Trường học tiến hành kiểm tra lần cuối cùng trước khi nghỉ đông. Hôm thi môn Ngữ văn, không may tôi ăn phải đồ bẩn nên bị tiêu chảy, trong lúc thi phải chạy ra nhà vệ sinh hai lần, làm lỡ không ít thời gian. Tôi nghĩ môn này hẳn là toi đời rồi, không thể nào qua môn được đâu. Trường học chúng tôi có quy định, đến cuối kỳ, nếu một phần ba môn học có điểm số không đạt thì học sinh phải ở lại lớp. Nếu một nửa môn học không đạt thì bị cho thôi học, dù là Nghị viên Quốc hội đến nói giúp cũng vô dụng. Từ cấp một thành tích học tập của tôi đã không nổi trội, môn Ngữ văn được xem là một trong những môn học tôi nắm chắc, nhỡ mà không đủ điểm thật thì làm trò cười cho thiên hạ mất.
Tôi nơm nớp lo sợ tận hai ngày, dù không có việc gì làm, song vẫn không dám về nhà.
Sáng ngày thứ ba, trường học dán một danh sách rất lớn có tên toàn bộ học sinh trong trường lên đầu hồi giảng đường nhỏ, đằng sau là thành tích các môn thi được viết bằng bút đỏ và bút đen. Chữ đỏ là những người bị rớt, học sinh từ xa lại gần, nếu nhìn thấy dưới tên mình nhiều chữ đỏ hơn thì không cần xem kỹ làm gì, cứ cuốn gói đi ra khỏi trường là xong.
Tôi đi theo đoàn người qua đó, bởi vì có dự cảm không lành nên tim cứ đập bình bịch bình bịch, chỉ dám ti hí mắt thành một đường kẻ để nhìn. Tôi sợ dưới tên mình có quá nhiều màu đỏ, đến lúc đó thì trong mắt hẳn sẽ giống như có một ngọn lửa nóng hừng hực bốc lên khiến tôi ngất xỉu.
Quả nhiên môn Ngữ văn đã trượt. Có điều những môn khác thì tốt ngoài dự đoán, hết thảy là chữ đen, chữ đen, chữ đen. Đến tôi cũng không ngờ môn Toán tôi lo lắng nhất lại đạt điểm số khá cao.
Giáo viên môn Ngữ văn gọi tôi đến văn phòng nói chuyện, cô ngạc nhiên vì sao tôi lại thi rớt môn này. Cô giáo là một phụ nữ hơn bốn mươi tuổi vẫn chưa kết hôn, mặt dài, chân dài, lúc đi đường vung tay vung chân như đàn ông, bím tóc cài gọn gàng trên đỉnh đầu, từ sáng sớm tới tối muộn không rối một sợi.
Cô đau lòng trách cứ tôi: “Hoàng Tranh Tử, chết mất thôi, em thi thế nào thế? Em còn là đại biểu môn học nữa đấy!”
Tôi cúi gằm đầu, ấp a ấp úng giải thích nguyên nhân thi trượt, cũng không biết do thái độ của tôi quá mức thành khẩn, hay là do cô vốn đã muốn tin như vậy, dù sao thì sắc mặt của cô cũng đã bình tĩnh đi hẳn, thậm chí còn có chút thương cảm: “Cô bé ngốc, sao em không nói sớm?”
Tôi thầm nghĩ, trước khi biết điểm tôi cũng đâu có ngờ môn Ngữ văn của mình ăn chắc lại trượt thẳng tay như thế.
“Không có lần sau đâu!” Cô lại nghiêm mặt một lần nữa: “Bằng không thì ông trời cũng chẳng cứu nổi em.”
Tôi thầm cười trộm: Ông trời chắc hẳn sẽ không giúp “đứa ngốc” như tôi rồi, tôi cũng cóc thèm cần ông ấy giúp đỡ, trượt một lần thôi chứ làm sao lại trượt lần hai nữa chứ? Xem thường Hoàng Tranh Tử tôi rồi đấy.
Tôi vui mừng phấn khởi, cầm phiếu điểm trở về nhà, bước lên tầng liền nghe thấy mẹ và chị đang cãi nhau. Hóa ra chị tôi tham gia hoạt động “Đoàn phụ nữ phục vụ chiến trường Tứ Xuyên” vào mùa hè, họ sẽ xuất phát từ Thành Đô, men theo quốc lộ Thiểm Xuyên đi đến huyện, nơi đó có một bệnh viện dã chiến chuyên thu nhận những người bị thương cần cấp cứu từ tiền tuyến đưa về, đoàn phục vụ cần phải đến thăm hỏi bệnh viện dã chiến ấy, trên đường còn phải làm “máy gieo mầm”, tuyên truyền kháng Nhật, vận động giáo dục người dân.
