Sau khi tốt nghiệp tiểu học, tôi thi vào trường Trung học Tư thục Nữ sinh Hoa Đô. Phạm Thư Văn và tôi chia xa nhau từ đây, bạn ấy thi vào trường học của Giáo hội, bảo rằng đây là lựa chọn của mẹ cậu ấy – bác Phạm Mã Lệ.
“Cái này... cậu phải biết, tớ là con của Chúa.” Phạm Thư Văn nghẹn ngào, không nỡ chào tạm biệt tôi.
Bạn ấy tặng tôi một chiếc khăn tay bằng tơ tằm, bên trên thêu một bụi hoa hồng màu hồng phấn. Tôi tặng cho bạn ấy một chiếc kim cài áo Cảnh Thái Lam19 mua ở tiệm đồ cũ trên phố Thiểm Tây, không đáng bao nhiêu tiền. Năm đó, giá gạo tăng cao, đồng tiền bị phá giá, rất nhiều gia đình dựa vào việc bán đồ dùng cũ để duy trì cuộc sống, dạo quanh chợ phiên một vòng, đâu đâu cũng có những bức vẽ tỏa ra mùi nấm mốc, đồ cổ, đồ da, còn có cả những món châu báu thật đẹp, đều là những món đồ đã mất đi giá trị khi xưa.
18. Tên tiếng Anh là “Flight of the Bumblebee”, là một trích đoạn trong vở kịch opera "Câu chuyện về vua Saltan" (The Tale of Tsar Saltan) được Rimsky- Korsakov sáng tác năm 1889 nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của đại thi hào Aleksandr Pushkin.
19. Cảnh Thái Lam, còn được gọi là “Đồng thai cáp ti pháp lang”, là một loại đồ vật được tạo nên bằng cách hàn các hoa văn được làm từ sợi đồng dẹt mềm lên trên mẫu vật bằng đồng, sau đó phủ men màu phía trong hoa văn rồi tiến hành nung. Do thịnh hành vào năm Cảnh Thái đời Minh và sử dụng men màu xanh lam là chủ yếu, vì vậy mới có tên gọi là “Cảnh Thái Lam”.
Thật ra, cách từ biệt của chúng tôi là một nghi thức, vào độ tuổi đó, tôi vô cùng thích những chuyện mang lại cảm giác nghi thức. Thật ra thì nhà chúng tôi vẫn ở Lựu Viên, lúc nghỉ lễ, hai đứa vẫn có thể bám dính lấy nhau tám chuyện và quậy phá như khi trước.
Nói ra thì trường học của tôi cách Lựu Viên chưa đến ba dặm đường, với đôi chân dài lêu nghêu của mình, chưa đầy hai mươi phút là đi đến nơi rồi. Thế nhưng, cha vẫn bắt tôi phải ở nội trú. Một là Tiểu Tố đã lớn, không thể nằm chung cùng một giường với cha mẹ nữa, bắt buộc phải chuyển đến ở phòng của tôi và chị Thư Nhã. Hai là cha cảm thấy tôi hoang dã quá, từ tướng mạo đến hành vi cử chỉ đều giống con trai, nhất định phải thả tôi vào giữa đám con gái để tôi được soi sáng.
Ngày đầu tiên khai giảng điểm danh, tôi vẫn mặc bộ đồng phục Hội Hướng Đạo nam không ra nam, nữ chẳng ra nữ. Vì mẹ tôi bảo mùa hè dễ đổ mồ hôi nổi mẩn ngứa nên đã cắt tóc tôi ngắn cũn cỡn, lộ cả hai vành tai. Lúc tôi bưng chậu rửa mặt đựng đồ dùng lỉnh kỉnh kêu leng keng đẩy cửa bước vào ký túc xá, mười mấy bạn nữ đang trải giường xếp chăn đồng loạt che miệng, hét lên tiếng hét kinh hoàng và chói tai tột độ. Hóa ra, mọi người tưởng nhầm tôi là con trai.
Tôi vừa thẹn vừa giận, mãi mới chịu đựng được đến cuối tuần, về đến nhà, điều đầu tiên tôi làm là oán trách mẹ. Mẹ vội vàng an ủi, dắt tôi lên phố mua mảnh vải nhuộm Indanthren đang thịnh hành những năm đó, thức trắng đêm làm thành hai chiếc áo học sinh dài chiết eo xẻ tà.
