Anh nhận được một cuộc gọi từ Tom Kristoll vào thứ Sáu tuần sau đó. Khi đó anh đang nằm sấp trên thảm phòng khách, những trang bản thảo mở rộng trước mặt. Anh đang gặp khó khăn ở một đoạn hội thoại - anh viết đi viết lại tới lần thứ bảy trên một tờ nháp màu vàng thì chuông điện thoại reo. Bị sao nhãng khỏi công việc, tới hồi chuông thứ năm anh mới nhấc máy.
“Tôi tưởng cậu không định trả lời điện thoại cơ đấy”, Kristoll nói. “Cậu đang suy tính gì thế?”
“Thử nghĩ xem liệu một kẻ tống tiền sẽ nói gì với một tay rửa tiền”, Loogan đáp.
“Tôi hiểu rồi... lại là truyện mới đó à?”
“Truyện mới nào?”
“Chính là tác phẩm mới mà cậu ngồi viết ý tưởng hôm trước ấy.”
“Không phải đâu. Đây là truyện của người khác. Công việc của tôi là thế mà, chỉnh sửa lại tác phẩm của các cây viết khác.”
“Kệ đi, David, cậu cũng nên tự viết thứ gì đó chứ.”
“Trong lúc này, có người đang trả tiền để tôi làm biên tập đấy.”
“Chuyện này dễ thôi”, Kristoll nói. “Có khi tôi nên sa thải cậu.”
“Anh gọi tới đây để sa thải tôi à?”
“Không, nhưng có lẽ đó là điều tốt nhất mà tôi có thể giúp cậu. Sau này cậu định làm gì?”
“Còn tùy tôi bị sa thải khi nào. Anh đang làm gì vậy?”
Kristoll ngập ngừng một chút trước khi trả lời với giọng trầm tư. “Liệt kê vài ý tưởng cho một tác phẩm mà tôi sẽ chẳng bao giờ viết”, anh ta trả lời. “Đúng như lời cậu nói phải không?”, một phút ngập ngừng nữa. “Chỉ khác là có lẽ tôi sẽ kể chuyện đó.”
“Ý anh là gì?”, Loogan hỏi.
“Có lẽ đêm hôm trước tôi đã có một quyết định sai lầm.”
“Đêm nào vậy?”
“Đừng giả vờ ngây ngô nữa”, Kristoll nói. “Nghe này, hay là cậu qua đây đi, lên thẳng văn phòng. Chúng ta sẽ uống một chút và có thể tôi sẽ tiết lộ cho cậu biết.”
“Được rồi.”
“Cậu nói ‘được rồi’ cứ như không ấy. Cậu không bắt buộc phải tới đây mà. Tôi đã đòi hỏi ở cậu quá nhiều rồi. Giờ từ chối một lần cũng chẳng sao.”
“Tôi đã đồng ý rồi mà”, Loogan nói. “Mấy giờ thì tôi qua được?”
“Tầm bảy giờ nhé.”
Câu chuyện về kẻ tống tiền và tay rửa tiền đã choán hết tâm trí Loogan cả buổi chiều. Những chỗ chỉnh sửa của anh lấp đầy khoảng trống giữa các dòng chữ in. Lúc năm rưỡi chiều, anh đứng giữa phòng khách. Những trang bản thảo nằm vương vãi dưới chân - tất cả là hai mươi tư trang. Chữ viết tay của anh trên đó cũng đẹp và ngay ngắn y như chữ in, nếu nhìn từ trên cao không ai có thể phân biệt được.
Anh đứng như vậy lâu hơn so với ý định ban đầu. Anh đang chuẩn bị quỳ xuống sàn để vơ những trang bản thảo lại thì nghe thấy tiếng gõ cửa. Nhìn ra cửa sổ, anh thấy Laura đang đứng ngoài hành lang. Cô mỉm cười và gõ ngón tay lên cửa kính.
Anh đón cô ở cửa bếp, giúp cô cởi áo khoác và một phút sau cô đã ở trong phòng khách, mắt nhìn xuống đống bản thảo trên sàn.