Mẹ vừa băm dao lên thớt gỗ cành cạch vừa mắng chị tôi: “Con đúng thật là ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng, làm xằng làm bậy. Đoàn phục vụ người ta toàn nhận sinh viên đại học, con mới học trung học, bé bằng cái hạt đậu, đi phá rối làm gì?”
Chị đứng cách một cái bàn, đáp lời: “Hạt đậu gì chứ? Tranh Tử và Tiểu Tố mới là hạt đậu mẹ nhé! Con đã là học sinh trung học rồi! Con mười bảy tuổi rồi!”
“Trung học cũng vẫn còn nhỏ.”“Được, vậy mẹ nói đi, quân Nhật đánh người Trung Quốc, có phải chỉ đánh sinh viên đại học chứ không đánh học sinh trung học không?”
“...”
“Chính phủ kêu gọi toàn dân kháng chiến, cha nói với mẹ chưa? Anh nói với mẹ chưa?”
“...”
“Mẹ đã nghe chưa, toàn dân, chính là toàn thể nhân dân, đó, mẹ hiểu không? Trung học, đại học, ai cũng có trách nhiệm, ai dám ngăn cản kháng chiến, người đó là kẻ địch của nhân dân.”
Mẹ thất bại thảm hại. Miệng lưỡi của chị ấy mà, nếu không để chị ra ngoài tuyên truyền mới là thiệt thòi cho chị ấy.
Tôi cũng muốn theo chị ra ngoài trải nghiệm. Tôi hỏi chị, đoàn nữ phục vụ có nhận học sinh cấp hai không? Chị cười xấu xa hỏi tôi bao nhiêu tuổi, tôi nói chị biết mà, hết năm nay em mười hai tuổi rồi. Chị nhếch môi cười: “Thành viên nhỏ tuổi nhất trong đoàn chị là mười lăm tuổi. Em xem người ta liệu có nhận em không?”
Không nhận thì không nhận, mắc gì còn phải nói móc tôi? Từ tận đáy lòng quả thật tôi tức giận không thôi. Sau đó, nhân lúc chị thu dọn hành lý, tôi đã lấy trộm chiếc hộp dầu sò chị giấu trong tất ra nhét dưới đệm. Tôi nghĩ trời lạnh như vậy, gió ở vùng quê lại rét căm căm, nếu không có hộp dầu sò này, da chị không nứt nẻ như mứt hồng mới lạ đấy.
Chị hăm hở đi khỏi nhà. Hai ngày đầu tiên, mẹ vẫn còn cằn nhằn, trách cha không ra mặt can ngăn, để con gái muốn đi là đi, dần dà mẹ không nhắc đến nữa. Nói thật, con cái trong nhà nhiều đến thế, cứ việc này nối tiếp việc kia làm mãi không xuể, mẹ cũng chẳng có sức, cũng chẳng thể che chở từng đứa dưới đôi cánh của mình được.
Một ngày sau, Phạm Thư Văn mặc một chiếc áo bông vải hoa nhí kiểu dáng Trung Quốc vui mắt chạy lên tầng tìm tôi. “Tranh Tử, này này, có trò này hay lắm, tớ đăng ký giúp cậu rồi.”
“Hả?” Tôi bỏ chiếc máy bay giấy đang gấp cho em trai xuống.
“Cậu đã từng nghe nói đến Đoàn cứu trợ và tiếp viện kháng chiến Hoa Tây chưa? Cậu tham gia không, hai chúng mình cùng đi đi.”
Tôi thật sự không nghĩ còn có đoàn thể xã hội chấp nhận độ tuổi của tôi tham gia, xúc động quá đỗi, suýt nữa là lệ nóng tràn mi. Đợi đến lúc đi mới phát hiện, hóa ra tất cả thành viên đều là nữ sinh trong trường Giáo hội của Phạm Thư Văn, họ hòa nhã thì có hòa nhã đấy, thế nhưng động một tí là kêu Chúa Jesus, động một tí là đọc kinh cầu nguyện, làm tôi chịu không nổi.
Tôi oán trách Phạm Thư Văn không nói rõ với tôi từ trước: “Sao toàn là người theo đạo của các cậu thế!”
Phạm Thư Văn lại rất vô tư: “Cậu quan tâm người khác làm gì, dù sao cũng là làm vì kháng chiến.”
Cũng không sai, đứa trẻ không hiểu gì như tôi nào có tư cách soi mói đội viên cùng làm việc chứ?
