Năm ấy, gia đình chúng tôi có bốn người cùng gia nhập Hội Hướng Đạo, đó là anh chị tôi, Thẩm Thiên Lộ và tôi. Ba người họ thuộc đội trung học, còn tôi thuộc đội tiểu học, thế nhưng đồng phục của chúng tôi thì giống nhau. Thẩm Thiên Lộ nhỏ con, lúc mặc bộ đồng phục của học sinh trung học, ống quần phải xắn lên tận hai nấc, vạt áo thì dài quá mông, nhìn thế nào cũng thấy giống quần áo đi mượn. Tôi và anh ấy vừa vặn trái ngược nhau, tôi vừa cao vừa gầy, mặc bộ quần áo tiểu học này lên, tay áo và ống quần cộc tớn, ngắn cũn cỡn, nhưng chiều rộng thì thùng thình, vải cọ vào nhau loạt xoạt, giống y như cái sào tre, đặc biệt là buổi sớm ngày đông đi học, gió lạnh vù vù táp vào vạt áo, trước ngực sau lưng đều lạnh cóng như tảng băng, không dễ chịu chút nào. Mẹ thấy không ổn, bèn khâu thắt eo cho tôi, ống quần thu hẹp vài phân, thế này mới ra dáng một chút. Mặc dù là vậy, có lần cán bộ Trùng Khánh đến trường kiểm tra giám sát, khi chúng tôi phải mặc đồng phục, cầm cây gậy hướng đạo đứng trước cổng trường xếp hàng chào mừng, thì bị chị tôi đi ngang qua bắt gặp. Chị về nhà nói với mẹ:“Đập một gậy là có thể đánh gãy eo của Hoàng Tranh Tử làm đôi, thế mà nó còn đứng gác!”
Tôi ghét nhất là giọng điệu coi thường người khác của chị ấy. Tôi gầy thì sao chứ? Hành quân diễn tập hát quân ca, có việc nào tôi bị tụt lại phía sau đâu?
Hội Hướng Đạo yêu cầu chúng tôi “Mỗi ngày làm một việc tốt”, có một khoảng thời gian chúng tôi đi đường, mắt cứ lấp la lấp lánh, dáo da dáo dác ngó xung quanh, mong mỏi nhìn thấy một người khuyết tật nào đó để chúng tôi có cơ hội dìu họ, hoặc rót một ly nước đưa họ uống. Nhưng đối với chuyện làm việc thiện này, học sinh tiểu học không bao giờ tranh được với các anh chị trung học. Ví dụ như trường chị tôi, họ tập trung mọi người lại may vá đồ cho các chiến sĩ ngoài tiền tuyến, thêu túi này, móc đôi găng tay này, dệt đôi giày rơm bằng vải bố này, nhiều cách lắm, nhưng chẳng ai kêu gọi học sinh tiểu học làm những chuyện này cả. Có lần, tôi nghe nói bệnh viện Hoa Tây đón rất nhiều thương binh ngoài tiền tuyến, học sinh trên bãi bồi gần như dốc hết sức lực, vây quanh bệnh viện đòi giúp đỡ, kết quả là y tá trưởng đuổi hết học sinh tiểu học ra về, đuổi cả những nữ sinh trung học nhìn thấy máu là la hét, chỉ để lại anh tôi và mười mấy nam sinh khác ở bên trong giúp đỡ đổ nước bẩn, giặt băng vải, dìu thương binh đi vệ sinh... Mấy hôm đó, anh tôi dường như đã nhìn đủ những đau khổ thảm thương như địa ngục trần gian ở trong bệnh viện, ngày nào về nhà cũng nuốt không trôi cơm, còn nhốt mình trong phòng khóc. Anh lập lời thề, đến khi đủ mười tám tuổi sẽ tòng quân đánh giặc, không đuổi được lũ quỷ Nhật, quyết không về nhà.