“Từ trước đến giờ em vẫn băn khoăn không biết sẽ như thế nào nếu bất ngờ gặp khi anh chưa kịp chuẩn bị”, cô nói. “Em vẫn luôn nghĩ rằng anh khác với tất cả mọi người. Em chẳng tưởng tượng nổi hình ảnh anh làm những việc lặt vặt hàng ngày - kiểu như tưới cây hay đi đổ rác, hoặc là ngồi ở bàn làm việc chỉnh sửa một câu chuyện bằng bút chì. Hóa ra em đoán đúng - anh đâu có dùng bút chì. Anh chỉ nhìn chằm chằm vào tờ bản thảo tới khi những dòng chữ này tự hiện ra trên mặt giấy.”
Cô cởi giày và quỳ một chân xuống, nhặt một tờ bản thảo lên đọc, hai cẳng chân lồ lộ dưới chiếc váy. Loogan bật một chiếc đèn bàn, ánh đèn nhuộm bạc lớp lụa trên váy cô, dát vàng trên tóc cô. Cô đọc hết veo sáu trang và có lẽ định xem hết tất cả đống bản thảo đó nếu không bị ai làm phiền, Loogan nghĩ thầm.
“Anh sẽ đưa em một bản sao nhé”, anh nói.
Cô nhặt nốt trang thứ bảy, thứ tám và đọc lướt qua chúng.
“Hay quá. Hay quá mức cho phép luôn”, cô đứng lên và đưa tập bản thảo tới gần ánh đèn. “Anh hẳn đã phải tốn rất nhiều công sức.”
“Không khó lắm đâu”, anh nói. “Nhất là khi anh chỉ có mỗi việc ngồi nhìn chằm chằm vào trang giấy thôi.”
“Đôi khi em nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu chỉnh sửa một chút”, cô nói. “Anh nhìn thấy ngay những chỗ chưa ổn và sửa lại. Sau đó anh gửi nó lại cho tác giả và anh ta chẳng cãi lại nổi câu nào, ít ra nếu anh ta là người biết điều.”
Cô đặt tám trang bản thảo lên mặt lò sưởi và ngồi xuống ghế sofa.
“Em tự hỏi không biết Tom đã nhận ra thuê anh làm việc là một quyết định sáng suốt nhường nào”, cô nói.
Loogan không nói gì cả. Anh ngắm nhìn khi cô vỗ nhẹ chiếc gối đặt bên cạnh.
“Ngồi đây với em đi, David”, cô nói. “Em chẳng đến đây để nói về chuyện biên tập đâu. Em chỉ đến xem anh đã làm gì với món quà của em thôi.” Cô đưa mắt về phía tấm ảnh chụp kính vỡ, cánh hoa và lá cây bằng giấy được đóng khung treo trên lò sưởi. “Treo chỗ đó không hợp lắm, nhưng em vẫn thích nó. Em chẳng nhớ nổi trước đây anh treo gì ở đó nữa.”
“Một bức tranh xấu xí vẽ hình tàu biển”, Loogan trả lời.
“Đúng rồi. Thế này đẹp hơn hẳn. Lúc đó em không chắc anh có thích không. Tom muốn mua tặng anh một món quà, mà em lại đã muốn tặng chính anh món quà này rồi. Anh không giận đấy chứ?”
“Không đâu.”
“Em thích ngắm nhìn nó và hồi tưởng lại ngày hôm đó”, cô xoay người về phía Loogan, đặt một cánh tay trên lưng ghế, những ngón tay vuốt trên mái tóc. “Và ngay ở đây...”, cô chẳng cần nói rõ chuyện gì đã xảy ra ở đây hôm đó. “Chúng ta bỏ mấy cái nệm này xuống sàn nhé”, cô nói nhỏ. “Anh nhóm lò đi. Hôm đó mình không nhóm lửa nhưng vào hôm nay cũng được đấy.”
“Đó không phải ý hay đâu”, Loogan nói.
“Vậy thì không có cũng được.”
