Cuối tuần, như thường lệ đây là ngày lũ học sinh nội trú chúng tôi trở về nhà. Chịu đựng ở cái nơi vừa chật chội, vừa cũ kỹ này cả một tuần lễ, tôi đã nóng lòng về nhà lắm rồi, về nhà nhìn xem cây thạch lựu ở Lựu Viên đã ra quả hay chưa, con gà mái của giáo sư Mai đến bao giờ mới đẻ hai quả trứng vàng như lời ông tiên đoán, liệu còn được hút thứ nước dịch ngọt như mật ong của bụi chuối tố nữ ở dưới chân tường không?
Có lần, chị Thư Nhã nhắc đến tôi trong bài tập làm văn của mình, chị viết: chiều thứ Bảy hằng tuần, nếu bạn nhìn thấy một cô gái với gương mặt đầm đìa mồ hôi, tóc tai tán loạn, chạy nhanh như những chú dê núi trên con đường đất ở bãi bồi Hoa Tây, đó nhất định là em gái của tôi.
Tôi cười nhạo chị dùng từ không đúng, bởi vì từ trường tôi chạy về đến nhà chỉ có vỏn vẹn ba dặm đường, chút thời gian này chẳng đủ cho tôi kịp toát mồ hôi.
Chị phản bác: “Em vẫn chưa hiểu à, nói quá là một biện pháp tu từ! Chẳng trách em thi môn văn kém đến thế.”
Chị ấy quá giỏi, lúc nào cũng chọc trúng vào vết thương của tôi. Tôi nguyền rủa sau này chị không tìm được bạn trai, bởi vì chẳng ai chịu được mồm mép nhanh nhạy của chị cả.
Tôi ào vào trong sân, ba chân bốn cẳng nhảy lên tầng, chạy một mạch đến hành lang, rốt cuộc cũng đứng trước cửa nhà chúng tôi rồi. Tiểu Tố luôn luôn là người đầu tiên reo hò chạy ra đón tôi. Mà tôi thì lúc nào cũng lớn tiếng hét con bé: “Đừng qua đây!”
Tiểu Tố sẽ đứng lại, tha thiết nhìn tôi cởi từng thứ một trên bộ đồng phục, cẩn thận kiểm tra từng nếp nhăn đường chỉ, xem xem có con rệp nào trốn bên trong theo tôi về nhà không. Đây là quy tắc mẹ đặt ra cho tôi. Có một đợt, rệp tràn lan trong trường tôi, quản lý ký túc xá dùng bao nhiêu cách cũng không thể giết chết hết được chúng, mẹ cực kỳ sợ tôi mang những con vật nhỏ này về nhà. Lần nào mẹ cũng bắt tôi đứng ở cửa cởi quần áo từ trường về, lấy nước dội một lượt.
Rốt cuộc cũng có thể bình an bước vào nhà. Chuyện đầu tiên tôi làm là ăn, một bát bánh bột lọc hoặc là hai cái bánh bột mì. Nếu không có, pha một bát nước đường đỏ uống cũng thoải mái vô cùng. Đây là những món ăn mẹ phần cho riêng tôi, Tiểu Tố và em trai út chỉ có thể giương mắt nhìn. Mẹ thương tôi phải ở nội trú, bà luôn cảm thấy những đứa trẻ rời xa vòng tay của mẹ nhất định sẽ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm.
Ăn no uống say, tôi lau miệng, chạy xuống tầng tìm Phạm Thư Văn. Thẩm Thiên Lộ muốn nghe bài “Vũ điệu ong dại”, tôi không đàn được, trong lòng cứ thấy bức bách khó chịu, mấy ngày nay vẫn luôn canh cánh chuyện này mãi, tôi muốn nhìn xem rốt cuộc Phạm Thư Văn đã luyện tốc độ tay như thế nào.
