Sau tiết lập hạ, cỏ cây sinh sôi nảy nở. Trên bãi bồi Hoa Tây, cây du, cây hòe, cây thích, cây thị, cây liễu, cây xoan tỏa ra từng tầng bóng mát, chen lẫn giữa những phiến lá xanh thẫm là những chiếc lá xanh non, trong những chiếc lá xanh non lại lẫn thêm những chiếc lá xanh mạ. Tiếng ve râm ran, tiếng chim lảnh lót, anh một điệu cao, tôi một nốt trầm, khi thì dồn dập, lát lại réo rắt du dương, chẳng rõ chúng đang gân cổ cãi nhau hay là đang í ới gọi nhau nữa.
Có hôm, trên đường đi học, chúng tôi nhìn thấy hai con chim lông xám nâu trong lùm cây, đầu chúng hơi to, trên bộ lông là những chấm mốc trắng như hoa ban, trông xấu lắm. Hai con chim, mỗi con đứng trên một ngọn cây, con này hót một câu, con kia gân cổ hót to hơn, vừa hót, vừa vỗ cánh phành phạch trên cành cây, ra vẻ muốn bay đấy, thế nhưng không bay lên được.
Tôi cảm thấy chúng giống như định đánh nhau để giành địa bàn. Phạm Thư Văn lại nói không đúng, đây là chúng đang yêu thương nhau đấy chứ, giương cánh là muốn múa cho đối phương xem.
Tôi cười nhạo bạn ấy: “Thế lúc cha mẹ cậu yêu nhau có múa cho nhau xem không?”
Phạm Thư Văn giận lắm, mặt đỏ bừng, bạn ấy cho rằng, tôi đang so sánh cha mẹ bạn ấy như hai con chim xấu xí kia, khinh thường bạn ấy.
Suốt cả ngày Phạm Thư Văn ấy không thèm để ý đến tôi, làm cho ngày hôm đó của tôi trôi qua vô cùng tẻ nhạt. Sẩm tối sau khi tan học, tôi vào rừng bắt một chú chim non mỏ vàng mập mạp tặng cho bạn ấy. Cô bạn vô cùng hoảng sợ hét lên: “Chim non rời xa mẹ sẽ chết đấy! Mau trả về đi!” Tôi vội vã nâng chú chim nhỏ, trèo lên cây lần nữa, trả nó về tổ.
Cũng bởi vậy mà Phạm Thư Văn không giận nữa, vì bạn ấy biết tôi rất quan tâm đến mình.
Sau khi vào hạ, trời cao mây tạnh, mãi chẳng thấy đổ xuống giọt mưa nào. Con đường đất kéo dài từ nhà chúng tôi đến trường học đã khô cong đến bạc cả đầu, giẫm chân xuống sẽ khiến những hạt bụi nhỏ bay “vù” lên, sau đó bắn tung tóe khắp nơi. Nếu đeo tất trắng đi học, đi bộ hết cả đoạn đường, tất trắng sẽ biến thành tất tro bẩn thỉu ngay, lúc cởi ra đập một cái, bụi đất mới sẽ khiến người ta hắt hơi liền mấy cái.
Chúng tôi vô cùng mong ngóng ngày mùa mưa đến. Lúc trời mưa, chúng tôi có thể đứng chân trần trong sân dầm nước mưa, có thể dùng gáo múc nước mưa trong thùng hắt tới hắt lui đánh trận giả, còn có thể đứng bên bờ sông nước dâng cao vớt mướp, hồ lô, những quả phật thủ nửa chìm nửa nổi, thậm chí cả vài ba chú cá tuy đã trợn trắng mắt nhưng vẫn chưa thối rữa. Chúng tôi vứt những con cá ấy cho lũ mèo hoang, mèo ta bèn tranh nhau ầm ĩ, chúng trợn mắt, giành giật cãi nhau, làm ra vẻ anh sống tôi chết, cổ họng gầm gừ những tiếng đáng sợ, khiến chúng tôi vui vẻ vô cùng.
