Tôi sẽ kể cho bạn nghe câu chuyện của hai giáo sư ở Lựu Viên.
Câu chuyện đầu tiên có liên quan đến một bé gấu đáng yêu.
Còn nhớ tiết Thanh minh năm ấy, lúc hoàng hôn, chúng tôi vây quanh lò than hồng của mẹ, nhìn mẹ rán bánh dương liễu cho chúng tôi ăn. Lá liễu non màu vàng nhạt là do tôi dẫn Tiểu Tố ra bờ sông hái về. Tôi trèo lên cây, giống như con khỉ bấu víu lấy cành, ấn cành nhỏ nhất, mềm nhất xuống, ngọn cây gần quệt xuống mặt đất, Tiểu Tố vội vàng nhón chân thò tay ra, ngắt cả lá non lẫn búp vứt vào trong sọt nhỏ. Khi chúng tôi về đến nhà, mẹ rửa sạch lá non, thái nhỏ, bỏ thêm chút muối, thêm nước, trộn đều với bột mì. Mẹ còn đập thêm hai quả trứng vào trong tô bột. Sau đó, mẹ làm nóng chảo, nhanh chóng quét một lớp dầu cải lên mặt chảo nóng, rồi từ từ đổ xuôi bột mì vào trong chảo, không cần dùng muôi, bột mì sẽ chảy đều theo thành chảo, rồi mẹ cầm chặt cán chảo, lắc hai vòng, thế là một miếng bánh mỏng hình chóp nón đã thành hình. Cho lửa nhỏ, xong xuôi thì rắc thêm một ít hành hoa, mùi thơm tỏa ra khắp nơi. Mẹ cho bánh ra đĩa, vàng óng, ngoài giòn trong mềm, cắn một miếng, “rộp” một tiếng, hương vị của mùa xuân chầm chậm tràn ngập khoang miệng.
Tiết Thanh minh năm nào mẹ cũng làm bánh dương liễu cho chúng tôi “cắn xuân”, bởi đây là phong tục ở quê hương Nam Kinh của chúng tôi. Mẹ bảo, người ta dù đi xa đến đâu thì vẫn luôn phải giữ lấy gốc rễ quê hương, dù chết cũng không được vứt bỏ.
Mới ra được hai mẻ bánh, chúng tôi mỗi người chia một phần tư, đang định nhai kỹ nuốt chậm, nhẩn nha thưởng thức thì dưới tầng đột nhiên vang lên tiếng reo mừng, hình như có chuyện gì lớn lắm. Chúng tôi chạy ngay ra hành lang, ló đầu xuống nhìn, kỳ lạ thật đấy, mấy đứa trẻ trong viện vây quanh một con gì đó đen tuyền, lông lá xù xì, mồm năm miệng mười vui vẻ vô cùng.
Tôi chẳng muốn ăn bánh nữa, kéo tay Tiểu Tố chạy như bay xuống tầng, chen vào đám đông. Con vật đang bị vây quanh kia có bộ lông tơ màu nâu, cái đầu tròn vo, bụng tròn ung ủng, chân ngắn, đôi mắt sáng lấp lánh như hai hòn bi ve, trên cổ đeo một chiếc vòng da nối với dây thừng, một đầu của dây thừng cột vào cây hòe già trong sân. Con vật đó có lẽ còn nhỏ, không sợ người lắm, ai giơ tay chọc nó, nó liền bổ nhào về phía người đó. Nó vừa định lao tới thì bị sợi dây kéo lại, ngã nhào. Nhưng cũng chẳng sao, nó lăn một vòng trên đất, lại xiêu xiêu vẹo vẹo lăn về phía người ta. Tôi còn thấy nó thè cái lưỡi đo đỏ ra liếm tay bé trai nhà họ Từ giống như liếm ti mẹ vậy, nhóp nha nhóp nhép, khiến bé trai ấy bị nhột cười phá lên.
Phạm Thư Văn chen ra từ trong đám đông, vội vã nói với tôi: “Cậu có biết nó là gì không? Gấu con đấy!”
“Sao có thể?” Tôi không dám tin. “Trong rừng sâu mới có gấu chứ, bãi bồi Hoa Tây của chúng ta là đồng bằng mà.”