Anh im lặng. Cô rút tay lại, vuốt ve trước ngực áo.
“Thì ra ban nãy anh nói vậy không phải là về chuyện nhóm lửa à?”, cô nói, mắt nhìn anh chăm chú. “Đáng ra em phải nhận ra chứ nhỉ. Anh đã không gần gũi với em hai tuần rồi.”
Mặt Loogan lạnh tanh. Anh nhìn chăm chăm vào tấm ảnh treo trên lò sưởi. Một lúc sau, anh mới nói: “Thực ra, anh cũng rất quý anh ta”.
“Đúng là như thế mà”, cô nói khẽ. “Em biết là anh quý anh ấy. Nếu không thì giữa chúng mình chẳng có gì đâu. Anh mà ghét anh ấy, em chẳng còn coi anh ra gì luôn. Nhưng anh ấy giờ là bạn anh. Em phải biết từ trước chứ nhỉ: David Loogan là một người trung thành.”
Cô thở dài. “Anh và Tom giống như đôi bạn trong truyện thần thoại. Tên là gì ấy nhỉ?”
“Anh không biết.”
“Androcles”, cô nói, “Androcles và con sư tử”, cô ngừng lại để vuốt một lọn tóc ra sau tai. “Androcles là một nô lệ bỏ trốn đi lang thang trong rừng. Anh ta tìm được một con sử tử bị chảy máu ở chân. Nó đã giẫm phải một cái gai, và Androcles giúp nhổ nó ra.”
“Anh tưởng một chú chuột đã nhổ cái gai chứ nhỉ?”
“Đó là truyện khác”, cô nói, “Androcles nhổ cái gai ra và con sư tử trở thành bạn anh. Nó đi săn mồi và đem thức ăn về cho anh.
Sau đó cả hai bị bắt, Androcles bị kết án ném cho sư tử ăn thịt trong đấu trường. Nhưng thay vì xé xác Androcles, con sư tử quỳ dưới chân anh”.
Loogan ngả người trên ghế sofa. “Thế thì trong truyện này anh là Androcles à?”
“Anh là con sư tử”, Laura nói. “Con sư tử có lòng biết ơn. Nó không chịu tấn công Androcles. Nó không thể làm tổn thương anh ta”, cô cười nhạt. “Và nhất là nó cũng không ngủ với vợ của Androcles đâu.”
Cô nhích lại gần và ngả đầu trên vai anh.
“Tội nghiệp anh, David. Anh sợ phải nói chuyện đó với em phải không? Anh lo rằng em sẽ khóc.”
“Anh tưởng rằng em sẽ thuyết phục anh đổi ý.”
“Em muốn làm cả hai thứ, nhưng thôi. Em sẽ đi nếu anh muốn.”
Anh choàng tay ôm lấy cô. “Em đừng đi.”
“Không đâu. Em chỉ muốn ngồi yên lặng ở đây với anh một chút. Được không anh?”
“Dĩ nhiên là được.”
Loogan tỉnh dậy trong bóng tối. Laura đứng bên anh. Anh chộp lấy cổ tay cô và ngồi bật dậy.
“Bình tĩnh nào. Em đây mà.”
“Tối quá”, anh nói.
“Em tắt đèn đi đấy. Em về đây”, cô đã mặc áo khoác.
“Mấy giờ rồi?”, anh hỏi.
“Bảy giờ hai mươi phút. Có chuyện gì thế?”
“Anh quên mất. Tối nay anh phải tới gặp Tom”, Loogan đứng lên.
“Chải đầu đi đã. Anh trông cứ như vừa mới ngủ dậy ấy. Đừng nhăn mặt thế, David. Em có làm gì sai đâu.”
Cô hôn lên má anh rồi xoay người đi ra ngoài mà không nói thêm gì nữa.
Anh tới chỗ điện thoại và quay số văn phòng của Kristoll. Sau ba hồi chuông, anh nghe được giọng nói từ hộp thư thoại của anh ta. Anh để lại lời nhắn rằng mình đang trên đường tới đó.