Còn nữa, mùa mưa tới, không khí trở nên mát mẻ dễ chịu, mọi người có thể trở về phòng, chui vào màn để ngủ, không cần phải trải chiếu ngủ trên hành lang chỉ để hưởng thụ được chút gió nóng ít ỏi đáng thương, còn bị lũ côn trùng cắn, nát toét cả da thịt. Tôi thương em trai út của tôi vô cùng, gương mặt bé xíu của nó chi chít những vết muỗi đốt, nhìn qua cứ tưởng bị sởi. Hơn nữa, trẻ con ngứa không biết gãi, chỉ biết khóc thôi, khóc đến nỗi khàn cả cổ họng, thở không nổi, làm người lớn lo lắng suy sụp. Mẹ nói, biết vậy nhưng cũng chẳng còn cách nào, ai bảo trẻ con da mềm, thịt thơm mời gọi lũ muỗi đến đốt chứ?
Kết quả là mùa hè năm đó, mùa mưa chưa đến, nhưng tiếng báo động phòng không và tiếng bom đạn đã vang vọng.
Nghe nói Thiên Hoàng Nhật Bản cho phép hành động ném bom này, ông ta đã tự mình hạ lệnh trước Ngự tiền Hội nghị rằng: Để đạt được mục đích tấn công quân sự, có thể tiến hành những hành vi “tương tự như việc ném bom” đối với những mục tiêu phi quân sự.
Những tháng ngày đau thương nhất, gần kề chiến tranh nhất trên bãi bồi Hoa Tây chính thức bắt đầu.
Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên tiếng báo động phòng không vang lên, chúng tôi đều cho rằng nó là diễn tập như thường lệ, chẳng ai chú ý đến. Lúc đó, chúng tôi đang ở trên lớp, thầy giáo dạy toán đứng trên bục giảng, nước miếng văng tung tóe, giảng đề bài tập ứng dụng “gà thỏ chung lồng”, Phạm Thư Văn nằm bò trên bàn lén lút vẽ tranh thiếu nữ, còn tâm trí của tôi thì đang đặt lên chú ve sầu béo mập trên cây hòe, thầm tính đến bao giờ mới trốn được khỏi ánh mắt của thầy giáo, trèo lên cây bắt nó lại, nhưng lại lo lắng chưa tan học mà nó đã bay đi mất, đến lúc ấy mình lại mừng hụt.
Từng tiếng còi báo động kéo dài bỗng vọng tới, tuy xa xôi, nhưng trời nóng nên cửa sổ phòng học mở tung, vì thế âm thanh nghe được vô cùng rõ ràng, cậu bạn học mông nhọn nhất lớp tôi là người đứng lên hét đầu tiên: “Thầy ơi, là báo động phòng không!”
Thầy giáo dạy Toán đang giảng bài hăng say, quát mắng cậu ta: “Phòng không cái gì? Em ngồi xuống.”
Cậu ấy nhăn nhó ngồi xuống, nhưng vẫn nhấp nhổm không yên, hết nhìn cửa sổ bên trái, rồi lại ngó cửa sổ bên phải, nét mặt chừng như trông mong điều gì đó.
Thầy giáo bực mình vì cậu học trò làm xáo trộn trật tự của lớp học, liền cầm một đầu phấn ném mạnh về phía cậu ấy: “Còn nhìn nữa, máy bay đến sẽ nổ chết em đầu tiên!”
Viên phấn bay thẳng, đập vào trán cậu ấy “bốp” một tiếng, rồi văng ra, rơi trên sàn, chúng tôi đều cười vang.
Từ lúc đến bãi bồi Hoa Tây đến nay, chúng tôi chưa từng trải qua sự bi thảm của việc máy bay thả bom. Mà tình cảnh chạy nạn khi trước, chúng tôi đã lãng quên từ lâu. Trí nhớ của trẻ con vẫn luôn kém như vậy đấy, vì thế ngày hôm đó, chúng tôi cười hi hi ha ha, chẳng hề có chút ý thức gì về việc địa ngục trần gian sắp giáng xuống rồi.