“Lừa cậu tớ là chó luôn! Bác Đào mang về từ vùng Tây Tạng đấy. Họ tặng cho bác ấy.”
Tôi ngoái đầu, lúc đấy mới phát hiện bác Đào với bộ râu dài đang đứng nghiêng nghiêng dựa vào hàng rào hoa trên bức tường trong viện, cong chân, hai tay đặt lên bụng, nhìn lũ trẻ đang ầm ĩ huyên náo mà cười như một cậu bé con. A ha, tôi lại phát hiện thêm rồi, trên đầu bác ấy còn đội cả chiếc mũ nỉ hoa của người dân tộc Tạng nữa, thế nhưng bác ấy lại mặc bộ âu phục vải nhung màu tương, còn đeo chiếc khăn choàng cổ lông cừu mỏng màu xám nhạt. Cái kiểu ăn mặc chẳng ra đâu vào đâu này đúng ra là buồn cười lắm, thế mà bác Đào phong độ ngời ngời mặc lên thì không những không buồn cười, mà lại mang theo vẻ đẹp hào sảng.
Đúng là người dân tộc Tạng đã tặng bác ấy chú gấu con kia. Bác Đào là giáo sư Viện Ngôn ngữ Lịch sử ở tầng dưới nhà chúng tôi, là hàng xóm của Phạm Thư Văn. Tôi nghe cha nói, từ lúc vào bãi bồi Hoa Tây đến nay, bác Đào cứ như vào được bảo địa ấy, bởi vì Xuyên, Tạng, Vân, Quý đều cách Thành Đô không xa. Những địa phương có nhiều dân tộc thiểu số kia đúng thật là kho báu của ngôn ngữ. Năm đầu tiên đặt chân đến đây, bác Đào nhắm ngay cao nguyên Tùng Phan, dẫn theo sinh viên làm khảo sát ngôn ngữ Gia Nhung Tạng, dầm mưa dãi nắng, trong một năm có đến một nửa thời gian bác sống giữa dân tộc Tạng. Tửu lượng của bác Đào rất cao, chỉ uống chút ít thôi là có thể nói nói cười cười như một đứa trẻ ngay, còn vô cùng thích khoanh chân, tán phét chuyện thường ngày với đối tượng khảo sát của mình, đi đến đâu cũng có bạn bè. Lần này, bác ra ngoài đã nấn ná tại nơi người dân tộc Tạng sống ở vùng Mân Giang, nơi đó rừng sâu nước thiêng, thú rừng hay qua lại, nghe nói bác còn từng gặp cả bầy lang sói nữa đấy. Trước khi quay về, người bạn dân tộc Tạng của bác ấy vừa lúc gặp được một ổ gấu, đào ra được chú gấu con này, bèn tặng cho bác chơi. Lúc bác Đào ngồi trên xe kéo về đến Lựu Viên, dưới chân là hành lý, ôm một chú gấu con trên đầu gối, mọi người cứ tưởng bác ôm một con chó con cơ, chẳng ai ngờ con vật này sau khi lớn lên sẽ là một quả bom hẹn giờ.
Đang độ giữa tháng Tư và tháng Năm, chú gấu con chung sống vô cùng hòa thuận với chúng tôi.
Đầu tiên chúng tôi tranh nhau cho nó ăn, thịt sống, thịt chín, rau xanh, hoa quả gì cũng cho, chú gấu con ăn đến bệnh luôn, tiêu chảy, rụng lông, đầy gỉ mắt, ỉu xìu xìu. Nếu không phải chúng tôi cầu cứu giáo sư Mai khoa Thú y ra tay cứu giúp, có lẽ gấu ta đã mất mạng rồi.
Sau đó, bác Đào gọi lũ trẻ trong viện tới họp, giao hẹn với mọi người ba điều: Mỗi gia đình phụ trách bón ăn một ngày, thức ăn giới hạn trong các loại: cơm nhão, mỳ nát, ngô non và một ít rau xanh. Bác Đào còn vô cùng nghiêm túc làm một bảng phân công trực nhật, viết hết tên của chúng tôi lên đó, ghi chú ngày cho ăn, ghi chú cả lượng dùng của mỗi loại thức ăn, dán lên đầu cầu thang. Bác chỉ vào tấm bảng mà dọa chúng tôi: “Có nhìn thấy không? Mỗi nhà một ngày, tự phụ trách, nếu cho ăn không đúng quy định, trách phạt công khai!”