Sáng ngày hôm sau, tôi sung sướng mặc chúng lên người, chuyện cấp bách đầu tiên tôi làm là lao lên chiếc cầu hình vòm trong khuôn viên trường Đại học Hoa Tây, soi mình dưới bóng nước. Nước hồ xanh trong dập dềnh, phản chiếu hình bóng thiếu nữ tay chân lêu nghêu, đầu nhỏ, eo thon chỉ to hơn bàn tay tôi một chút ít, mái tóc ngắn bị gió thổi dựng đứng như mào gà. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi cảm thấy bất mãn với ngoại hình của mình.
Chị Thư Nhã cũng bất mãn với tôi, bởi số tiền mẹ dùng để may hai chiếc áo cho tôi vốn là tiền chuẩn bị để làm áo bông cho cha. Chị nói bằng giọng pha lẫn chút cường điệu: “Không có áo bông dày, mùa đông này cha xuống ruộng lạnh biết bao đây.”
Tôi xấu hổ muốn chết, bộ quần áo mặc trên người như chiếc gai đâm vào da đau nhức. Thế nhưng quần áo đã may rồi không trả lại được, tôi chỉ có thể thầm nói với mình, phải cố gắng học hành để không có lỗi với cha.
Ký túc xá của trường trung học nữ sinh có tổng cộng bốn phòng, mỗi phòng có mười bảy, mười tám bạn nữ cùng ở. Bố cục của các phòng tương tự nhau: Ba dãy giường gỗ, mỗi dãy sáu giường, khoảng trống ở giữa chỉ đủ cho một người nghiêng người lách qua. Dưới chân giường có một tấm gỗ đơn giản để đặt dụng cụ tắm rửa, dưới gầm giường nhét thùng quần áo và một thùng tre đựng đồ linh tinh. Cứ cách hai lối đi treo một bóng đèn điện, dây đèn rủ xuống, cuối cùng là một cái bóng đèn ố vàng phủ đầy bụi, cũng không biết nó là 15W hay 25W nữa, tóm lại, ánh đèn cứ mờ mờ, nếu ngồi trên giường đọc sách quá lâu mắt sẽ cay sè, chảy cả nước mắt.
Bốn phòng ký túc xá lần lượt đặt tại bốn góc đông, tây, nam, bắc, bao quanh một giếng trời có diện tích bằng một gian phòng ở. Ngày nào các bạn nữ cũng đến phòng nước lấy nước về ký túc xá, rửa mặt lau người xong thì đổ “rào rào“ ra ngoài giếng trời. Cái nền gạch xanh kia cả ngày lép nhép lênh láng nước bẩn, mùa đông đóng thành băng, còn mùa hè, nó là thiên đường của muỗi và sâu. Sâu chẳng nơi nào là không ở, cái giống loài có hoa văn màu vàng xám, giấu mình từ từ nhúc nhích, dù sao nó cũng là loài vô hại, nhìn thấy nhiều rồi thì cứ xem như là không thấy. Tôi nhớ có một lần, các bạn nữ trong ký túc xá lấy cơm về định để lại một nửa làm cơm tối, còn đậy cả nắp trên khay cơm, thế mà chẳng hiểu sao có một con sâu chui vào được. Chạng vạng tối, bạn ấy gắp hai miếng cơm ăn mới phát hiện, giậm chân khóc lớn, mâm cơm “loảng xoảng“ đổ trên nền đất, chạy như bay đến giếng trời nôn. Từ lần đó, chỉ cần chúng tôi muốn giữ đồ ăn trong phòng thì phải lấy giấy báo gói thật kín kẽ thức ăn lại, bởi vì nếu nhìn thấy có con côn trùng nào bò trên thức ăn của mình, thì niềm vui được ăn sẽ tan thành bong bóng.