Làm việc tốt không dễ dàng, mà đã là chuyện không dễ dàng thì tôi càng quyết tâm làm thật tốt. Tôi phát hiện có một giếng nước cách nhà không xa, ngày nào cũng có những bà cụ bó chân đến đây lấy nước, tảng đá thì trơn, thùng nước thì nặng, dáng vẻ run run xách nước đi đường của các cụ thật khiến người ta thót tim. Một ngày nọ, tôi thức dậy từ tờ mờ sớm, đứng canh bên giếng nước, cứ hễ nhìn thấy cụ già xách nước là tôi chạy lên giằng lấy giúp. Thế nhưng lạ lắm, các cụ già cứ như hẹn nhau từ trước vậy, đồng loạt từ chối tôi, tôi giằng lấy thùng nước, họ tránh trái tránh phải, nước bắn tung tóe, giày vải của cả tôi và cụ đều ướt đẫm. Cụ bắt đầu than thở: “Cháu có lòng bà xin nhận, nhưng xách nước thì không được, cháu nhìn mình xem, tay chân gầy guộc, bé tẹo đáng thương lắm, nào có xách được nước, nếu bị mẹ cháu nhìn thấy, mẹ cháu sẽ đau lòng chết mất.”
Tôi thật sự không cho rằng mẹ tôi sẽ khóc đâu, bà có năm người con tất cả, không còn tôi, bà còn có anh chị tôi, em trai, em gái tôi nữa. Chỉ có điều tôi đi khắp nơi “làm việc tốt” mà không được, thì thấy suy sụp vô cùng, mỗi lần tham dự cuộc họp của Hội Hướng Đạo, đến lúc phải báo cáo hoạt động tuần, tôi đều xấu hổ đến mức chỉ muốn tìm cái lỗ nào để chui xuống cho xong.
Phạm Thư Văn hiểu tôi nhất, bạn ấy nhắc nhở: “Thật ra giúp đỡ mẹ cũng là làm việc tốt mà.”
Tôi nói, có lẽ cái này không tính đâu, người nhà mình giúp người nhà mình không phải là làm việc tốt, mà là trách nhiệm.
Phạm Thư Văn nói tiếp: “Người sống trên đời đều là con dân của Thượng Đế, con dân của Thượng Đế đều nên được nhận giúp đỡ như nhau.”
Ồ, nói như vậy cũng rất có lý đấy chứ. Tôi bắt đầu siêng năng giúp mẹ làm việc nhà: rửa bát này, quét nhà này, nhóm lò, gảy than này, phơi tã cho em này, đi chợ gánh gạo này. Có lúc tôi còn dọn dẹp sạch sẽ hành lang và cầu thang của Lựu Viên: xách một thùng nước, cầm giẻ lau, lau một vòng tầng trên tầng dưới, lau từng viên gạch, từng kẽ hở, từng cái lan can, tôi lau sạch sẽ không còn hạt bụi.
Mẹ tôi nói: “Con gái lớn thay đổi nhiều, Tranh Tử đúng là hiểu chuyện rồi.” Đoạn mẹ nói tiếp: “Nếu con cứ chăm chỉ thế này, sau này không lo không tìm được nhà chồng tốt đâu.”
Tôi thật sự muốn nói với mẹ rằng: “Mẹ nghe này, đây gọi là mỗi ngày làm một việc tốt, chứ không phải vì nhà chồng quái quỷ nào đó đâu.”
Nhưng chung quy, tôi vẫn không nói, vì có nói mẹ cũng không hiểu, mẹ là người phụ nữ của gia đình mà.
Sang xuân, Hội Hướng Đạo còn có một lần huấn luyện dã ngoại: Chúng tôi phải mặc đồng phục, vác cây gậy hướng đạo lên vai, ngực đeo túi lương khô giống như quân dã chiến, xuất phát từ sân thể dục của trường học, đi bộ đến chùa Chiêu Giác nằm ở ngoại ô phía Bắc của Thành Đô, cắm trại ngoài trời một đêm rồi mới hành quân trở về nhà. Cả đi cả về tổng cộng bốn mươi, năm mươi dặm đường, đối với học sinh tiểu học thì đó là cả một hành trình lớn lao.
Buổi sớm ngày chúng tôi xuất phát, khí thế ai nấy đều hừng hực, chúng tôi xếp thành từng hàng dài tít tắp, trống nhạc nổi lên, đồng thanh hát lớn: “Chúng ta, là binh đoàn thiếu niên của dân tộc Trung Hoa, dù nhỏ tuổi, nhưng mang chí lớn...”
