mình giúp tìm kiếm công việc khác khả dĩ hơn. Tôi khá quý hắn, nhưng không thể nhận hắn về làm được mà cũng chẳng biết giới thiệu hắn cho ai cả. Hắn cũng không đòi hỏi gì nữa. Sau đó thỉnh thoảng tôi gặp lại hắn. Một lần hắn đến văn phòng tôi với một tác phẩm mới. Tôi trả tiền cho hắn, mặc dù không cho đăng lên tạp chí.”
“Một buổi tối hắn tới nhà tôi. Hắn thấy có lỗi khi phải làm phiền tôi ở nhà, nhưng có việc rất quan trọng cần bàn với tôi. Vậy là tôi cho hắn vào nhà, tôi thấy cũng chẳng có dấu hiệu gì nguy hiểm. Chúng tôi vào phòng làm việc và hắn bắt đầu kể về một người phụ nữ hắn đã gặp. Hắn kể vòng vo một lúc, cuối cùng mới nói hắn đã làm cô ta có thai. Giờ phải trả tiền thuốc thang. Hắn cần tiền: Năm nghìn đô la. Tôi không biết làm cách nào mà hắn tính ra con số đó. Tôi chỉ nghĩ hắn nói vậy để làm sao xin được nhiều tiền nhất có thể. Thế nên tôi nói rằng hiện tôi không có đủ năm nghìn đô la giúp hắn. Hắn mỉm cười, như thể thực sự ngạc nhiên. Chẳng nhẽ một người sống trong ngôi nhà như vậy, bên cạnh bờ sông lại không có đủ năm nghìn đô la hay sao?”
“Sự thật là căn nhà đó đã được thế chấp, và phần lớn thu nhập từ tờ Gray Streets được đầu tư lại ngay vào tòa soạn. Laura kiếm được nhiều hơn từ công việc của cô ấy ở trường Đại học so với lợi nhuận thực tôi kiếm được từ tòa báo. Thế nên tôi không thể giúp hắn. Tôi đành nói thẳng cho hắn hiểu rằng chẳng thể lấy đâu ra tới năm nghìn đô la được. Hắn chẳng tỏ ra sốt ruột, cũng không hề lên giọng, tuy nhiên vẫn chưa chịu thua. Hắn nói sau này sẽ trả lại khoản đó nếu tôi cho hắn vay. Tôi từ chối. Tôi nói hắn có thể tìm tới Quỹ Phúc lợi chung Medicaid. Nhưng lúc đó tôi nhận thấy có vẻ tất cả những gì hắn kể với mình đều là dối trá. Hắn không cần tiền thuốc thang gì cả. Cuối cùng tôi nói thẳng: ‘Thực ra chẳng có cô gái nào, phải không?’. Thái độ hắn thay đổi hẳn. Hắn cười lớn.”
“Đó là một tràng cười ngắn, một phút mất kiểm soát. Hắn nhanh chóng dập tắt nó và sau đó không nói thêm lời nào, như thể hắn quyết định thời gian nói chuyện đã kết thúc. Lúc đó hắn ngồi trên ghế trong phòng làm việc, và tôi ngồi đối diện hắn. Hắn cúi xuống và bắt đầu kéo ống quần. Tôi nhìn thấy cái bao da, một vật gì đó bằng kim loại. Tâm trí tôi tự xâu chuỗi các chi tiết. Bao súng. Súng. Chai rượu nằm trên bàn bên cạnh tôi - khi hắn vào tôi đã mời hắn một ly. Thế rồi tôi đứng dậy. Hắn đang lần mò gì đó nơi cẳng chân, tôi đoán khẩu súng đã bị mắc vào đâu đó. Chai rượu đã nằm trong tay tôi. Tôi đưa tay ra sau lấy đà, phang mạnh vào đầu hắn. Tôi cứ tưởng cái chai sẽ vỡ, nhưng không. Khi đó tôi cầm cái chai, nhìn vào nhãn hiệu lộn ngược một cách kinh ngạc.”
“Hắn ngã xuống sàn, chống bằng tay và đầu gối. Khẩu súng nằm dưới tay hắn. Nó không chĩa vào tôi. Nhưng điều đó không quan trọng. Tôi không biết cậu đã từng đối mặt với chuyện gì tương tự thế này chưa, David à. Một cảm giác thật nguyên sơ chiếm lấy tôi. Giờ sau khi mọi chuyện kết thúc, tôi mới nghĩ liệu lúc đó hắn định sẽ làm gì. Hắn muốn dọa tôi bằng khẩu súng. Hắn không muốn giết tôi. Có lẽ nện hắn một đòn là đủ, có thể tôi nên đá văng khẩu súng ra xa. Tôi chẳng biết nữa. Tôi căm ghét chính mình vì đã để hắn vào nhà, căm ghét hắn đã làm tôi sợ hãi. Tôi muốn hắn phải chết.”