Thầy giáo tiếp tục giảng bài Toán trong lồng còn mấy con gà, còn dùng cả cây thước trúc gõ lên mặt bàn để tất cả chúng tôi phải chú ý lắng nghe. Lúc đó, hồi chuông cảnh báo vang lên lần thứ hai, so với lần trước, lần này còn thê lương và chói tai hơn nhiều, nó kéo vang từng hồi trên không trung, phát ra những âm thanh khiến lòng người hoảng loạn. Có lẽ thầy giáo đã phát giác ra điều bất ổn, liền dừng lời giảng, nghiêng tai lắng nghe động tĩnh bên ngoài.
Lúc bấy giờ, quân địch đã bắt đầu thả bom trong khuôn viên trường học, thầy giáo, học sinh nhao nhao đổ từ trong các phòng học ra ngoài sân tập, chạy tán loạn như lũ ruồi nhặng không đầu. Thầy hiệu trưởng già mặc trường sam màu xanh vắt vạt áo lên tay, chạy dọc hành lang, vừa chạy vừa thét gào khản cả cổ: “Học trò chạy mau, tản ra mau, tránh xa phòng học ra!”
Thoáng cái, chúng tôi cũng xem như đã tỉnh táo được đôi phần, liền lao ra ngoài mà chạy, khiến cho bàn ghế đổ ngả nghiêng. Người chen chúc nhau, có một cậu bạn nhảy thẳng từ cửa sổ xuống. Vốn dĩ tôi cũng muốn nhảy, nhưng vừa quay đầu liền nhìn thấy Phạm Thư Văn đang mặc váy, chân tay luống cuống, đành phải vội vã chạy về, nắm lấy cánh tay bạn ấy, kéo nhau chạy dọc theo hành lang.
Thời tiết hanh khô, thầy giáo và học sinh cắm đầu cắm cổ chạy trên sân tập, bụi đất bay lên mù mịt. Tiếng chuông cảnh báo cứ từng hồi, từng hồi bám sát sau lưng, giống như mãnh thú đang há to miệng đuổi theo lũ thỏ. Một chiếc giày của Phạm Thư Văn bị rơi mất, bạn ấy cúi xuống toan nhặt, nhưng tôi đã nhanh chóng kéo bạn ấy chạy tiếp. Không còn giày, cô bạn chạy tập tà tập tễnh, thế nhưng vào lúc đó, chúng tôi quả thực chẳng lo được điều gì khác nữa.
Chúng tôi chạy băng qua sân thể dục bằng tốc độ nhanh nhất, tốp năm tốp ba trốn vào trong rừng cây, há miệng thở hổn hển. Phạm Thư Văn nhìn một chiếc giày của mình nằm lẻ loi trên sân tập, vẫn không cam lòng, toan quay người chạy về nhặt, đúng lúc ấy, tiếng nổ mạnh đinh tai nhức óc như dời núi lấp bể vang lên, chúng tôi vội vã bổ nhào xuống đất, ôm đầu che tai, quả tim trong lồng ngực đập thình thịch vì sợ hãi.
Trong nháy mắt, trực thăng của người Nhật lao ra từ trong tầng mây, rít gào bổ xuống. Vì lúc đó, Thành Đô gần như không có thiết bị phòng không nào, nên người Nhật bay rất trắng trợn, trực thăng áp xuống thật thấp thật thấp, phi công ngồi ngay ngắn trong buồng lái dương dương tự đắc, trên cánh trực thăng, lá cờ in hình mặt trời đỏ tươi trở nên thật chói mắt, thật đáng sợ.
Từng đợt, từng đợt một, trực thăng bay phành phạch cười gằn đắc ý, năm lần bảy lượt sà xuống thấp tìm kiếm mục tiêu, cái bụng của nó gần như đã quét qua rừng cây chúng tôi ẩn náu. Mỗi lẫn có trực thăng bay qua, tôi lại đếm thầm. Tôi phải ghi nhớ mối hận này. Thế nhưng, lúc đếm đến hơn hai mươi cái, lại một trận nổ nữa vang vọng từ hướng khác, nghe có vẻ giống với hướng nhà chúng tôi. Tôi liền nghĩ ngay đến mẹ và Tiểu Tố, còn cả em trai, tôi lo chết đi được, quên luôn cả chuyện đếm số.