Tôi sợ nhất là đi tiểu vào ban đêm. Phòng vệ sinh duy nhất của trường học nằm ở một góc sân thể dục, đi từ ký túc xá của chúng tôi, trước tiên phải băng qua hành lang rộng âm u bao quanh giếng trời, hai bên hành lang gắn ngọn đèn điện tù mù như ma trơi vậy, lúc nào cũng bị gió thổi đung đưa tới lui, ánh đèn xẹt qua những cột trụ và cửa sổ, càng giống như những bóng hình lấp ló lúc sáng lúc tối, khiến người ta nghi ngờ liệu rằng có quái vật trốn bên trong hay không. Ra khỏi cổng của ký túc xá là sân thể dục trải đầy cát vàng, bên trên dựng xà kép và cầu thăng bằng. Những ngày nổi gió, gió thổi qua sân thể dục, cát vàng bay lên mù mịt, những cành dương liễu trồng xung quanh sân thể dục cứ đung đưa qua lại giống như ma quỷ đang vờn múa, khiến người ta hoảng sợ. Những ngày trăng tỏ nhưng không có gió, mặt đất bằng phẳng trăng trắng, lành lạnh, tịch mịch yên ắng, khiến người đi qua hoài nghi trước mắt mình liệu có phải khung cảnh thật sự hay không, nếu bước chân tới liệu có rơi vào cạm bẫy đáng sợ hay không. Vì thế, thông thường tôi sẽ không uống nước sau bốn giờ chiều, nếu thực sự phải đi tiểu đêm, tôi sẽ nhịn đến khi trong phòng có người khác dậy, có thể cùng đi với tôi.
Sau khi khai giảng được khoảng một tháng, buổi chiều được nghỉ học, tôi vội vội vàng vàng chạy ngay về ký túc xá đọc một quyển tiểu thuyết của nước ngoài đã được dịch. Quyển sách ố vàng này đã được chuyền tay nhau khắp phòng, mãi mới đến được tay tôi. Mà bên phòng ký túc xá đối diện vẫn còn một loạt học sinh đang xếp hàng đứng đợi nữa kìa.
Dì quản lý ký túc xá đứng ở giếng trời hắng giọng gọi tên tôi: “Hoàng Tranh Tử! Anh tới thăm này!”
Tôi gập sách lại, chạy ra cửa nhìn, là Thẩm Thiên Lộ.
“Sao lại là anh?” Tôi cảm thấy kỳ lạ.
“Sao lại không thể là anh?” Anh ấy hỏi ngược lại.
Tôi nhoẻn miệng cười, chính tôi cũng thấy câu hỏi của mình rất vô lý.
Tôi mời anh ấy vào phòng. Đầu tiên, anh ấy ló đầu vào nhìn một lượt, chắc chắn rằng trong phòng không có cô gái nào khác mới dè dặt bước vào.
Anh ấy thật sự đã cao lên nhiều, đỉnh đầu đã sắp chạm đến khung cửa ký túc xá chúng tôi rồi.
Sau khi vào phòng, anh tìm được đúng giường của tôi, đặt một gói đồ lên đầu giường. Tôi mở ra xem, bên trong là một gói bánh xốp to cỡ bàn tay, vài quả quýt vỏ xanh, một chiếc áo bông mỏng.
Anh lấy bánh xốp dúi vào tay tôi trước: “Ăn cho bõ cơn thèm đi. Anh chỉ có một xu, chỉ mua được miếng này thôi.”
Hình như anh đang xin lỗi tôi vì miếng bánh bé quá, điều này khiến tôi cảm thấy hơi cảm động.
Tôi cầm miếng bánh xốp ăn ngấu nghiến. Nói thật, từ lúc ở lại trong trường học, cảm giác đói bụng lúc nào cũng vượt lên trên hết thảy mọi thứ.
“Ôi, Tranh Tử này.” Mặt anh đầy vẻ thương hại. “Nhìn dáng ăn của em, chẳng lẽ ba trăm năm chưa được ăn cơm ư?”
Miệng tôi nhét đầy đồ ăn, chẳng buồn nói gì.
Anh nhấc chiếc áo bông lên: “Nhìn này, mẹ bảo anh mang cho em đấy. Mẹ bảo trời âm u nổi gió, không khí lạnh sắp tới rồi, sợ em bị lạnh rồi viêm họng, cứ nằng nặc bắt anh mang chiếc áo này theo.”