Cha tôi cười bác: “Anh Đào à, anh lấy tinh thần làm luận văn để cho gấu con ăn đấy ư?”
Bác Đào trả lời: “Hết cách rồi, phải để lũ trẻ học được cách quản lý bản thân.”
Điều tất cả mọi người không ngờ tới là, chú gấu con được ăn đầy đủ lớn nhanh như thổi, bởi vì lớn quá nhanh mà chỉ hai tháng sau, lông tơ đã rụng hết, thay vào đó là một bộ lông cứng cào cạo, mõm dài ra, đôi mắt hơi chậm chạp, lúc đứng dậy còn cao hơn cả Tiểu Tố. Có một hôm, đến lượt nhà chúng tôi trực nhật, Thẩm Thiên Lộ cầm một cái bánh bột bắp đưa qua đưa lại trêu nó, nó cuống lên, gầm lên một tiếng đáng sợ, nhảy lên, bổ nhào về phía Thẩm Thiên Lộ, nhoáng cái cào rách tay áo của anh ấy, để lại trên tay anh ấy hai vệt xước dài. Nếu không phải đang bị dây xích giữ lại, quả thật không biết còn gây ra họa lớn đến thế nào nữa.
Chuyện này vừa xảy ra, nhà nào nhà nấy đều sợ hãi, những đứa trẻ nhỏ từ đó không dám bén mảng đến gần. Gắng gượng nuôi thêm nửa tháng nữa, thời tiết nóng dần lên, mùi của con gấu khiến người ta không thể nào chịu nổi. Lần thứ hai bác Đào tụ tập toàn bộ trẻ con trong viện lại, biểu quyết dân chủ, tất cả đều đồng ý tặng chú gấu cho vườn thú địa phương. Một ngày sau nữa, vườn thú điều một chiếc xe bò đến, trên xe đặt một cái lồng sắt, hai người đàn ông lực lưỡng cầm một tấm vải bố chụp đầu chú gấu lại, ôm vào trong lồng. Lúc sắp chia tay, lũ trẻ trong viện đứng thành một hàng, nước mắt chảy ròng ròng, chúng tôi còn góp tiền mua một giỏ ngô non đặt trên xe, để nó mang đến vườn thú ăn.
Chú gấu con ở lại vườn thú được nhiều nhất là nửa năm thì không thấy đâu nữa. Đi hỏi người của vườn thú, họ bảo, gấu con ăn nhiều quá, kinh tế của vườn thú trong thời kỳ chiến tranh có hạn, không nuôi nổi con thú dữ đến vậy. Lại hỏi tiếp, thế họ đưa gấu con đi đâu rồi? Đối phương lắp ba lắp bắp, sống chết không dám tiết lộ địa điểm cụ thể. Phạm Thư Văn lo họ đã giết gấu ăn thịt rồi. Nhưng tôi thì cảm thấy không có khả năng đó cho lắm, bởi vì chúng tôi nghe giáo sư Mai nói, thịt của những động vật chưa thuần dưỡng không ngon đâu, vừa dai, mùi lại gay mũi. Tôi thầm nghĩ, trong vườn thú nhiều động vật đến vậy, ắt hẳn người ta sẽ không yêu thích thịt gấu vừa dai vừa gay mũi đâu.
Góc Tây Bắc trên tầng hai của chúng tôi là căn hộ của nhà vật lý học tên tuổi lẫy lừng Từ Phương Huấn, chính là cha của đứa trẻ mập mạp bị gấu liếm tay ấy. Trước kia, bác ấy tốt nghiệp ở Đại học Columbia của Mỹ, sau đó về giảng dạy ở Đại học Đông Ngô của Tô Châu. Năm 1937, quân Nhật chiếm đóng Thượng Hải, bác đã dẫn giáo sư và học sinh của khoa Vật lý vượt qua nghìn dặm đến bãi bồi này, sáp nhập vào Đại học Tổng hợp Hoa Tây.