Vừa chạy xuống dưới tầng, may mắn thế nào tôi lại nghe thấy tiếng đàn trong phòng khách nhà bác Phạm. Hình như không phải là Phạm Thư Văn, tôi đã quen với tiếng đàn của bạn ấy, mềm mại uyển chuyển thong dong, mặc dù thành thạo, thế nhưng cứ cảm thấy hời hợt như chuồn chuồn đạp nước, thiếu đi cảm xúc. Dùng cách nói của bác Phạm Mã Lệ thì chính là thiếu đi linh hồn.
Thế nhưng, nghe cũng không giống như bác Phạm Mã Lệ đang đàn. Tiếng đàn của bác ấy phải mạnh mẽ tròn trịa và sâu lắng hơn nữa. Người đang đàn này rõ ràng chưa quen tay, hòa âm cũng không chuẩn, thế nhưng mỗi nốt nhạc đều vô cùng mạnh mẽ, đến tôi cũng có thể tượng tượng ra được đôi tay đang ấn trên phím đàn đã gắng sức thế nào.
Sợ ảnh hưởng đến người đàn mà hiếm khi có dịp tôi thả nhẹ bước chân, gần như nhón chân đi ngang qua đoạn hành lang trước cửa phòng. Không ngờ tôi vừa mới ló đầu vào nhìn, Phạm Thư Văn đã tinh mắt phát hiện ra ngay: “Tranh Tử Tranh Tử, mau vào đây!”
Tôi rướn nửa người vào, mới phát hiện người đang đàn là một người lạ mặt, chàng trai ấy vừa trẻ tuổi lại vừa anh tuấn, nhiều nhất cũng chỉ hai mươi tư, hai mươi lăm tuổi, đôi mắt xanh màu bích ngọc giống như Phạm Thư Văn, mặt nhỏ, sống mũi cao, hai bên cánh mũi lốm đốm những đốm tàn nhang màu cà phê nhàn nhạt, miệng hơi rộng, khi cười lên gần như là ngoác tới tận mang tai, khiến cho hai hàm răng chỉnh tề đều tăm tắp trắng bóc như phát sáng.
Phạm Thư Văn vui vẻ kéo tôi qua: “Giới thiệu với cậu, anh họ tớ, Mã Khắc (Mike), thành viên đội Phi Hổ, vừa được nghỉ phép từ Côn Minh tới đây thăm nhà tớ.”
Cái gì? Thành viên đội Phi Hổ? Tôi ngạc nhiên đến nỗi đôi mắt sắp trợn tròn. Báo chí đã không biết bao nhiêu lần nhắc đến đội Phi Hổ của thầy Trần Nạp Đức22anh dũng chiến đấu trên không trung với trực thăng của quân Nhật, lập nên những công lao hiển hách cho cuộc kháng chiến của Trung Quốc!
22. Tên đầy đủ là Claire Lee Chennault (1893 – 1958): từng là phi công tham dự Thế chiến I. Sau chiến tranh, ông dạy lái máy bay hỗ trợ không quân Trung Quốc trong cuộc chiến tranh kháng Nhật. Người Trung Quốc yêu quý gọi phi đội tình nguyện của Chennault là đội Phi Hổ (Flying Tigers).
Vào giây phút đó, quả thật tôi đã ngốc nghếch tột độ, thế mà lại quên mất nên chào Mã Khắc dũng cảm, chỉ chăm chăm đánh giá mái tóc màu vàng, đôi mắt màu xanh, cái cằm vuông, khối cơ bắp căng chặt khiến hàng chỉ của chiếc áo lông dê cũ kỹ như sắp đứt ra, chiếc ống quần rộng và cả đôi giày da đã bị mài mòn của anh ấy. Khi ấy, tôi đã từng cho rằng đội Phi Hổ nhất định là nửa người nửa thần, ít nhất cũng phải giống như con tinh tinh với sức mạnh vô biên trong phim điện ảnh “King Kong”, chỉ cần một chưởng cũng có thể khiến cho máy bay của Nhật Bản nhỏ bé vỡ tan vỡ tác. Tôi suy xét xem cái“thần” trên người Mã Khắc nằm ở đâu, khi anh ấy phát huy sức mạnh, chỗ nào trên người anh ấy sẽ biến thành một thanh đao hoặc một thanh kiếm sắc.