Xem ra, người mẹ có thể sai bảo trong nhà hiện giờ chỉ còn mình anh thôi. Năm nay, anh Khắc Tuấn học cấp ba rồi, tham gia bốn, năm đoàn hội ở trường học, còn thường xuyên đến nghe giảng ở năm trường đại học, bận đến nỗi khó mà thấy bóng dáng. Nghe nói chị Thư Nhã đang yêu, lần trước về nhà, Phạm Thư Văn mới lén lút kể tôi nghe xong. Phạm Thư Văn bảo, chính mắt bạn ấy nhìn thấy chị tôi đạp xe trên sân thể dục Đại học Hoa Tây để đi học, sau lưng là mười mấy nam sinh điên cuồng đuổi theo, ai ai cũng giành đỡ xe cho chị. Phạm Thư Văn ngưỡng mộ quá chừng: “Chị cậu giống như nữ vương vậy!”
Nếu chị Thư Nhã giống như nữ vương, tôi thắc mắc liệu chị ấy còn có thể ở cái nhà này bao lâu nữa. Anh Khắc Tuấn cũng vậy, mẹ thường nói, con giỏi quá là đang nuôi hộ người khác, ngốc một chút, thật thà một chút mới là con của mình. Mẹ không biết nhiều chữ, nhưng cứ nói đến đạo lý ở đời là bà sẽ vô cùng thấu tình đạt lý.
Tôi ngấu nghiến hết cái bánh xong thì bắt đầu lột vỏ quýt. Vừa bóc lớp vỏ mỏng dính thì nước quýt ứa ra, trong phòng lập tức tràn ngập hương vị thanh mát, chua chua mà ngòn ngọt, thơm chết đi được.
Thẩm Thiên Lộ nửa cười nửa không nhìn tôi: “Mấy bé gái các em!” Ẩn ý là mấy bé gái các em đều là quỷ háu đói.
Nể mặt anh ấy mang đồ ăn cho tôi, tôi không thèm phản bác.
Anh ấy thấy tôi chỉ tập trung vào quả quýt, bèn buồn chán nhìn đông ngó tây. Chỉ liếc mắt một cái đã nhìn ngay thấy quyển sách tôi đang đọc đặt trên bàn gỗ:“‘Người Mẹ’ của Maxim Gorky20 nước Nga ư?”
20. Maxim Gorky (1868-1936): Là một nhà văn, người đặt nền móng cho trường phái hiện thực xã hội trong văn chương và là một nhà hoạt động chính trị người Nga. Ông được xem là nhà văn kiệt xuất của nền văn học nước Nga vào thế kỷ XX.
Hồi đó, tôi chẳng mấy để tâm vào học hành, mà cứ nhắc đến tiểu thuyết là hứng khởi lắm. Tôi lấy khăn lau nước quýt đặc sánh trên đầu ngón tay, nâng quyển sách như nâng bảo bối, hỏi anh ấy đã đọc chưa, đã nghe nói đến chưa. Học sinh ở trường anh ấy đang chuyền tay nhau các tác phẩm của tác giả nước Nga, có khi còn là những tập thơ. Anh ấy từng xem qua, không hiểu lắm, đọc những dòng thơ ấy như đang đi xuống tầng vậy, cứ hai ba chữ lại xuống dòng, hai ba chữ lại xuống dòng, thật lạ lùng.
“Đó là thơ của Vladimir Mayakovsky21!” Tôi nói to: “Anh thật là ngốc!”
21. Vladimir Mayakovsky (1893-1930): Là một nhà thơ nổi tiếng người Nga, một đại diện tiêu biểu nhất của trường phái thơ vị lai của thế kỉ 20. Di sản thi ca của Mayakovsky rất đồ sộ và sự cách tân hình thức thơ của ông đã có ảnh hưởng không chỉ đến thơ ca Nga mà thơ ca cả thế giới.
Anh ấy bĩu môi, tỏ ý chấp nhận lời bình luận của tôi, ở một mức độ nào đó, anh của lúc ấy, khi đối mặt với tôi đang cả kinh sợ hãi, đã có dáng vẻ của người lớn, anh yên lặng ngồi trên giường của bạn học đối diện, chống hai tay lên mép giường, chỉ ghé nửa mông ngồi vào thôi, có lẽ anh sợ làm nhăn nhúm xộc xệch ga giường của người ta. Anh từ tốn, khẽ khàng nói chuyện cùng tôi, trong đôi mắt kia ngoài sự thích thú, dường như còn có cả sự yêu thương và nuông chiều, vừa cẩn trọng vừa lý trí.