Cứ đi rồi lại nghỉ, đến trưa bắt đầu có bạn học không chịu nổi nữa. Một cậu học sinh lớp ba bị tiêu chảy, nhưng trên đường không có nhà vệ sinh, cũng không dám đứng ra xin nghỉ để giải quyết tại chỗ, đến lúc không nhịn nổi nữa, ị đùn ra quần, cậu ta xấu hổ quá khóc toáng lên. Đến lúc đó, hiệu trưởng bèn sắp xếp một cô giáo dẫn cậu ta về nhà. Còn có một cô bạn có cha giữ chức vụ tham nghị trong chính quyền Trùng Khánh, cô bạn ấy yếu đuối mỏng manh như búp bê sứ vậy, chưa đi được mười dặm đã ngất xỉu, thầy thể dục phải ấn nhân trung mới tỉnh lại, mọi người không dám để cô bạn ấy đi tiếp nữa, nhưng cũng không sắp xếp được thầy cô giáo đưa về, bèn đi mua một cái gùi, các thầy luân phiên cõng. Cô bạn xấu hổ, cả đoạn đường cứ rúc đầu trong gùi, không dám nhìn người khác, cũng không để cho người khác nhìn mình, giống như là chim cổ rắn vậy.
Túi lương khô của tôi có đậu tương rang, vài miếng bánh nướng, hai quả trứng muối, một túi cơm rang đường. Trong túi của Phạm Thư Văn là bánh quy do bác Phạm Mã Lệ tự làm, cùng với bún trộn quả khô và đường trắng. Nếu không phải chuyến huấn luyện dã ngoại này, tôi sẽ không thể bỗng chốc có nhiều đồ ăn ngon đến thế, Phạm Thư Văn cũng vậy. Hai đứa trẻ chúng tôi đều tìm được niềm hạnh phúc như ngồi trên núi vàng núi bạc, chúng tôi bắt đầu ăn từ khi bước ra khỏi bãi bồi Hoa Tây, trên túi lương khô có một lỗ nhỏ, hai đứa khi thì nhón một ít bún xào, lúc thì bẻ một miếng bánh bích quy. Cầm đồ ăn trên tay, nhìn quanh quất thấy không ai để ý đến, thừa dịp mọi người không chú ý, liền cúi đầu, nhanh chóng bỏ tọt vào miệng. Sợ bị phát hiện, chúng tôi còn không dám nhai to, đầu tiên là ngậm trong miệng để nước bọt làm nó mềm ra, rồi mới lấy đầu lưỡi ép xuống, từ từ, từ từ nuốt vào trong bụng. Hai đứa còn lén đứng trong hàng trao đổi đồ ăn, bạn ấy cho tôi một miếng bánh, tôi lại cho bạn ấy mấy hạt đậu tương. Đồ ăn của người khác bao giờ chẳng ngon ngọt hơn, lúc chúng tôi nhìn nhau bật cười, cả hai đều cảm thấy cuộc đời này chưa bao giờ ăn thứ gì ngon đến vậy. Quá là kỳ diệu, thật khiến người ta hạnh phúc đến váng cả đầu.
Đến buổi trưa, đội của chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi ở đại viện nhà họ Văn. Lúc tất cả mọi người ngồi xuống bên vệ đường ăn cơm trưa, tôi hào phóng mở gói lương khô ra, chia một quả trứng vịt muối cho Phạm Thư Văn. Kết quả trứng vịt muối bị mẹ tôi ủ mặn quá, lúc ăn xong, cả buổi chiều hai đứa chỉ khát nước, cổ họng nóng như bị thiêu đốt. Điểm tốt của việc này là cho đến tận tối muộn ngày hôm đó chúng tôi chẳng thiết tha ăn cái gì nữa, tiết kiệm được không ít lương thực. Nếu không, với cái tốc độ như tằm ăn rỗi của chúng tôi, túi thức ăn kia có to đến mấy cũng chẳng còn lại được đến ngày hôm sau.