Anh thay một chiếc áo mới, đánh răng và mặc áo khoác. Xe anh đang đỗ ngoài phố. Anh đi sang phía ghế lái và để ý ngay lốp xe. Cả hai lốp đều xịt. Ai đó đã vạch một từ tục tĩu lên lớp sơn cửa. Anh nhìn suốt dọc con phố, cảm thấy cơn giận sôi sục trong lòng. Anh chẳng thấy ai ngoài một bà già tóc bạc đang dắt chó đi dạo.
Đứng giữa tiết trời lạnh giá, anh suy nghĩ. Anh phải đem xe đi sửa, nhưng cái đó để sau cũng được. Hay anh có thể gọi taxi, nhưng việc này cũng mất thời gian. Từ đây tới tòa soạn Gray Streets chỉ có mười hai tòa nhà. Anh sẽ đi bộ đến đó.
Anh lấy găng tay để trong xe, nhìn quanh một lần cuối và đi về hướng đông. Anh đi dọc con phố, tránh những chỗ tối trên vỉa hè. Đi bộ nhanh như vậy khiến anh cảm thấy ấm lên một chút.
Tới gần khu phố chính, bắt đầu có ánh sáng từ các căn nhà, cống rãnh chất đầy lá cây, xe cộ cũng dày đặc hơn. Anh đi lên vỉa hè.
Khi tới gần Main Street, anh nghe thấy tiếng còi hụ. Phía trước, một chiếc xe cảnh sát lướt qua ngã tư, đèn xanh đỏ bật sáng, chiếc khác theo sát phía sau.
Loogan tới phố Main và đi về phía bắc. Những chiếc đèn nhấp nháy hiện ra phía xa, cách đó hai tòa nhà. Dòng xe cộ trườn về hướng bắc. Cửa các quán ăn đông nghẹt người. Một người đàn ông quấn khăn len dài đang thổi kèn saxophone, hộp đựng kèn để dưới chân trong có vài tờ tiền lẻ. Gần đó, một chú chó giống Scotland cột vào trụ nước cứu hỏa. Chỉ có chú chó và người thổi kèn là không nhìn về hướng bắc.
Một vài người từ quán ăn kéo về phía ánh đèn nhấp nháy. Loogan rảo bước. Hai chiếc xe cảnh sát anh bắt gặp đã tới hơi muộn. Ba chiếc khác đang đậu trên phố. Cảnh sát đứng điều khiển giao thông ở các ngã tư.
Những chiếc đèn xe cảnh sát vây quanh một căn nhà góc phố. Chính là căn nhà có văn phòng của tòa soạn Gray Streets.
Một hàng rào thấp ngăn đám đông tới gần. Loogan lách qua đám đông. Một phụ nữ đang nghe điện thoại. Một người đàn ông đầu hói đeo kính không gọng. Người phụ nữ dập máy và gọi một số khác: “Cậu không tin nổi mình đang ở đây đâu” - cô ta nói.
Loogan trèo qua hàng rào. Bên trong, một cái cây trồng trên vỉa hè. Bên cạnh nó là một ghế băng bằng sắt. Một chiếc giày đàn ông nằm dưới gầm ghế.
Đứng ở một đầu chiếc ghế là một dàn cảnh sát mặc quân phục. Bốn người trong số họ không đội mũ, chắp tay phía sau lưng. Mặt ai cũng lạnh tanh. Giữa đám cảnh sát và tòa nhà, một tấm ga được trải trên vỉa hè. Đội cảnh sát đối diện với đám đông, yên lặng đứng gác, nhưng sự có mặt của họ không che giấu nổi hình dáng thứ đang nằm dưới tấm ga.
Loogan nghĩ mình nên hỏi tên của người đang nằm dưới tấm ga. Anh tin chắc mình sẽ không nhận được câu trả lời nào. Dù sao đó cũng chỉ là nghi thức thôi. Anh biết người đó. Nhìn lên trên, anh thấy tất cả các cửa sổ đều đóng, ngoại trừ tầng sáu.