Cả quá trình đó, chúng tôi nằm áp sát trong một rừng cây khô, không dám nhúc nhích, bên tai, ngoài tiếng bom nổ thì chỉ còn tiếng tim đập thình thịch, thình thịch. Phạm Thư Văn nắm chặt tay tôi, lòng bàn tay toàn là mồ hôi, tôi từ từ ngoái đầu, nhìn gương mặt bẩn thỉu nhếch nhác có cả vệt trắng loang lổ do nước mắt để lại của bạn ấy. Tôi vội vã bấm móng tay vào lòng bàn tay của Phạm Thư Văn, ý bảo bạn ấy đừng lo lắng, đã có tôi ở bên. Đến tận lúc tiếng còi cảnh báo tan đi, thầy hiệu trưởng huýt sáo kêu chúng tôi đứng dậy, bạn ấy vẫn nắm chặt lấy tay tôi.
Trên đường về nhà hôm đó, chúng tôi mới biết ngõ Đăng Trản đã bị thả hai quả bom, quán trà Thính Vũ bị nổ tung, cả một đống gỗ bốc khói, ngói vỡ ngổn ngang chất đống khắp nơi, bình trà, bát trà, cốc trà vỡ tan tành thành từng miếng trắng bóng. Có nhà bị bom dội ngay trên nóc nhà, vách tường, cửa sổ nổ tung, ở giữa có một cái hố to như chiếc bàn bát tiên, bên hố còn có cả một chú chó bị nổ chết. May mà người của hai gia đình đó đã tránh đi kịp thời, nên không có thương vong.
Lựu Viên vẫn bình an. Mẹ và em trai, em gái đều khỏe mạnh. Mẹ bảo lúc máy bay bay đến, mẹ không hề xuống tầng: “Cha con lại xuống đồng, mẹ dẫn theo hai đứa trẻ, có trốn cũng trốn không kịp, bèn ngồi luôn trong nhà, mặc kệ chúng ném.”
Tôi rất bội phục mẹ, tuy rằng, bà là người phụ nữ của gia đình, không biết chữ, nhưng đến thời khắc quan trọng bà vẫn đủ kiên định.
Còn anh chị tôi thì không tán thành thái độ đó của mẹ, cả hai cho rằng, lúc nên trốn thì phải trốn đi. Anh tôi phân tích, Lựu Viên của chúng tôi là nhà tầng, là một mục tiêu có thể dễ dàng nhìn thấy từ trên không trung, nhiều khả năng sẽ bị ném bom. Anh còn nói với mẹ, lần sau nếu chuông cảnh báo vang lên, không kịp chạy đi xa thì xuống tầng trốn bên cạnh tường bao, tốt xấu gì cũng có chỗ che thân.
Hôm sau, chẳng biết anh tôi nghe ai nói, liền mong muốn đào một hầm trú ẩn trong nhà.
Bãi bồi Hoa Tây của chúng tôi là đồng bằng, xung quanh đừng nói là núi, đến cả ruộng dốc nương rẫy cũng không có. Anh tôi dẫn đầu, theo sau còn có chị, tôi và cả Thẩm Thiên Lộ đều nhiệt tình tham dự. Công cụ của chúng tôi ngoài hai cái xẻng sắt đầu nhọn, còn có muôi, gàu và một cái búa có móc nhọn dùng như cuốc chim. Phải mấy ngày trời, cứ hễ tan học là chúng tôi chạy ngay đến ruộng rau sau bức tường của viện, nhanh chóng đào được một cửa hốc rộng bằng chiếc bàn tròn. Tiếp theo đó, chúng tôi lần lượt nhảy vào trong hốc, lùa đất mềm vào trong gàu, nhấc đến ngang eo, người đứng ngoài phụ trách nhận cái gàu ấy, đổ đất ra phía xa.