Thế nhưng, Mã Khắc đã rất lịch thiệp đứng lên, đi đến trước mặt, chủ động bắt tay tôi.
“Xin chào, cô Hoàng Tranh Tử.”
Hả! Thế mà anh ấy lại biết tên tôi?
Tôi mơ màng đặt tay mình vào lòng bàn tay của anh ấy. Bàn tay này vừa to, vừa dày, trên mu bàn tay có một lớp lông tơ màu vàng rất rậm, mang lại cảm giác rất mạnh mẽ, ôm trọn bàn tay và cả cổ tay tôi như tay gấu, giống như đang nắm món đồ chơi bé tẹo, anh không dám dùng sức, có lẽ sợ sẽ bóp vỡ nó.
Thế nên anh ấy nhanh chóng buông tay tôi ra, cười híp mắt nói gì đó, vai còn khẽ nhún.
Quả thật, tôi đã quá căng thẳng, không nghe rõ anh đang nói tiếng Anh bằng khẩu âm của một vùng thôn quê nơi nước Mỹ, quê nhà của anh.
Phạm Thư Văn tinh ý nhận ra, bèn ghé vào tai tôi nói: “Anh ấy bảo đã sớm nhận ra cậu từ trong thư của tớ rồi.”
Thấy tôi ngơ ngác, cậu ấy lại nhỏ giọng bổ sung: “Lần nào tớ viết thư cho anh ấy cũng nhắc đến cậu cả.”
Tôi lập tức thầm đoán xem Phạm Thư Văn đã miêu tả tôi với anh họ bạn ấy như thế nào, liệu rằng có nói tôi là một đứa ngốc, biết trèo cây hái dâu, lặn sông mò trai, cứ thứ Bảy là mang theo một đống rệp về nhà...
Nghĩ đến đây, tôi đột nhiên nóng bừng mặt, không dám ở lại thêm một phút giây nào nữa, quay đầu ra khỏi cửa, tim đập thình thịch, thình thịch, chạy liền một mạch lên tầng.
Thẩm Thiên Lộ đang đứng ở hành lang phơi quần áo giúp mẹ tôi, những giọt nước tí ta, tí tách mang theo mùi xà phòng rơi trên nền gạch, bắn ra những bong bóng loang loáng nhỏ xíu. Tôi thở hổn hển nói với anh ấy: “Nhà Phạm Thư Văn có khách, là thành viên của đội Phi Hổ.”
“Hả?” Anh xách quần áo, dường như vẫn chưa kịp phản ứng.
“Là thật đấy, đội Phi Hổ của tướng quân Trần Nạp Đức!”
Chắc anh ấy phải trừng mắt nhìn tôi đến năm giây, đoạn vứt hết quần áo ướt vào chậu nước, nhấc chân chạy xuống tầng. Chạy đến đầu cầu thang anh ấy chợt đứng khựng lại, ngẫm nghĩ rồi chậm rì rì quay về, víu lấy lan can ngó xuống dưới. Tôi hỏi, thế này thì sao nhìn được chứ? Người ta ở trong nhà Phạm Thư Văn cơ mà. Thẩm Thiên Lộ cho hay, vậy thì phải làm sao? Anh có phải trẻ con đâu, sao có thể chạy đến đứng trước cửa nhà người ta được...
“Dễ mà.” Tôi kéo anh. “Anh đi cùng em, em dẫn anh đi.”
Anh ấy vội vã tránh sang một bên: “Không được thật, mấy đứa con gái các em có thể tán chuyện linh tinh, chứ còn bọn con trai tụi anh...” Tôi ghét anh nói cái gì mà nam với chẳng nữ, vung nắm đấm qua, mà thấy Tiểu Tố đang đứng một bên trợn mắt ngó mới dừng tay xí xóa. Nhưng nắm đấm bỏ qua được, chứ miệng thì đừng hòng, tôi dài giọng: “Thẩm Thiên Lộ, em là con sâu trong bụng anh đấy, em biết anh muốn đi gặp người ta vì anh mơ ước được vào không quân, bay lên trời đánh trận.”