Đêm hôm đó, chúng tôi ngủ lại trong một từ đường rộng lớn, âm u, cả đội mượn của người nông dân mấy bó rơm to, trải kín tất cả các phòng trong từ đường, con trai ngủ phía Đông, con gái ngủ phía Tây. Tôi và Phạm Thư Văn cùng nhau rúc trên một mảnh đệm rạ. Lúc ngủ, tôi quen thói cởi quần áo, ngồi trên đống rạ toan cởi cúc thì Phạm Thư Văn giữ lấy tay tôi, kêu tôi đừng cởi. Tôi biết bạn ấy không muốn để da tôi chạm vào rơm rạ. Cũng đúng, bởi vì rơm rạ chưa được đập, cứng lắm, chọc vào người rất khó chịu.
Buổi tối, chúng tôi uống nhiều nước, nên nửa đêm tỉnh dậy vì buồn tè. Cả từ đường lớn như vậy mà chỉ có cây đèn dầu cải leo lét đặt trên bàn thờ đen kìn kịt, trong khung cảnh mơ mơ màng màng, mấy tấm bài vị tổ tiên đặt trên tường giống như những linh hồn im lìm, mang theo ý đồ xấu nhìn chằm chằm vào tôi, dường như có thể “soạt” một tiếng, giơ tay ra bất cứ lúc nào, y hệt súng lò xo bắn tới, kéo tôi vào trong bức tường, nhốt trong đống gạch vụn. Tôi càng nghĩ càng thấy sởn tóc gáy, liền đứng ở hành lang hét thất thanh. Đám trẻ con ngủ như heo, chỉ có vài giáo viên giật mình tỉnh giấc khi nghe thấy tiếng hét của tôi, họ ngẩng đầu hỏi nguyên do, rồi mắng tôi một trận, trong đó có một cô giáo đấu tranh một lúc mới đứng dậy dẫn tôi ra ngoài đi vệ sinh. Cô vừa ngáp dài, vừa cằn nhằn: “Trèo cây leo tường thì em to gan lắm, mà có đi vệ sinh thôi cũng bị dọa cho mất hồn mất vía.” Tôi thì thầm: “Từ đường đáng sợ lắm chứ ạ.” Cô vỗ một cái thật mạnh sau ót tôi: “Sợ cái gì chứ, bao nhiêu là người!”
Ngày hôm sau, chúng tôi đi tham quan chùa Chiêu Giác. Hòa thượng và những cư sĩ trong chùa chưa bao giờ nhìn thấy học sinh tiểu học vừa mặc đồng phục vừa xếp hàng chỉnh tề như chúng tôi, họ túm năm tụm ba bước tới xem trò. Chúng tôi nhân cơ hội này xếp hàng cất vang giọng hát: “Trung Quốc nhất định kiên cường! Trung Quốc nhất định kiên cường! Bạn hãy nhìn tám trăm tráng sĩ kia, đơn độc hăng hái chiến đấu làm chủ chiến trường...” Còn hát cả “Hành khúc dũng nghĩa quân”: “Đứng lên nào, hỡi những người không phục kiếp nô lệ, dùng máu thịt của các bạn, xây dựng nên trường thành mới của chúng ta...”
Các hòa thượng há hốc miệng, ngây ngẩn nhìn chúng tôi, cũng không biết họ có nghe hiểu lời ca của chúng tôi không nữa. Chiếc áo sam xanh của họ trong sớm đầu xuân tựa như biến thành màu xám bụi, không khí rõ ràng vô cùng trầm lặng và đáng sợ.
Tiếp theo đó, chúng tôi đi tham quan điện Thiên Vương, lầu Quan Âm, điện Vi Đà, lầu Tàng Kinh, sảnh Ngũ Quan, tháp Phổ Đồng, vái lạy qua quít Phật Di Lặc, Tứ Đại Thiên Vương và cả Thập Bát La Hán đang nhe răng, nhếch miệng, tướng mạo hung ác. Từ bé, tôi đã không thích đến chùa, cứ ngửi thấy mùi nhang là bắt đầu khó chịu, nhưng Phạm Thư Văn thì tìm hiểu rất kỹ, tôi thấy bạn ấy còn len lén sờ ngón chân của La Hán nữa.