Mỗi buổi chiều, chúng tôi tập hợp trong giáo đường khâu áo bông quân đội, đan đế giày, làm cặp sách vải bao bố, khâu túi lương khô, túi đựng kim chỉ, tính tổ chức của Giáo hội rất cao, phân công công việc hợp lý rõ ràng khoa học: người xếp dây thừng, người chuyên may cắt, người trải bông vải, người vắt sổ, người lại đơm cúc, người nào việc nấy, không loạn chút nào. Trong phòng thậm chí còn có một cái máy khâu, nhét tấm vải vào đấy, hai chân đạp một cái, lộc cà lộc cộc, lúc chui ra đã là một cái tay áo, tôi nhìn mà mắt mũi trợn tròn.
Về nhà kể với mẹ, bà cũng bảo chưa nhìn thấy cái này bao giờ, còn hỏi tôi cái thứ đồ bằng sắt đó có dễ dùng không? Tôi vỗ ngực đảm bảo với mẹ, nhất định sẽ dẫn mẹ đến giáo đường để mở mang kiến thức một phen.
Tôi sắt son thề thốt với Phạm Thư Văn rằng nhất định sẽ học được kỹ thuật đạp bàn máy khâu, bạn ấy chỉ cười không nói gì, rõ ràng là không muốn đả kích lòng nhiệt tình của tôi. Cứ có thời gian, tôi sẽ đi lòng vòng xung quanh máy khâu xem người ta xỏ chỉ thế nào, kéo vải ra sao, có lần Sơ đạp máy khâu ra ngoài đi vệ sinh, trong lúc máu nóng bốc lên đầu, tôi đã ngồi vào máy, giơ chân đạp mặc kệ hết thảy. “Cộc” một tiếng, kim gãy. Tôi sợ đến nỗi mặt mũi xám ngoét, chân đặt trên bàn đạp cứng ngắc, mãi một lúc sau cũng không động đậy nổi. May mà Sơ cũng không trách phạt tôi, chỉ là cứ lải nhải mãi: “Tiếc quá, tiếc quá, kim gãy thế này rồi phải đi đâu mua đầu kim đây?”
Lúc Thẩm Thiên Lộ viết thư cho Mã Khắc, tôi nài nỉ anh ấy kể thêm cả chuyện này, đồng thời hỏi xem người trong đội Phi Hổ có cách nào mang hộ một hộp đầu kim về đây không. Rất lâu về sau, nhà chúng tôi nhận được một gói hàng nhỏ xíu được gửi về từ Vân Nam, hóa ra là thứ đồ tôi mong muốn! Tôi mừng rỡ, chạy như bay xuống nhà Phạm Thư Văn, nhờ bạn ấy mang sang cho Sơ bên Giáo hội.
Học vận hành máy khâu không thành, tôi bị phân sang học thêu với Phạm Thư Văn. Lúc đó, mọi người đang rộ lên trào lưu thêu chữ lên những bộ quần áo tặng cho tiền tuyến để bày tỏ tình cảm nơi hậu phương, như là “anh dũng giết địch” này, “muôn đời yêu nước” này. Người phụ trách khắc chữ của đoàn nói, các cô gái tinh mắt, đầu ngón tay linh hoạt, khâu đế giày không đủ lực tay, nhưng cầm kim thêu thì không còn gì hợp hơn.
Thế nhưng tôi không thích thêu, mới ngồi nửa tiếng, tôi đã đầu váng mắt hoa, dưới mông như mọc mụn vậy, xoay trái xoay phải cũng không yên. Chữ Phạm Thư Văn thêu ra ngay hàng thẳng lối, gọn gàng thanh tú, mà chữ của tôi thì cứ xiêu xiêu vẹo vẹo, giống như giun dế đang bò vậy.
Tổ trưởng tổ thêu cũng hết cách với tôi, chỉ còn cách phân tôi sang bên giặt ủi. Những quần áo đồ dùng đã thêu ít nhiều cũng bị nhăn nhúm không đẹp mắt, cần phải lấy bàn là là nhẹ qua mới phẳng được. Cái này lại đúng ý tôi, mỗi lần làm nóng bàn là, ấn lên bề mặt vải đã được làm ẩm, “xèo” một tiếng, hơi trắng bay lên, mùi của bông vải xộc thẳng lên đầu, thơm ơi là thơm, vừa đơn giản lại vừa nhanh gọn.