Mới vào học có một tháng, trong trường, tôi chẳng có người bạn thân nào có thể thoải mái cùng trò chuyện như Phạm Thư Văn, mà tôi thì là một đứa lắm lời, là “con khỉ không bao giờ ngồi yên”, trong bụng chất chứa cả đống chuyện và người, ly kỳ, cổ quái. Không dễ gì mới gặp được Thẩm Thiên Lộ, tôi vội vã mồm năm miệng mười kể sạch sành sanh mọi thứ. Chuyện bài học trong trường này, chuyện cô giáo vụ trưởng uốn mái tóc tổ quạ đẹp đến lạ này, chuyện cơm khó ăn như thế nào này, ngay cả sự xấu hổ không dám đi vệ sinh vào buổi đêm cũng kể hết với anh ấy.
“Ồ, trường học của các em nghe ra cũng không tệ nhỉ.” Anh ấy gật đầu, “Trừ nhà vệ sinh ra.”
Tôi nhảy dựng lên, “Cái gì mà không tệ chứ, trường của Phạm Thư Văn cao cấp hơn trường bọn em tận mười lần đấy, anh biết không? Bữa trưa của các bạn ấy có bò bít tết! Hơn nữa, tuần nào cũng có thể tắm nước nóng!”
“Nhưng em có theo Cơ Đốc giáo đâu.” Anh chậm rãi nói.
“Đương nhiên em không theo Cơ Đốc giáo rồi.”
“Em cũng không phải là người tóc vàng, mắt xanh.”
“Đượng nhiên không phải.”
“Thế nên chuyện người ta được ăn bò bít tết, được tắm nước nóng chẳng liên quan gì đến em cả.”
Tôi lập tức hết giận, tâm trạng rơi vào đáy vực, cảm thấy nói thêm gì cũng không đúng nữa. Tôi giục anh mau mau đi đi, đợi lát nữa bạn học trở về phòng, anh là con trai ở đây không tiện. Anh bảo anh vẫn chưa đi được, chú đã dặn anh rồi, phải kiểm tra bài học của tôi, đặc biệt là môn Toán.
“Chú nói, Toán học là môn không được phép chểnh mảng nhất, chỉ cần học chậm một chút ít là sau này không thể theo kịp được nữa, sẽ mãi mãi tụt về phía sau. Trước đây, anh cũng thế.”
Đáng ghét chết mất! Cha tôi đáng ghét, Thẩm Thiên Lộ cũng thế, cứ như họ biết hôm qua bài kiểm tra Toán của tôi chỉ được có bảy mươi điểm, một lòng một dạ muốn nhìn tôi xấu mặt thì phải.
Tôi nằng nặc không cho anh xem. Tôi thoái thác nói phải đến tuần sau mới có bài kiểm tra tháng, còn bảo cảm thấy bài kiểm tra này đơn giản lắm, không có gì khó nhằn cả, nếu sau này cần tôi sẽ nhờ anh giúp đỡ.
“Có muốn em dẫn anh đi xem phòng đàn của trường em không? Về đến nhà anh cũng dễ báo cáo kết quả?”
Anh ngẩng đầu ngẫm nghĩ: “Cũng được.”
Tôi dám dẫn anh đến phòng đàn thì đương nhiên cũng khá tự tin với ngón đàn của mình. Ở bãi bồi Hoa Tây chúng tôi, trường Trung học Nữ sinh Hoa Đô vẫn luôn nổi tiếng về nét đặc sắc trong giảng dạy âm nhạc, con gái vào trường ít nhất phải tinh thông một môn nghệ thuật như thổi sáo, đàn ca. Mặc dù tôi chẳng hứng thú gì với âm nhạc, nhưng từ nhỏ đã theo bác Phạm Mã Lệ đàn piano, vẫn học được chút “võ mèo cào”, so với những bạn mới bắt đầu học khuông nhạc thì vẫn tạm gọi là xuất sắc, vì thế tôi thích nhất là người khác kiểm tra ngón đàn của tôi.
Chúng tôi sóng vai đi ra khỏi cánh cổng tròn ở sân nhỏ. Anh cao như thế, sải bước rất dài, tựa như dưới chân lắp hai cái lò xo, bật bật một cái là ra tít xa. Tôi bước nhanh hai bước, tự nhiên giơ tay kéo lấy cánh tay anh. Thế mà anh lại sửng sốt, mặt đỏ bừng bừng, chột dạ nhìn trái nhìn phải, đẩy tay tôi ra, nhỏ giọng nói: “Tranh Tử này, ôi, em đã là học sinh trung học rồi đấy.”