“Tôi vung cái chai ra sau lần nữa, rồi giáng xuống. Lần này cú đánh chỉ sượt qua khiến tôi không hài lòng. Lần kế tiếp tôi cẩn trọng hơn. Tôi nhắm thẳng thái dương hắn và ra đòn bằng cả thân người. Tôi cảm thấy cái chai đi trúng đích. Hắn gục xuống. Tôi nhặt khẩu súng lên, cầm nó đứng bên cạnh hắn. Không thấy hắn cựa quậy gì. Một lúc sau tôi dùng chân lay lay và sau đó lật hắn nằm ngửa. Tôi làm các động tác kiểm tra mạch đập, nhưng thực ra tôi biết hắn đã chết.”
Kristoll không nói gì nữa. Họ đã đi qua thành phố và giờ đang lái xe dọc theo bờ sông về phía bắc và tây bắc. Gió cuốn bay những chiếc lá trên các cành cây bên đường. Loogan ngả đầu vào cửa kính ô tô và nhắm nghiền mắt.
“Sao mà im lặng thế”, một lúc sau, Kristoll nói, “Cậu đang nghĩ gì vậy?”.
“Tôi chỉ đang rà soát lại câu chuyện của anh thôi”, Loogan mở mắt trả lời. “Cũng không tệ. Nếu anh thấy như vậy là ổn thì tôi cũng thế.”
“Rất vui vì được nghe điều đó.”
“Rất thuyết phục, tôi đã thử đoán xem bao nhiêu phần trong đó là sự thật. Tôi muốn tin rằng ít nhất những gì anh kể cũng gần với sự thật hơn một chút.”
Móng tay Kristoll cạy trên bánh lái. Anh ta gạt bụi trên bảng đồng hồ.
“Tôi cũng muốn có thể kể cho cậu sự thực, David à.”
“Tôi tin là anh muốn thế”, Loogan nói, ngồi thẳng dậy. “Có lẽ không nên nói tới chuyện đó nữa. Giờ muộn rồi và cả hai chúng ta đều mệt mỏi. Ý tôi là, cũng giống như tôi đã nói lúc nãy, anh có thể giữ những bí mật của mình.”
Cực kì cẩn trọng, Kristoll vòng xe quanh một đường lượn.
“Tôi rất cảm kích vì điều đó, David. Ước gì mọi chuyện khác đi nhưng mà... tôi cũng có những lí do của riêng mình.”
“Đương nhiên. Tôi không cần biết chúng là gì. Một người chết trong nhà anh, đó quả là một gánh nặng mà anh phải chịu đựng. Những chi tiết cụ thể chẳng quan trọng. Nó là một gánh nặng, thậm chí ngay cả lúc trên móng tay hắn có máu và vài mảnh da trong khi anh chẳng có vết xước nào trên người, thậm chí hắn đánh nhau với ai khác chứ không phải anh, hay thậm chí cả khi anh không giết hắn.”
Ngày hôm sau Loogan tỉnh giấc lúc hai giờ chiều. Anh cảm thấy đau lưng khi ngồi trên giường, đau chân khi bước xuống cầu thang, đau vai khi rót nước vào cốc và với tay lấy thuốc giảm đau trong kệ tủ bếp trên cao.
Mặc dù đã tắm đêm hôm qua, anh lại tắm thêm lần nữa, và thay đồ. Lúc ba giờ, anh lái xe tới khu kí túc xá của trường Đại học. Anh để xe ở một nơi chẳng liên quan, sau đó đi ngang qua sân trường.
Mặt trời đã lặn. Anh ngồi trên ghế băng nhìn ra giảng đường Angell. Đám sinh viên đi ngang qua anh trên vỉa hè, chuyền tay nhau một bao thuốc lá. Lúc ba giờ hai mươi phút, Laura Kristoll bước xuống những bậc thang của giảng đường Angell. Đi bên cô là hai sinh viên, một cô gái với mái tóc hung cùng một chàng trai có chòm râu và ria mép đen, đầu cạo trọc. Loogan nhận ra đã gặp họ tại các buổi tiệc trong ngôi nhà bên bờ sông Huron.
Loogan đứng lên khỏi ghế và Laura nhìn thấy anh. Cô nói gì đó với hai sinh viên và sau đó ai đi đường nấy. Cô gái có mái tóc hung ngoái nhìn Loogan rồi nói gì đó với cậu sinh viên đầu trọc.