Có lần trường gom được một xấp vải hoa màu tím nhạt vừa dày lại vừa trơn mềm, đẹp ngây ngất luôn. Thế nhưng, món đồ này mà dùng để làm thành vật dụng cho chiến sĩ ngoài tiền tuyến thì không thích hợp cho lắm, mọi người nhao nhao khó xử. Tôi bèn nghĩ ra một ý tưởng, gợi ý cho mọi người làm thành những vật dụng nhỏ như túi tiền hay túi đựng tẩu hút thuốc, đem lên phố bán, tiền bán được thì dùng để mua vải bông.
Các Sơ trong Giáo hội đều khen tôi, nói đứa trẻ này thật là lanh lợi. Gần như tất cả các cô bạn khéo léo đều bắt tay vào làm ngay, người phụ trách cắt thì cắt, người phụ trách may thì may, người phụ trách thêu thì thêu, chẳng mấy ngày đã làm ra được những túi tiền và túi đựng tẩu thuốc rất đẹp.
Thế nhưng, tôi đã nhanh chóng hối hận vì cái ý kiến ngu ngốc này, bởi vì sau khi làm xong mấy món đồ đó, nhiệm vụ bán hàng rơi vào tay mấy đứa trẻ chúng tôi. Tôi này, Phạm Thư Văn này, còn có hai cô bé nhỏ hơn cả chúng tôi. Các chị theo đạo nói người ta thích trẻ con, trẻ con đứng bán thì mới bán được, người lớn thì không ổn, người lớn kêu gọi mua hàng cứu trợ họ, còn chẳng thèm để ý ấy chứ.
Còn có thể nói gì nữa chứ? Tôi tự đào hố chôn mình rồi.
Những ngày cuối và đầu năm, trời rét căm căm, ông mặt trời trắng èo ọt giống như cái bánh bột mì chưa nở, cỏ tranh trên mái nhà run run bò trên hàng ngói, chỗ bị lộ ra thì đêm đóng băng, ngày tan chảy, bùn lầy gồ ghề vô cùng. Người ra khỏi nhà đi trên đường không nhiều, có người tới người đi thì toàn là đang gánh đồ, đẩy xe, nâng chõng, cõng sọt. Câu đối đỏ bán khắp các con phố, cá muối thịt khô, bột mì cháo gạo. Bởi đang lúc chiến tranh, đất nước kiệt quệ, vật giá tăng cao, buôn bán ảm đạm, trong túi người ta cũng chẳng có dư tiền.
Bốn đứa trẻ chúng tôi trùm khăn che mặt, mặc quần áo bông dày cộm, mỗi người xách một cái làn con, đi từ phố Tây sang phố Đông chào hàng những món đồ đẹp đẽ nhưng không thực dụng. Chúng tôi cũng xấu hổ nên chẳng dám nói to, đến cả dũng khí ngẩng đầu nhìn người ta còn không có. Đôi lúc đột nhiên to gan, kéo lấy áo người ta hỏi “Có muốn cái này không ạ?”, nhưng giọng thì nhỏ như muỗi kêu. Đối phương cũng đang không bán được, tâm trạng không tốt, bị chúng tôi vô duyên vô cớ kéo lấy ắt hẳn sẽ nổi nóng, họ quay đầu liếc mắt chán ghét, hất tay, giống như đang vội vàng xua đuổi uế khí.
Lớn đến ngần này, tôi chưa bao giờ phải chịu ấm ức đến vậy.
Phạm Thư Văn còn thảm hơn, bạn ấy lên phố bán đồ cứu trợ, đồ thì không bán được, bản thân còn trở thành đối tượng bị vây quanh quan sát của rất nhiều người dân quê ít thấy sự đời, bị những người xách làn gánh đồ chỉ chỉ trỏ trỏ, xô xô đẩy đẩy. Còn có những đứa trẻ ngỗ nghịch vắt mũi chưa sạch chạy tới chạy lui cầm đất ném, la hét ầm ĩ: “Tây Dương con! Mau nhìn Tây Dương con này.”
Phạm Thư Văn cũng không bực, không biết là do đã quen bị người ta nhìn với con mắt khác, hay là do văn hóa của đạo Cơ Đốc yêu cầu con người ta phải nhẫn nhịn khoan dung. Lần thứ hai ra ngoài, bạn ấy bện mái tóc vàng lại, giấu gọn vào trong khăn trùm đầu, còn đeo một cái khẩu trang rất rộng để giấu đi làn da trắng và sống mũi cao. Có điều chúng tôi không ngờ tới là chiếc khẩu trang còn lạ lùng hơn cả gương mặt của người nước ngoài, trên cả đoạn đường, người ta cứ lũ lượt tránh né, khiến chúng tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao. Đến khi có một bà cụ tốt bụng bước lên hỏi han: “Cháu bé mắc bệnh gì thế?” thì chúng tôi mới hoảng hốt vỡ lẽ, người dân quê hiểu nhầm Phạm Thư Văn là người mắc bệnh truyền nhiễm.