Học sinh trung học thì sao nào? Cho đến khi già khọm chẳng phải anh vẫn là anh Thiên Lộ của tôi đấy sao? Tôi thầm nghĩ như vậy, nhưng không nói ra. Chao ôi, con người ta lớn lên sao lại trở nên bảo thủ như vậy nhỉ? Chán thật.
Tôi rất nhanh phát hiện ra những chị học sinh lớp lớn chúng tôi gặp trên đường đều đang nhìn trộm anh ấy. Hờ, tôi có vô tâm đến mấy, có thờ ơ đến mấy vẫn có thể phát giác ra chút tâm tình của những người cùng giới. Tôi chú ý nữ sinh đang bước đi bình thường, tự nhiên ngẩng phắt lên, nhìn thấy Thẩm Thiên Lộ cao lớn đang đi tới là bất giác đứng sững lại, rồi bỗng dưng mặt ửng đỏ, hoảng hốt, tốp hai tốp ba đứng chụm đầu lại với nhau thì thầm, miệng ngậm đuôi tóc, vai cọ tới cọ lui, thình lình ngoái đầu nhìn một cái, rồi lại bỗng dưng quay lại nhìn thêm cái nữa.
A ha, hóa ra anh Thiên Lộ của tôi vẫn là một thiếu niên anh tuấn, có biết bao nữ sinh đang lòng dạ rối bời kia kìa. Nghĩ như vậy, tôi kiêu ngạo lắm, suốt đường mặt vênh lên, mắt tựa chừng như ngước lên tận trời.
Nhưng Thẩm Thiên Lộ thì xui xẻo rồi, anh là người thật thà rụt rè, bỗng chốc bị nhiều nữ sinh nhìn đến vậy khiến anh căng thẳng lắm, chỉ cụp mắt lẽo đẽo theo tôi, cứ đi mãi, biến thành vung cùng tay cùng chân từ bao giờ. Thật sự tôi không nhịn nổi nữa, cong lưng phá lên cười. Thẩm Thiên Lộ bị tôi cười đến lúng túng, nhỏ giọng nghiến răng, nghiến lợi nói: “Đồ điên nhà em!”
Hẳn là anh đã hối hận khi đồng ý đi đến phòng đàn với tôi. Một thanh niên hàng thật giá thật tự nhiên xông vào trường nữ sinh, liệu cảm giác có giống như nai con xông vào bầy thú dữ không nhỉ? Dù nói thế nào, từ đó về sau, anh cũng không bao giờ đến trường tìm tôi nữa. Mà người mẹ tôi sai đến tìm tôi chỉ có Tiểu Tố, cùng lắm là Thẩm Thiên Lộ đưa Tiểu Tố đến cổng trường tôi mà thôi.
Ngày hôm đó, đoạn đường từ ký túc xá đến phòng đàn của trường tôi tựa như dài đến lạ. Sau khi đi qua sân thể dục, băng qua dãy phòng học với mái nhà cong cong chạm trổ, vượt qua sân nhỏ âm u tĩnh mịch leo đầy hoa tử đằng tim tím, chúng tôi tiếp tục yên lặng ngang qua cửa sổ văn phòng giáo viên, mới nhìn thấy cánh cửa chạm trổ nốt nhạc của phòng đàn.
Cửa không khóa, học sinh có thể đẩy cửa ra vào bất cứ lúc nào, tập đàn là một việc được khuyến khích trong trường tôi. Tôi quen đường quen lối dẫn anh vào phòng, mở nắp đàn, đánh một nốt “đô” ở chính giữa, quay đầu hỏi anh: “Anh muốn nghe gì?”
Ở trong phòng đàn của nữ sinh, ít nhiều anh cũng cảm thấy hơi ngượng ngùng. “Khụ, hay là, đàn bài cô giáo em dạy?”
Tôi một lòng một dạ muốn trổ tài: “Vậy thì chán lắm, mới vào học, cô giáo toàn dạy ngón đàn nhập môn.”
“Cái này, anh thật sự không hiểu. Em đàn gì cũng được.”