Laura Kristoll mặc một chiếc áo khoác len dài và quàng khăn lụa. Mái tóc vàng của cô buông trên nền lụa. Loogan đứng nguyên chỗ ghế băng và đợi cô đi tới chỗ mình.
“Chào anh, David”, cô nói, “Theo em được biết anh và Tom đi vào thành phố đêm qua”.
“Đúng vậy.”
“Đi xem phim và sau đó uống rượu”, cô nói. “Em đoán rằng các anh uống rượu là chính phải không? Tom ngủ say như một chú gấu cả buổi sáng.”
“Anh cũng vậy.”
“Anh cũng thế, nhưng không phải như gấu. Anh ngủ hẳn là nhìn rất đẹp. Sau đó anh tỉnh giấc và tới đây”, đó là một câu nói bình thường nhưng đôi mắt cô lại khiến nó trở thành một câu hỏi.
“Anh cần gặp em”, Loogan nói nhỏ. “Anh hi vọng là chúng ta... đủ kín đáo.”
“Đừng nói vậy”, cô nói. “Anh thì lúc nào chẳng kín đáo.”
“Anh cần nói chuyện với em vài phút”, anh làm giọng tinh quái, “chúng mình có thể vào văn phòng em được không?”.
“Anh ngọt ngào lắm, David. Nhưng giờ em có một buổi họp.”
“Đến muộn một chút cũng được mà. Vào văn phòng đi. Anh cần gặp em một lát.”
Cô do dự một chút, sau đó quay đi không nói một lời và bước lên những bậc thang của giảng đường Angell. Anh theo cô tới văn phòng trên tầng hai. Cô khóa trái cửa và ung dung đóng rèm cửa sổ. Cô cởi áo khoác và bỏ nó trên ghế.
Thế rồi cô xoay người và ép chặt cơ thể mình vào anh. Anh hôn mãnh liệt lên môi, lên cổ cô. Anh xé rách chiếc khăn lụa; các ngón tay lần cởi cúc áo của cô. Tay phải anh vuốt ve khắp bụng cô, tay trái thì đặt trên cổ.
Cô bật ra một tiếng thở dài.
“Em thực sự không có thời gian, David. Người ta đang chờ em kìa.”
“Anh chỉ muốn ngắm nhìn em thôi”, anh nói. “Sau đó em có thể đi.”
Anh kéo chiếc áo xuống dọc theo hai cánh tay cô, mở cúc áo lót cô và cởi ra theo cùng một cách. Anh nâng hai cánh tay cô sao cho chúng song song với nền nhà, sau đó dùng ngón tay trỏ vẽ một đường từ cổ tay cô tới bả vai, rồi một đường thẳng giữa sống lưng. Anh xoay người cô lại đối diện mình và vẽ một đường nữa từ đám tàn nhang trên cổ cô tới giữa hai bầu ngực.
“Đó là tất cả những gì anh muốn”, anh nói.
Cô ngả người trên bàn, cặp mắt xanh nhìn thẳng vào mắt anh.
“Em thật hoàn hảo”, anh nói. “Làn da không chút tì vết.”
Cô với tay cầm lấy cổ áo anh và kéo anh lại gần. Anh cảm thấy làn môi cô trên cổ mình, nghe thấy lời thì thầm của cô: “Nguy hiểm”.
Một tuần liền Loogan không gặp lại Tom Kristoll. Họ gặp nhau tối nay. Loogan dành cả buổi chiều trong thành phố để xem hai bộ phim nước ngoài mà anh chẳng thể diễn tả nổi cốt truyện. Hôm qua, anh lái xe tới Toledo để xem một triển lãm về lịch sử nghề làm thuỷ tinh. Hôm trước nữa, anh đi xem một vở kịch ở Chicago và nghe một buổi hòa nhạc ở Detroit.
Giờ anh đang ngồi trên xích đu nơi hành lang ngôi nhà thuê của mình, ngắm mưa rơi từ bầu trời màu xám lạnh lẽo. Anh cầm bút ở tay, một cuốn sổ mở rộng đặt trên đùi. Anh đang ghi lại những gì đã choán lấy tâm trí anh khi ở Toledo, Chicago và Detroit.
Một người được Tom Kristoll nhận dạng là Michael Beccanti đã bị giết đêm ngày mùng Bảy tháng Mười trong văn phòng ở nhà của Tom bên sông Huron.
Người chết có một khẩu súng đeo ở cẳng chân - tại sao vậy?
Có dấu máu và da dưới móng tay của hắn, chứng tỏ đã có một cuộc xô xát với kẻ giết người. Nhiều khả năng hắn đã cào xước mặt, cổ, cánh tay hay bàn tay của kẻ giết người. Tom không có bất kì vết xước nào ở những chỗ đó.