Đáng giận hơn cả là cái hố mới đào được sâu chưa đến ba thước16, mạch nước ngầm đã dâng lên, chỉ trong một đêm đã thành một giếng nước nông. Sáng sớm, anh tôi chạy ra nhìn, căm giận đến nỗi bật thốt một câu chửi thề bằng tiếng Anh: “Sh*t!”
16. Thước: đơn vị đo chiều dài cổ, 1 thước tương đương với 0,33 mét
Công trình bị bỏ dở giữa chừng. Anh tôi cảm thấy có lỗi với mẹ và em trai, liền dẫn chúng tôi vào rừng chặt rất nhiều cành cây, vác về nhà, làm thành ba cái vòng đội đầu ngụy trang, nói với mẹ, lúc chuông báo động rền vang, mẹ cùng các em nhất định phải đội cái này đi ra ngoài, có như vậy máy bay mới không nhìn thấy họ. Mẹ luôn miệng đồng ý. Thế nhưng, thời tiết mùa hè khô nóng, chiếc vòng ngụy trang treo trên tường, lá xanh nhanh chóng héo khô rồi rụng xuống, chỉ còn trơ lại những cành khẳng khiu, trông rất giống tổ chim.
Mẹ bĩu môi bảo: “Cái này xấu quá, đội lên kỳ cục lắm.”
Anh tôi không nói gì. Có lẽ anh cũng cảm thấy nó kỳ cục. Những chiếc vòng ngụy trang cứ được treo trên tường như vậy, nhìn qua giống như những món đồ trang trí hiện đại được tạo ra từ bàn tay của những bậc thầy chế tác, hình dáng rất trừu tượng. Có ngày không tìm thấy củi nhóm bếp, mẹ bèn bẻ vài cành trong số đó làm củi đốt. Cành cây khô cong, lúc đốt lên nổ “lép ba lép bép”, quả là dễ dùng.
Sau khi quán trà Thính Vũ bị nổ, việc tập kích trên không đã trở thành chuyện hết sức bình thường. Trong một ngày, dù cho chúng tôi đang đi học, đang huấn luyện, hay đang bưng bát ăn cơm, tiếng chuông cảnh báo sắc lạnh, chói tai kia có thể vang lên bất cứ lúc nào, khiến cho người trên bãi bồi chạy tán loạn, lúc chạy ra ngoài điều đầu tiên là tìm chỗ ẩn náu.
Dần dần mọi người đã có kinh nghiệm: Thời tiết như thế nào, sáng hay là chiều, hướng Đông hay hướng Tây, tần suất máy bay quân Nhật bay đến ngày càng nhiều. Chúng tôi còn biết được cách phân biệt tiếng dự báo báo động và tiếng báo động chính thức cách nhau khoảng bao lâu. Thậm chí, chúng tôi còn phân biệt được trốn bên hố trũng ven sông, chỗ những gò đất hoang ngoài đồng, hay những bụi cây um tùm sẽ khó bị quân Nhật chú ý đến hơn.
Chúng tôi học được cách ung dung sinh hoạt và học tập trong từng trận tập kích trên không. Có vài lần học tiết Ngữ văn, thầy giáo dẫn chúng tôi vào rừng dâu học nốt bài, trên đầu là bóng cây râm mát, dưới chân là mặt đất nóng đến bốc hơi, phía xa xa là từng tiếng nổ rền vang như địa lôi, chúng tôi ngâm nga theo lời thầy, đọc thuộc lòng từng câu thơ của Lục Du:
“Chết đi là hết còn đâu
Đau lòng chưa thấy chín châu một nhà
Mai này thống nhất sơn hà
Các con nhớ khấn cho ta biết cùng.17”
17. Bài thơ “Nhị thi” (Dặn con) của nhà thơ thời Tống Lục Du. Bản dịch sưu tầm.
Trong thời khắc như vậy, đọc những câu thơ thê lương và đau buồn đến thế, dù là đứa trẻ khi bình thường nghịch ngợm đến đâu cũng sẽ biết nghiêm túc lại, nước mắt lăn dài.