Bác Từ là một người vô cùng coi trọng vẻ bề ngoài, dù cho bác chỉ bê một cái nồi sứ ra ngoài mua sữa đậu nành giúp vợ, tóc bác cũng phải chải đến bóng loáng, ruồi bọ mà có đậu lên cũng chẳng đứng nổi. Trên cái áo khoác ngắn kẻ caro màu xám đậm của bác, giữa màu xám đậm kia còn đính những đường vân đỏ sậm, lúc bác mặc nó lên, còn thắt thêm một cái khăn tơ lụa cùng màu với đường vân, trông cực kỳ phong cách.
Mẹ tôi nói, giáo sư Từ mang đậm dáng vẻ của người Thượng Hải, mà người Thượng Hải thích như vậy đấy, ra ngoài là phải chỉn chu, gọn gàng, còn ở trong nhà húp cháo có nổi dưa muối hay không thì ai mà biết được.
Tôi luôn luôn cảm thấy lúc mẹ nói những lời này còn kèm theo cả sự ghen tị, bởi vì so với bác Từ, cha tôi lúc nào cũng đi chân trần hoặc xỏ đôi giày rơm xuống ruộng thí nghiệm, ở trong Lựu Viên này, cha đã nổi tiếng với việc lôi thôi lếch thếch.
Lúc kháng chiến bắt đầu nổ ra vào năm 1937, trang bị của quân đội nước nhà kém đến nỗi một cây súng chẳng có nổi vài viên đạn, trên rất nhiều chiến trường, súng chỉ bắn một phát, còn cả chục phút sau không nghe thấy tiếng động gì nữa, họ đã lấy lưỡi lê chuẩn bị đánh giáp lá cà. Ngày nào bác Từ cũng đọc báo, khi đọc đến những tin tức về chiến trường khiến lòng người ta nóng như lửa đốt là bác liền ngồi không yên, đứng dậy thở dài, đi lòng vòng trong nhà, sải bước qua hành lang tìm cha tôi, lớn giọng oán thán, đập tờ báo xuống bộp, bộp, bộp.
“Như thế này thì đánh giặc kiểu gì? Anh Hoàng, anh nói xem, như thế này thì đánh giặc kiểu gì? Đây há chẳng phải tiễn thanh niên đi chết sao?”
Cha tôi cũng thở dài, sắc mặt nghiêm trọng: “Quốc gia nghèo nàn ăn sâu vào gốc rễ rồi anh ạ.”
Bác Từ lắc đầu nguầy nguậy, dáng vẻ như sắp khóc.
Rất nhanh sau đó, thế cục ở Tây Nam chuyển biến xấu, máy bay của quân Nhật lại có thể xâm nhập vào nội địa, nhiều lần thả bom xuống Trùng Khánh, Thành Đô. Lửa chiến lan rộng, đất nước Trung Quốc chìm vào đáy vực, biết bao gia đình lang bạt nơi đầu đường xó chợ, đó quả thực là những ngày tháng ngập sâu trong nỗi tuyệt vọng.
Rốt cuộc bác Từ không còn cách nào ngồi trong phòng đọc sách được nữa, bác hợp tác với mấy nhà vật lý học và hóa học trên bãi bồi Hoa Tây, thành lập “Bộ nghiên cứu kỹ thuật”, chủ yếu nghiên cứu chế tạo đạn dược vũ khí. Họ đi khắp nơi tìm tòi những nguyên liệu hóa chất hữu dụng. Có lần nửa đêm bác Từ đột nhiên nhớ ra, bên cửa hàng thuốc nhuộm có lẽ còn thứ gì đó mà họ có thể dùng, bác bèn cầm đèn pin mò mẫm xuống tầng, chạy thẳng đến cửa hàng trên phố Thiểm Tây, gõ cửa cốc cốc, dọa cho nhân viên cửa hàng sợ hãi tưởng là cướp tới, lúc mở cửa người run lên cầm cập, nói không thành lời. Còn có một lần, bác nghe nói bên phía lân cận Thành Đô có một vị quân phiệt già giấu thuốc nổ và axit kali trong nhà, bèn đến đó mấy chuyến, dụ dỗ ông cụ đó bán lại. Nhưng chẳng biết vì sao mà ông cụ quân phiệt nhất quyết không chấp nhận. Bác sốt ruột, nửa đêm trèo tường, lao vào trong nhà cụ ấy, ngồi trước giường của ông cụ quân phiệt, giảng giải từ tầm quan trọng của kháng chiến đến trách nhiệm của mỗi người dân, nói thao thao bất tuyệt cả một tiếng đồng hồ. Thế rồi, ông cụ kia cảm động đến nỗi không ngăn được dòng nước mắt, lập tức đứng dậy, lấy báu vật cất kỹ ra, dâng lên bằng hai tay, hơn nữa còn nhất quyết không nhận một xu nào.