“Không được, nhất định anh phải chọn một bài.” Tôi chơi xấu anh.
Anh lúng túng một hồi, cuối cùng nghĩ ra: “Hôm qua, anh nghe thấy Phạm Thư Văn đàn ở nhà, hay lắm, mà cũng là lạ, giống như một đám côn trùng bay tới bay lui, nghe đến nỗi anh chẳng dám thở...”
Tôi la to: “Em biết rồi, là bài ‘Vũ điệu ong dại’!”
“Hả?”
Một tay tôi đệm vài nốt trên phím đàn: “Có phải thế này không?”
Anh phấn khởi: “Đúng vậy đúng vậy! Bài này hay không? Em thấy có hay không?”
Tôi đứng dậy, lục tìm nhạc phổ của bài hát này được viết bởi nhạc sĩ người Nga Korsakov trong tủ nhạc phổ của phòng đàn. Đây vốn là một đoạn nhạc giao hưởng nhỏ trong vở ca kịch “Vua Saltan”, nói về việc con trai của vua Saltan bị kẻ gian vu khống, lưu lạc đến một hòn đảo nhỏ, sau này biến thành một chú ong dại, bay lượn nhảy múa quằn quại trước mặt vua Saltan để tấn công kẻ địch của ông ta. Bác Phạm Mã Lệ đã từng dạy tôi khúc piano này, cũng từng để Phạm Thư Văn và tôi cùng tập luyện. Theo như cách nói của bác ấy, khúc nhạc này không khó đàn, khó ở chỗ phải bắt kịp được tốc độ, nếu không đủ nhanh thì không còn là ong dại múa nữa, chỉ còn là ruồi nhặng vo ve thôi.
Thôi được, nếu đã khoác lác trước mặt Thẩm Thiên Lộ, dù thế nào tôi cũng phải khiến ong dại bay lên chứ, bằng không lại để anh ấy xem tôi là trò cười sao?
Có điều, trình độ đàn của tôi lúc ấy quả thực không thể so được với Phạm Thư Văn, vừa bắt đầu khúc khạc, miễn cưỡng đàn được một đoạn âm giai nửa cung với tốc độ không đạt tiêu chuẩn, tôi liền ngừng tay. Không còn cách nào khác, đầu ngón tay tôi căn bản không thể bay múa trên phím đàn được, đừng nói là ong dại tinh nghịch không bay lên được, đến cả cái đầu đờ đẫn của ruồi nhặng còn không ngóc lên nổi nữa mà.
Tôi yên lặng ngồi ở ghế, nhất thời ủ rũ chực khóc.
“Không có gì mà.” Thẩm Thiên Lộ giơ tay nhẹ nhàng đóng nắp đàn lại giúp tôi, “Phạm Thư Văn bốn tuổi đã học đàn, em tám tuổi mới học, không thể so sánh với được.”
Tôi thú thật với anh ấy: “Em chưa bao giờ thích đánh đàn.”
“Con người không thể thích mọi việc trên đời được.”
“Thế nhưng em vẫn phải học.”
“Vậy thì học, học rồi sẽ tiến bộ.”
“Vâng.”
Tôi lại hỏi anh ấy: “Anh sẽ không coi thường em chứ?”
Anh ngẫm nghĩ rồi nói: “Về nhà anh sẽ nói với chú, ở trường em rất cố gắng.”
“Thật sao?”
“Anh không nói dối, quả thực em đã rất cố gắng.”
Tôi trừng mắt nhìn anh ấy, không biết anh thật lòng nghĩ vậy, hay là cố ý châm biếm tôi.
“Thật đấy, nếu một người hiểu rõ mình không đủ giỏi, vậy là tiến bộ rồi.”
Tôi thả lỏng, nhe răng cười với anh.
Anh giơ tay túm lấy tóc tôi: “Đừng giận, ong dại nhỏ, rồi có ngày em sẽ bay lên từ những phím đàn này.”
Tôi nói, đó là điều đương nhiên. Tôi nói cực kỳ nghiêm túc.
Sau đó, tôi tiễn anh về. Anh bước vài bước lại quay đầu nhìn tôi, tôi hiểu ánh mắt của anh, anh tin rằng tôi sẽ làm được tất cả. Nguyên văn câu của anh là: “Rồi sẽ có một ngày...”