Anh ấy hoảng hốt: “Sao em biết?”
“Anh thích máy bay mà, trong cặp sách của anh toàn ảnh máy bay, em nhìn thấy hết rồi.”
Anh vừa giận, vừa sợ: “Em xem trộm cặp sách của anh!”
“Thừa nhận rồi chứ gì?”
Anh ấy liếc nhìn về nhà, vội vã xua tay: “Đừng nói linh tinh, đừng để mẹ nghe thấy.”
Có điều, Thẩm Thiên Lộ đứng thủ phục ở sau lan can cầu thang rốt cuộc cũng đợi được anh hùng trong lòng của mình, vì chỉ giây lát sau, Mã Khắc đã cầm một quả cầu lông đi vào trong sân, khom người dùng cây gậy vạch ra một đường để đánh cầu lông cùng với Phạm Thư Văn. Bàn tay to kềnh đầy lông của anh ấy quả thật đáng sợ, lúc cầm quả cầu lông trong tay nhẹ nhàng như đang bắt một món đồ chơi nhỏ vậy. Còn nữa, anh ấy cởi áo khoác, chỉ mặc một chiếc áo may ô quân dụng, cơ bắp trên cánh tay nổi lên cuồn cuộn, mỗi lần anh ấy giơ tay phát cầu, những cơ bắp kia giống như những con chuột nhỏ kêu ầm ĩ “chít chít”, chạy tới chạy lui trên cánh tay anh ấy.
Thẩm Thiên Lộ bò dài trên lan can, mắt nhìn đăm đăm xuống dưới, ánh mắt anh nghiêm túc và trang trọng quá đỗi. Tôi nghĩ nếu như có thể, nhất định anh ấy sẽ nguyện ý biến mình thành quả cầu kia, lòng đầy vui sướng bay cao nhảy múa trên vợt cầu lông của Mã Khắc.
Phạm Thư Văn hoàn toàn không phải đối thủ của Mã Khắc, vừa đánh, vừa cười, vừa nói chưa đầy mười phút thì vứt cầu không đánh nữa, khom lưng thở hổn hển. Bác Phạm Mã Lệ ra sân đánh, bác Phạm đứng một bên ngậm tẩu thuốc híp mắt cười. Kỹ thuật đánh cầu của bác Phạm Mã Lệ giỏi hơn một chút, phát cầu rất chuẩn. Thế nhưng bác ấy béo, nặng nề, đứng đấy giống như cây gậy gỗ vậy, lúc đón cầu hoàn toàn không chạy nổi, đến cả người ngoài nghề như tôi mà còn nhìn ra Mã Khắc đang mớm cầu cho bác ấy, tiếc rằng bác vẫn không chịu nổi một chưởng.
Tôi chọc chọc cánh tay của Thẩm Thiên Lộ, giục giã anh: “Anh đi đi, anh chắc chắn chơi giỏi hơn Phạm Thư Văn.”
Anh lùi về phía sau, đầu lắc như trống bỏi, mặt đỏ phừng phừng.
Tôi nói: “Anh đúng là đồ nhát gan.”
Anh gật đầu, vừa tự trách lại vừa ủ rũ, đúng là buồn cười.
Ngày hôm sau là Chủ nhật, từ sáng sớm, Phạm Thư Văn đã thông báo với từng nhà, mẹ Phạm Mã Lệ của bạn ấy hôm nay mời hàng xóm liên hoan, làm một “party” kiểu Trung Quốc cho Mã Khắc.
Tin tức này khiến cho lũ trẻ trong viện chúng tôi gào thét điên cuồng. Mọi người lập tức chuẩn bị, nhà nhà cố gắng làm một món thật ra trò. Mẹ tôi làm món sủi cảo trứng, dùng hết tròn hai mươi quả trứng, còn sai anh tôi đạp xe đến chợ phiên cách xa mười dặm để mua thịt lợn. Mẹ đứng bếp, tôi và chị phụ bên cạnh, ba người bận rộn tới tận chiều, làm một mâm to xếp đầy sủi cảo vàng ươm, rồi rải thêm vài lá tỏi xanh ngắt, đúng là khiến người ta ứa cả nước miếng.