Lúc nguyên vật liệu thu thập được hòm hòm, bác Từ lại kiếm được từ chỗ bạn học cũ quyển sách “Đạn dược cao cấp” của Mã Sắt Nhĩ. Quyển sách này khiến cho công trình nghiên cứu của bác có thể gọi là như hổ thêm cánh. Theo lời của bác Từ thì hiện giờ mọi thứ đã sẵn sàng, chỉ thiếu gió Đông thôi. Gió Đông là gì ư? Một lò đất nung dùng để nung thuốc nổ. Hiện giờ, trong sân viện của Lựu Viên có một cái mái che mưa, là khi trước bác Đào đã bỏ tiền ra dựng lên làm chỗ ở cho gấu con, bây giờ gấu con đi đến vườn thú rồi, mái che lại bỏ không. Được bác Đào đồng ý, bác Từ bèn mua đất đá gạch vụn về, rồi mời thêm cả thợ xây lò, chỉ nửa ngày trời là xây xong một cái lò nung cao hơn nửa người dưới mái che mưa.
Sau khi có lò nung, cỡ độ phải một tháng sau, họ không hề ngơi nghỉ. Hôm nào đến tối muộn, chúng tôi cũng đứng ở hành lang tầng hai, nhìn về phía đốm lửa xa xa nơi cửa lò, nhìn bác Từ và đồng nghiệp vây quanh lò nung lật sách, thảo luận, tranh cãi, ngửa đầu cười vang, mong ngóng cho thử nghiệm của bác mau chóng thành công, sớm ngày chế tạo ra thứ thuốc nổ khiến người Nhật ngựa ngã người đổ. Chúng tôi, ai ai cũng muốn qua phụ giúp một tay, dù là thêm than xách bụi cũng chẳng sao. Thế nhưng, bác Từ nhất quyết không cho lũ trẻ chúng tôi lại gần. Bác nói chỗ đó quá nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng có thể phát sinh sự cố. Vậy thì chẳng lẽ bác Từ sẽ không gặp nguy hiểm sao? Chẳng lẽ trên thế giới này chỉ có mình bác không sợ? Tất cả chúng tôi đều không phục.
Không thể không bội phục sự thông minh của các giáo sư, chỉ một lò đất nung bình thường mà cũng có thể nung ra được những viên thuốc nổ đen tuyền giống như cao thuốc phiện. Bác Từ nhờ sinh viên của bác mang thuốc nổ ra chiến trường thử nghiệm, nghe nói họ lén chôn trên đường ray, làm nổ cả một đoàn tàu của quân Nhật. Tin chiến thắng truyền đến, bác Từ đem chiếc mũ nỉ hoa và chiếc áo bành tô đổi lấy hai chai rượu Whisky trong chợ đen, mời đàn ông trong viện đến uống rượu. Uống xong, họ cất vang tiếng hát, đầu tiên là hát những khúc ca kháng chiến, rồi đến nào là “Khúc ca đường lớn”, “Khúc hát tốt nghiệp”, rồi “Trở về với quê hương”, đủ mọi thể loại. Rồi sau đó, họ hát tiếng Anh: “Đêm dài đằng đẵng”, “Tha thứ cho anh nhé”, họ hát đến cả những bài ca dao của người da đen trên đất Mỹ, ngay đến cả bác Phạm Mã Lệ kiêu kỳ rất ít khi nói chuyện với hàng xóm láng giềng, tối hôm đó cũng phá lệ mở rộng cửa, đàn một khúc dương cầm, chung vui cùng mọi người. Mọi người cứ hát mãi, hát mãi, đám đàn ông kéo vợ mình đứng dậy nhảy múa, đến cả mẹ tôi cũng bị kéo xuống tầng. Mọi người ca hát reo hò đến tận sáng mới tan.