Năm đó, anh Khắc Tuấn lên cấp ba, đã có tư cách tham gia “Đoàn phục vụ cứu viện chiến tranh tập kích trên không” do các trường học trên bãi bồi Hoa Tây tổ chức. Khi chuông báo động vang lên, dù là lúc họ đang bận rộn nhất cũng phải bỏ lại để giúp đỡ những người yếu, người già, phụ nữ và trẻ em sơ tán, dập lửa, đào bới những đồ dùng thiết yếu từ trong đống gạch vụn, còn phải khiêng những người bị thương, sơ cứu đơn giản, đến bệnh viện làm công tác tuyên truyền và an ủi. Anh tập hợp chị Thư Nhã, tôi và cả Thẩm Thiên Lộ lại rồi nói: sau này gặp phải không kích, nếu cả cha và anh đều không có ở nhà, vậy thì nhà cửa sẽ do ba người chúng tôi phụ trách. Anh giao cho chị phụ trách Tiểu Tố, tôi phụ trách em trai, còn nhiệm vụ của Thẩm Thiên Lộ là đảm bảo cho mẹ được an toàn.
Anh Khắc Tuấn nghiêm nghị chỉ mấy đứa chúng tôi, nói: “Ba đứa các em có chuyện thì anh tìm đoàn cứu hộ. Còn mẹ, em trai, em gái có chuyện, anh tìm các em!”
Tôi quay người chạy đi tìm mẹ, hỏi mẹ, em trai nặng bao nhiêu cân. Mẹ thấy lạ vì tôi hỏi vấn đề này, thuận miệng trả lời: “Tầm mười cân.”
Tôi cho rằng tốt nhất cứ tính là mười cân đi. Nếu như tôi cõng một đứa bé mười cân thì ba mươi phút chạy được bao xa nhỉ? Tôi khiêm nhường cầu cứu chị Thư Nhã, chị cười nhạo: “Chắc chắn sẽ chậm hơn thỏ, nhanh hơn rùa.”
Tôi chẳng có cách nào giận chị cả, chuyện gì chị chẳng muốn đè đầu tôi.
Có điều, phòng ngừa từ trước đúng thật là có tác dụng, ở điểm này không thể không bội phục anh Khắc Tuấn. Một buổi chiều nọ, chúng tôi đã tan học, nhưng cha và anh trai đều chưa về nhà, mẹ đang bận nấu cơm, chị tôi và Thẩm Thiên Lộ ở trong phòng vật lộn với đống bài tập Lịch sử, tôi cùng Tiểu Tố và em trai đang chơi dây thì thình lình nghe thấy tiếng nổ cực lớn. Chị tái mét mặt mày chạy ra từ trong phòng, lớn tiếng hô hoán chúng tôi: “Tập kích trên không! Chạy mau!”
Hóa ra là một lần đánh úp. Bọn người Nhật càng đánh càng tinh, chúng lợi dụng tiết trời cuối thu nhiều mây, điều khiển máy bay trốn trong tầng mây, rồi thình lình bổ nhào xuống, khiến chúng tôi trở tay không kịp. Vào lúc đó, tiếng cảnh báo phòng không có cũng như không mà thôi.
Lúc ấy, mẹ đang nấu cơm, chỉ vội múc một gáo nước dập tắt bếp lò là quay người gọi em trai và Tiểu Tố ngay. Thẩm Thiên Lộ nắm lấy cánh tay mẹ nói: “Mẹ đi theo con!”
Cùng lúc đó, tôi khom người bế em trai lên, còn chị đã nhanh nhẹn cõng Tiểu Tố trên lưng. Sáu người chúng tôi loạng choạng chạy xuống tầng, băng qua khoảnh sân nhỏ, chạy thẳng đến hố trũng ven sông, nơi đó có một vùng trồng rau cải dựng những giá dưa leo, là nơi gần nhất có thể náu mình.