Giáo sư Mai thịt hai con gà bảo bối của bác ấy làm món gà xắt miếng kho tàu. Hai con gà này là con cháu của hai con gà cánh đỏ giống Ireland khi trước, gà mái đã có thể đẻ trứng, ngày nào trong sân nhà cũng nghe thấy tiếng “cục ta cục tác” để báo tin mừng. Tôi thật sự không hiểu sao giáo sư Mai lại nỡ xuống tay làm thịt chúng.
Bác Đào lấy ra một cái mẹt to đựng mì lạnh Tứ Xuyên, bên trong có dưa chuột thái sợi màu xanh, trứng chiên thái sợi màu vàng óng, cà rốt thái sợi màu da cam, hạt tiêu màu xanh và xốt ớt đỏ gay mắt. Vợ bác Đào là người Trùng Khánh, mì lạnh bác ấy làm ngon cực kỳ, chỉ có điều những năm đó bột mì trắng là mặt hàng quý hiếm, chẳng mấy khi bác ấy mới thể hiện một lần.
Bác Phạm Mã Lệ không biết nấu cơm, đến cả dưa muối hằng năm bác ấy còn phải tìm mẹ tôi giúp. Thế nhưng, bác ấy có cách làm được mấy loại đồ hộp kiểu Mỹ, có thịt bò này, thịt lợn này, còn cả đậu ván và mứt hoa quả, thậm chí, bác còn lấy ra hai chai rượu Whisky của nước Anh như đang làm ảo thuật vậy.
Thẩm Thiên Lộ là người tích cực và chịu khó nhất trong tất cả, từ lúc anh ấy biết được tin sẽ tổ chức liên hoan thì bắt đầu chạy từ tầng trên xuống tầng dưới. Đầu tiên là giội nước quét sân, sau thì giúp giáo sư Mai làm thịt gà, kế đó thì chạy đến từng nhà dọn bàn xếp ghế, bày một thế trận vô cùng long trọng trong viện, cuối cùng thì sắp xếp những cái bát, đôi đũa được bổ sung vào phút chót. Chị tôi chế nhạo anh: “Thẩm Thiên Lộ, anh đang giúp người ta mớm cơm mớm thức ăn đấy.”
Vầng trăng đêm hôm đó rất sáng, gió thổi nhè nhẹ rất đỗi dịu dàng, những cây hoa quế bên ngoài tường cũng tỏa hương thơm ngát. Cha tôi và giáo sư Đào uống rượu, bắt đầu thảo luận thời cuộc như thường lệ. Cha tôi khiêm tốn xin Mã Khắc chỉ dạy về vấn đề tham gia kháng chiến của Mỹ sau trận Trân Châu Cảng, Mã Khắc nhún vai, hai bàn tay mở ra, mặt đỏ tới tận mang tai, anh ấy bảo có lẽ anh ấy trả lời không tốt cho lắm. Mấy giáo sư đồng thanh bảo anh nói. Anh vô cùng khiêm tốn đứng dậy, tư thế thẳng như cán bút, rồi đột ngột cúi đầu chào. Đầu tiên chúng tôi giật nảy mình, sau đó cười ngả cười nghiêng. Thẩm Thiên Lộ ra sức nháy mắt với lũ trẻ chúng tôi, còn đá chân tôi, chê chúng tôi quá thiếu nghiêm túc. Tôi nhớ lúc đó Mã Khắc sử dụng bát đũa và các thứ khác trên mặt bàn để bố trí thế cục chiến tranh, anh ấy nói đến cái gì mà châu Âu, Đức, Roosevelt, Churchill. Khả năng tiếng Anh của tôi có hạn, quả thực là nghe không hiểu cho lắm, chỉ cảm thấy anh ấy đang khá kích động, đặc biệt là lúc nói đến trận đánh với máy bay của Nhật Bản trên chiến trường Trung Quốc thì càng thêm sinh động, nói đến đoạn cao hứng còn đứng hẳn dậy, mô phỏng các động tác lái máy bay chiến đấu.