Laura Kristoll không có vết xước nào trên cơ thể. Ngoài ra ít có khả năng, mặc dù chuyện này vẫn có thể xảy ra, cô ta đủ mạnh để giết một người đàn ông bằng một chai Scotch.
Nếu cả Tom lẫn Laura đều không giết Beccanti, hẳn là hắn đã bị giết bởi một người khác. Người đó đã rời đi ngay sau khi xong việc. Hắn không ở lại giúp phi tang xác nạn nhân - tại sao?
Có thể Tom đã nói dối về nhân thân của người chết. Có thể hắn không phải Michael Beccanti. Thậm chí có khả năng chẳng ai là Michael Beccanti trong chuyện này cả.
Mưa rơi trên lan can hàng lang, lên mũi chiếc giày Loogan đang mang.
Người chết, dù đó là ai, đã bị giết ở nhà Kristoll. Kẻ giết người nhiều khả năng có quan hệ với Tom và Laura Kristoll.
Loogan ngừng lại. Anh có biết ai có quan hệ với Tom và Laura không? Có rất nhiều thực tập sinh và các cây viết của tạp chí Gray Streets. Một vài người bạn anh đã gặp ở những bữa tiệc mùa hè, hiển nhiên là họ có cha mẹ, anh chị em - nhưng anh chưa bao giờ gặp những người đó.
Anh sẽ chỉ dùng những gì mình biết thôi vậy. Anh viết tiêu đề NHÀ VĂN và dưới đó liệt kê vài người có tác phẩm mà anh đã biên tập. Không có ai sống quanh khu này. Nhưng có hai cây viết người bản địa anh đã gặp ở nhà Kristoll: một người cao với cái tên kì quặc - Nathan Hideaway. Một phụ nữ - có tên Bridget gì đó - viết sách về một quý cô thám tử cùng chú chó. Anh thêm tên họ vào danh sách. Bên dưới một tiêu đề khác - THỰC TẬP SINH - anh viết: Cô gái tóc hung - Valerie? Cậu sinh viên có chòm râu dê và đầu cạo trọc. Mình thực sự phải học cách nhớ tên mọi người.
Ở phía cuối trang, anh viết thêm: Tôi gần như chẳng biết gì về Tom và Laura Kristoll.
Loogan ngẩng lên và thấy một chiếc xe đỗ ở góc phố - chiếc Ford của Tom Kristoll. Kristoll, khoác áo mưa và đội mũ phớt, rảo bước trên lối đi và leo lên cầu thang. Anh ta kẹp dưới cánh tay một gói dẹt hình chữ nhật quấn trong giấy màu nâu.
“Cậu đang làm gì thế?”, anh ta hỏi.
Loogan gấp cuốn sổ và đặt nó trên ghế xích đu.
“Liệt kê vài ý tưởng cho một tác phẩm mà tôi sẽ chẳng bao giờ viết.”
“Tôi không thích nghe điều đó đâu”, Kristoll nói. “Nếu cậu nghĩ ra ý tưởng gì, cần phải bắt đầu viết ngay. Nếu cậu gặp khó khăn, tôi có thể xem qua.”
“Còn sớm quá, Tom à!”, Loogan nói và đứng dậy. “Chúng ta vào nhà đi.”
“Tôi không ở đây lâu được”, Kristoll nói. Anh ta cúi đầu và từng dòng nước mưa chảy trên vành chiếc mũ phớt. “Tôi chưa cảm ơn cậu vì những việc đêm hôm trước. Tôi nghĩ nên tặng cậu một món quà thì hay hơn. Những lúc khác thì có lẽ tôi đã mời cậu một chai Scotch. Nhưng tôi biết lần này thì không nên. Nó sẽ có một ý nghĩa thật kì quặc. Vậy nên tôi sẽ tặng cậu cái này.”
Anh ta đưa gói quà cho Loogan. Lớp giấy bọc màu nâu lấm tấm nước mưa. Loogan xé rách lớp giấy và thấy bên trong là một bức ảnh được đóng khung - chụp những mảnh kính vỡ, những cánh hoa và những mảnh giấy xé thành hình lá cây. Đó chính là bức ảnh Laura đã mua vào ngày họ tới phòng triển lãm.
“Laura đã chọn tấm ảnh này”, Kristoll nói. “Tôi đã bảo cô ấy mình muốn mua quà tặng cậu. Đương nhiên cô ấy không biết lí do, nhưng cô ấy tin rằng cậu sẽ thích nó. Không biết cậu sẽ treo nó ở đâu. Tôi thấy nó hơi nhỏ để treo trên lò sưởi. Trong phòng làm việc của cậu thì sao nhỉ? Cậu có thích nó không?”
“Thật tuyệt vời”, Loogan đáp.