Chị và Tiểu Tố là người đầu tiên đến nơi. Tôi ôm em trai chạy không vững, quả thực có hơi nặng. Chạy được nửa đường thì thằng bé trượt khỏi tay tôi, ngã xuống đất, khóc toáng lên. Trong tình thế cấp bách, tôi nắm lấy bả vai em vừa lôi vừa kéo, cuối cùng cũng kéo được xuống cái hố trũng ven sông. Sau đó mới phát hiện giày và tất của em đã bị tôi kéo rơi giữa đường, đôi chân nhỏ xíu để trần, gót chân bị bùn đất cọ đến đỏ ửng.
Sau khi thở hổn hển nằm bò ra, chị đột nhiên hét lớn: “Chết rồi, mẹ vẫn chưa đến!”
Tôi vội vã thò đầu ra nhìn về phía đường, thấy Thẩm Thiên Lộ đang bất chấp hết thảy cõng mẹ tôi trên lưng, người anh chao đảo, chau mày chạy như bay về phía trước, tôi và chị Thư Nhã ngồi dưới giàn dưa leo ra sức vẫy tay: “Ở đây, ở đây!” Anh nghe thấy, những bước cuối cùng gần như là vừa bò, vừa lăn nhào qua. Sau khi nằm xuống, tôi thấy anh chùng vai há miệng thở hồng hộc, mặt đỏ như rỉ máu, trông có vẻ như đã đã dùng toàn bộ sức lực của mình. Cũng phải, dù mẹ tôi gầy đến thế nào thì bà cũng là một người lớn, mà năm đó, Thẩm Thiên Lộ mới chỉ mười lăm tuổi thôi.
Mẹ tôi ngồi trên mặt đất, tự trách đôi chân bó của mình: “Tôi vô dụng biết mấy, đi cũng không đi nhanh được, suýt nữa đã hại Thiên Lộ của tôi! Chao ôi, nếu tôi hại Thiên Lộ thì biết làm sao đây!”
Chị không kiên nhẫn nổi nữa bèn nói: “Mẹ đừng lải nhải nữa, nếu bỏ mẹ lại thật, cha với anh con về chẳng lẽ không ăn thịt ba đứa chúng con?”
Thẩm Thiên Lộ vẫn đang thở hổn hển, không thốt lên được câu gì, chỉ khoát tay ý bảo chị tôi đừng nói nữa. Sau đó, anh hành động như một người đàn ông đích thực, đưa tay ấn mẹ tôi xuống, che chở dưới thân mình.
Đến tận lúc đó, nhìn Thẩm Thiên Lộ quỳ rạp trên mặt đất, tôi mới kinh ngạc phát hiện ra rằng, người anh sao lại dài đến thế, còn dài hơn chị tôi cả một cái gót chân, hoàn toàn ra dáng thanh niên, chẳng trách anh có thể cõng mẹ tôi trên lưng sải bước chạy.
Thế nhưng, anh đã lén lút cao lớn hơn chúng tôi từ khi nào vậy?
Lần ném bom đó được coi là lần cận kề cái chết nhất của chúng tôi. Chúng tôi nằm sấp trong hố trũng ven sông, có thể nhìn thấy rõ mồn một cửa hầm thả bom trên bụng trực thăng, nhìn thấy trực thăng chỉ cần nghiêng đi một cái là dưới bụng máy bay sẽ thả ra những quả bom màu bạc dài nối đuôi nhau từng chuỗi. Chúng tôi còn nhìn thấy ánh lửa ngút trời, nhìn thấy những nóc nhà bốc khói ngùn ngụt, những chiếc trực thăng trong phút chốc xếp thành bầy che kín bầu trời thành màu ảm đạm. Em trai ra sức khóc ngằn ngặt, khóc đến nỗi khàn cả cổ, đến nỗi không thể khóc thành tiếng được nữa. Tiểu Tố run cầm cập trong lòng chị, vì quá đỗi sợ hãi mà con bé im lặng tận mấy ngày liền.