Thẩm Thiên Lộ mê mẩn lắng nghe, hết sức chăm chú, mắt anh cứ dính chặt vào miệng của Mã Khắc, tựa chừng như muốn nuốt từng câu từng chữ vào trong bụng. Ánh mắt anh ấy tối hôm đó sáng hơn bất cứ khi nào, đến cả trán, chóp mũi, hàm răng đều được ánh trăng phản chiếu sáng lấp lánh, giống như được quét lớp men sứ bóng loáng màu mật ong lên vậy.
Sau bữa cơm, mọi người vẫn còn hứng thú, bắt đầu ngồi quanh bàn hát ca. Lúc đó, ca hát dường như là niềm yêu thích rộng khắp và bất tận, hát lúc buồn, lúc vui, lúc đau thương, hát bất cứ lúc nào. Mấy giáo sư hát từ bài “Trung Quốc nhất định vững mạnh” đến bài “Lúc uống rượu” bằng tiếng Ý với độ khó rất cao, còn cổ vũ lũ trẻ con hát bài “Hai chú hổ” và “Bài ca bán báo”. Bác Đào uống hơi nhiều, còn trèo lẳn hên bàn, hắng giọng ngâm nga một đoạn “Ode to a Nightingale” dạt dào mênh mông cảm xúc của Keats. Bác Đào tốt nghiệp từ trường Đại học Oxford của Anh quốc, giọng Anh đẹp tuyệt của bác quả thực đã khiến chúng tôi bồi hồi xúc động.
Tiệc tan, vẫn là Thẩm Thiên Lộ kéo lũ trẻ chúng tôi dọn dẹp tàn cuộc, bát đũa rửa sạch sẽ, bàn ghế khiêng trả về từng nhà, quét sân gọn gàng tinh tươm.
Xong xuôi tất cả đã là đêm muộn, tôi buồn ngủ đến nỗi loạng chà loạng choạng, nhưng Thẩm Thiên Lộ vẫn tràn đầy tinh thần như lúc trước, trước khi lên tầng còn bí mật gọi tôi qua một bên, bảo rằng muốn cho tôi xem một món đồ.
“Cho em một cơ hội, đoán trúng có thưởng.“ Anh ấy cười vô cùng đắc ý.
Tôi ngái ngủ, ngáp dài liên tục, đầu óc đặc quánh.
Anh ấy nhìn nét mặt đờ đẫn, lảo đảo của tôi thì hơi cụt hứng, móc một mảnh giấy từ túi quần, mở ra cho tôi xem một dòng chữ tiếng Anh viết ngoáy bên trên.
“Nhìn này, Mã Khắc cho anh địa chỉ của đội Phi Hổ. Anh ấy đồng ý trao đổi thư với anh.”
Tôi rốt cuộc cũng tỉnh hẳn, hét lớn, lao tới đu lên cổ anh ấy, suýt chút nữa đã đẩy anh ấy ngã chổng vó. Anh ấy cũng quên đi sự rụt rè khi trước, ôm chầm lấy eo tôi, xoay tôi quay vài vòng mới thả xuống. Anh thành tâm thành ý mời tôi: “Tranh Tử, sau này cả hai chúng ta cùng viết nhé, anh viết một bức, em viết một bức, sau đó chúng ta cùng gửi đi.”
Tôi hỏi anh ấy: “Có phải cần viết tiếng Anh thì anh ấy mới hiểu được không?”
“Đương nhiên rồi.”
“Ôi, có lẽ tiếng Anh của em viết không giỏi đâu.”
“Anh cũng không giỏi, vì thế chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau.”
Hóa ra là vậy hả, Thẩm Thiên Lộ muốn kéo tôi để tăng thêm can đảm.
Có điều, như vậy cũng tốt, tôi cũng phải chăm chỉ học tiếng Anh, dù cho chỉ là viết thư cho thành viên của đội Phi Hổ, đối với chúng tôi mà nói thì đây là một việc lớn.