Mở đầu thắng lợi khiến bác Từ càng thêm hăng hái, bác kéo thêm vài người bạn ngân hàng đến đầu tư, xây dựng nên một nhà xưởng công trình quân sự nhỏ trên bãi bồi Hoa Tây, chủ yếu sản xuất “đạn dược tái chế”: Thu thập lại những viên đạn được dùng trên chiến trường, đổ thuốc nổ họ tự sản xuất, chuyển đến tiền tuyến tái sử dụng. Xưởng nhỏ này thật ra cũng chỉ là xưởng khởi công thô sơ, nguyên vật liệu và cả kỹ thuật đều không đủ, đạn làm ra không bắn được xa quá một trăm mét. Nhưng dù sao nó cũng là đạn, lúc đánh giáp lá cà, thình lình bắn ra một viên, không chết cũng tàn phế, đủ sức uy hiếp rồi.
Tiếp đó nữa, bác Từ bắt đầu thử chế tạo kíp mìn trong nhà xưởng của mình. Thứ đồ này vô cùng nguy hiểm, không cẩn thận là phát nổ ngay. Lúc chế tạo đến những khâu quan trọng, bác Từ sẽ đuổi hết thảy mọi người ra ngoài, đồng nghiệp này, học sinh này, công nhân này, chỉ để lại một mình bác yên tĩnh làm việc. Kết quả là cẩn thận mấy cũng có sai sót, có lần kíp mìn nổ, kính cửa sổ vỡ vụn, bác Từ mặt đầy máu, ngã trên nền đất của nhà xưởng. Mọi người khiêng bác đến bệnh viện Đại học Hoa Tây, vợ bác chạy đến, tưởng rằng bác hết đường cứu chữa rồi, ngất xỉu ngay tại đó. Kết quả bác nằm trên giường bệnh, thủng thẳng nói:“Không sao đâu, anh khỏe lắm.”
Đúng là tình hình không nghiêm trọng thật, bác bị thương ở tay, máu bắn lên mặt nên trông mới đáng sợ như vậy. May mà người trong Lựu Viên của chúng tôi nhiều, bác Phạm, cũng là giáo sư khoa ngoại, lập tức giải phẫu, cắt bỏ ngón áp út và ngón út trên bàn tay phải của bác. Một tháng sau, bác Từ xuất hiện trở lại trong nhà xưởng nhỏ trên bãi bồi Hoa Tây, nghe nói bác đã nghiên cứu thành công đường xoắn nòng súng, hy vọng có thể cải thiện cự ly bắn của súng trường trong nước. Bác đi ra đi vào viện nhà chúng tôi, vẫn là dáng vẻ áo quần phẳng phiu, sạch sẽ chỉnh tề như khi trước.
Thế nhưng, Phạm Thư Văn kỹ tính vẫn nhận ra sự thay đổi của bác Từ, bạn ấy khẽ túm áo tôi: “Hoàng Tranh Tử, cậu nhìn tóc bác Từ mà xem!”
“Tóc làm sao? Có chấy à?” Tôi mở to mắt.
Phạm Thư Văn thở dài: “Nói chuyện với cậu tốn sức thật đấy.”
Tôi đáp: “Nói chuyện với cậu mới tốn sức ấy, nói cũng chẳng rõ ràng.”
Bạn ấy hơi giận, quay người đi không thèm để ý đến tôi. Có điều nhịn một lúc, bạn ấy vẫn nói tiếp: “Hỏi cậu nhé, mọi sáng bác Từ có chải đầu không? Vậy mà bây giờ tóc bác ấy rối bù! Trước đây, bác ấy sẽ không bao giờ như thế này đi ra ngoài đâu.”
Tôi suy nghĩ cả nửa ngày vẫn không hiểu nổi, tóc một người có rối hay không thì nói lên được điều gì?
Tôi nghĩ mãi, nghĩ không hiểu cũng không dám hỏi, sợ cô bạn thân của tôi sẽ coi thường, sẽ chê tôi ngốc.