Lựu Viên cũng bị ném bom, may mà không ném chuẩn, chỉ làm đổ một đoạn tường của viện. Trận đánh úp này kết thúc, cha trở về nhà sợ hãi không ngừng, ông đứng ở hành lang nhìn đống gạch vụn đổ nát, luôn miệng nói: “Nếu mà dịch sang một tí nữa thôi... nếu mà dịch sang một tí nữa thôi...”
Ừ, nếu mà bom nổ dịch sang một tí nữa thôi, nếu chúng tôi không ôm em trai, em gái và mẹ chạy đi, quả thực hậu quả khó lường. Lần đó, cha dẫn riêng ba đứa chúng tôi, hào phóng chi tiền, mời mỗi đứa một bát canh sủi cảo cay và một bát bánh trôi nước.
Cũng trong lần ném bom đó, bạn học của Thẩm Thiên Lộ chạy ra ngoài trốn, nhưng không trốn được, bị nổ bay mất một bên chân, một nửa cái mông, lúc được đưa tới bệnh viện đã khóc lóc thảm thiết hai ngày hai đêm liền. Bác Phạm ngăn Thẩm Thiên Lộ lại, không cho các anh ấy vào phòng bệnh, bác nói bi thảm quá, không thích hợp để trẻ con nhìn. Anh bạn học đó cuối cùng vẫn không giữ nổi mạng sống.
Đến tận hai năm sau, Nhật Bản lén tập kích cảng Trân Châu, quân Mỹ chính thức tham chiến, trên khu đất hoang chưa đến một trăm dặm bên phía Nam mới xây nên một cứ địa không quân của Mỹ, chuyên dùng để đối phó với máy bay Nhật Bản tập kích từ phía Tây Nam.
Chúng tôi tận mắt nhìn thấy chiếc trực thăng có tên là “Góa phụ đen“ của Mỹ giao đấu với trực thăng của Nhật trên không trung. Trực thăng của Mỹ đô to, khí thế hừng hực. Trực thăng của Nhật nhỏ con, nhưng bẻ ngoặt hay rướn cao đều vô cùng linh hoạt, cứ bám sát trực thăng của Mỹ mãi không buông. Lúc hai bên dùng súng liên thanh bắn phá nhau, chúng tôi ở dưới mặt đất không nghe được tiếng súng, chỉ nhìn thấy vô số những ánh sáng chớp lóe, chói đến nỗi không thể mở mắt ra được. Chỉ một lát sau, có trực thăng của quân Nhật bị bắn trúng, trên không trung nổ ra một đóa hoa lửa thật lớn, sau đó chiếc trực thăng kéo theo vệt khói đen dài bổ nhào xuống dưới, lúc nó chạm đất đã phát ra một tiếng nổ kinh thiên động địa, còn bốc lên một đám khói hình cây nấm đen đen đỏ đỏ.
Cũng có lúc trực thăng của người Mỹ bị trúng đạn, phi công sẽ lao ra khỏi buồng lái, chỉ một lát sau, trên không sẽ xuất hiện một chiếc dù cotton màu trắng, lơ lửng trên bầu trời giống như sắp rớt xuống đỉnh đầu chúng tôi vậy, nhưng thực tế thì chẳng biết nó rơi xuống đâu. Mỗi lúc như vậy, chúng tôi đều đứng trang nghiêm, lòng thầm cảm thấy người phi công này chính là một anh hùng tài ba, là thiên binh thiên tướng mà Ông Trời phái đến cứu vớt chúng tôi.
Dần dà, trên bãi bồi Hoa Tây không còn nghe thấy những tiếng báo động phòng không hú dài nữa. Không phải là sóng nước yên bình, chỉ là nước lặng chảy sâu mà thôi. Trải qua hai năm chạy trốn khỏi tiếng chuông cảnh báo, chúng tôi đều đã trưởng thành, đều hiểu được tất cả có thể sống, có cơm ăn, được học hành là nhờ sự hy sinh của biết bao quân sĩ dùng máu thịt của chính bản thân họ xây lên một trường thành cho chúng tôi.