Sau đó, đội ngũ chúng tôi lại tập hợp và lên đường về nhà. Nhưng đường về không còn giữ được hàng ngũ chỉnh tề như lúc đi, có người chân nổi mụn nước, bước đi tập tà tập tễnh, có người bị bung đế giày, phải lấy cọng rơm cố gắng lắm mới cột lại được, có người mặt mũi ỉu xìu vì đã ăn hết lương khô, bụng đói meo, đội ngũ chưa đầy hai trăm người, lề mà lề mề dây dưa đến vài dặm đường. Phải đến tờ mờ sáng ngày thứ ba, hai thầy giáo phụ trách thu nhận mới cõng được hai học sinh về đến bãi bồi Hoa Tây.
Về nhà chưa được mấy ngày, tôi và Phạm Thư Văn đều thấy da đầu ngứa kinh khủng, hơn nữa còn có cả tiếng loạt xà loạt xoạt, giống như có vô số con côn trùng đang bò trên đó vậy. Chị vạch tóc tôi ra xem, ghét bỏ hét toáng lên: “Mẹ ơi, mẹ mau xem này, nó có chấy!”
Mẹ lấy nước sạch gội đầu cho tôi, thế mà trên mặt nước nổi lên cả tầng chấy trắng, tay chân quờ quạng liều mạng bơi. Hai chị em tôi hét ầm lên. Đáng sợ thật sự đấy.
Cả gia đình bác Phạm đều lúng ta lúng túng với con chấy này, bác Phạm Mã Lệ còn phải chạy lên nhà, hỏi mẹ tôi cách xử lý chúng. Mẹ tôi nói chắc như đinh đóng cột: “Phải cắt tóc con bé đi đã!”
Tóc tôi vốn ngắn, có cắt ngắn hơn nữa thì cùng lắm chỉ giống con trai mà thôi. Phạm Thư Văn thì thảm rồi, tóc bạn ấy màu vàng óng rực rỡ, nếu cắt ngắn đi thì sẽ biến thành con nhím lông vàng mất, xấu lắm. Bạn ấy khóc ầm ĩ một trận, trốn trong nhà mấy ngày liền không dám bước ra cửa.
Mẹ đi đến tiệm thuốc bắc mua thuốc diệt chấy, đun lên thành thứ thuốc đen đặc rồi bôi lên đầu tôi, kế đó, bà lấy giấy dầu bọc quanh đầu, xông chết những con chấy vừa ngoan cường vừa ương ngạnh đáng ghét kia. Mẹ tôi chia cho bác Phạm Mã Lệ một gói. Có lẽ độc tính của loại thuốc đó rất cao, nó khiến da đầu tôi đỏ ửng, sưng vù, đến cả mắt cũng sưng lên. Nếu như là bây giờ thì chắc chắn các em bé không được dùng. Khi đó, con người quả thực là u mê hồ đồ, u mê hồ đồ chết đi được ấy.
Sau đó, bác Phạm nghe mẹ tôi gợi ý, mang một chai cồn từ bệnh viện về, ngày nào cũng dùng bông thấm đẫm cồn lau da đầu cho chúng tôi. Mùi của cồn cũng khó ngửi lắm, cay mũi đến nỗi làm lục phủ ngũ tạng của tôi quay cuồng, lại thêm cả bụng vừa mới ăn no, đúng là cứ chực nôn suốt.
Tôi bị hành hạ ít nhất là nửa tháng mới diệt được hết chỗ chấy trên đầu. Phạm Thư Văn thề thốt với tôi, sau này, bạn ấy sẽ không bao giờ tham gia hoạt động dã ngoại nữa, dù cho bị thôi học cũng nhất quyết không đi.
Tôi thì lại cảm thấy không nghiêm trọng đến vậy. Tôi nảy ra một ý tưởng, lần sau nếu lại bị chấy, tôi sẽ cạo sạch đầu. Đầu trơn nhẵn cũng có gì ghê gớm đâu, cùng lắm người ta sẽ tưởng tôi là một tiểu ni cô mà thôi.