Phạm Thư Văn vô cùng chán chường, tháo khẩu trang nhét vào trong rổ, khóc nức khóc nở nói: “Tranh Tử, chúng mình vẫn nên chia nhau ra mà đi, nếu không đến một cái túi tiền cậu cũng không bán được đâu.”
Thế nhưng, nếu tôi không đi cùng bạn ấy, một mình dẫn theo hai cô bé vẫn chưa thay hết răng, tôi lo cho hai cô bé ấy còn chưa xong thì nói gì đến bán hàng đây?
Sau khi về nhà, tôi và Phạm Thư Văn ngồi trong phòng khách đờ đẫn suy nghĩ, đổ hết túi tiền rồi cả túi đựng tẩu thuốc và những thứ khác trong rổ ra. Chúng tôi không dám quay về trường học báo cáo kết quả, đến một cái túi cũng không bán được, ngại quá đỗi, vả lại, cứ không đánh mà lui thế này, nghĩ cũng thấy có lỗi với các chiến sĩ ngoài tiền tuyến.
Trong căn phòng đối diện, anh tôi không ở nhà, cửa mở rộng, tôi nhìn thấy Thẩm Thiên Lộ cứ chạy ra chạy vào không biết đang bận gì. Đầu tiên, anh ấy ôm một chồng báo từ giá sách của cha tôi chạy vào, sau đó nghe thấy tiếng soạt soạt như đang mài mực, mài mực xong thì gấp giấy, rạch giấy, sau đó nữa là mùi mực mới bay ra.
Bình yên. Những chuyện như mài mực viết chữ này khiến lòng người ta tĩnh lặng thật sự.
Phạm Thư Văn thủ thỉ với tôi: “Này, anh Thẩm Thiên Lộ nhà cậu khác hẳn với anh chị cậu nhỉ?”
Tôi trả lời cậu ấy: “Cũng không nên giống, anh ấy không phải người nhà chúng tớ mà.”
Phạm Thư Văn ghé sát vào tai tôi, thậm thà thậm thụt hỏi: “Cậu có cảm thấy anh ấy cực kỳ tốt với cậu không?”
Tôi nhảy dựng lên, đẩy nhào cậu ấy lên giường. Chúng tôi lăn qua lộn lại như vậy, cười đến thở hổn hển.
Chốc lát sau, Thẩm Thiên Lộ bước tới phòng tôi, gõ cửa: “Tranh Tử, các em qua đây, cho hai đứa xem cái này.”
Tôi và Phạm Thư Văn nhất tề nhảy dựng lên, tranh nhau chạy ào tới căn phòng sát vách. Đập ngay vào mắt tôi là bốn tờ báo cực rộng trải trên đất, bên trên lần lượt viết bốn chữ, mực vẫn còn thấm nhòe: “Cứu trợ kháng chiến”. Bên cạnh vẫn còn hai tờ giấy giống như câu đối, vế trên là: Bán một túi tiền, thêm một chiếc áo; Vế dưới là: Làm một viên đạn, bắn một tên giặc.
Hóa ra, mẹ tôi không yên tâm khi thấy mấy đứa trẻ chúng tôi lên phố bán đồ cứu trợ, bèn sai Thẩm Thiên Lộ âm thầm đi theo, nhỡ xảy ra chuyện gì cũng có người chăm sóc. Thẩm Thiên Lộ theo chúng tôi hai ngày, phát hiện chúng tôi ngoài việc thất thố thì cũng chẳng bán được gì, anh ấy bèn giúp chúng tôi nghĩ ra kế sách, lấy câu đối và tấm biểu ngữ này bày thành một “bục cứu trợ”, sau đó nói rõ mục đích cứu trợ, để người dân hiểu rằng vì sao phải bỏ tiền mua túi và tẩu thuốc của chúng tôi, và những đồng tiền này sẽ được dùng vào đâu.
Anh bảo: “Bất cứ chuyện gì cũng cần phải có lý do rõ ràng thì mới có hiệu quả được.”
Chúng tôi răm rắp gật đầu, bội phục đến nỗi không thốt nên lời.
Anh bẽn lẽn gẩy đầu ngón tay lên vết mực, “Chữ viết không đẹp, gắng nhìn nhé.”
“Nào có nào có!” Chúng tôi đồng thanh khen ngợi.
Nói thật, sao trước đây tôi không phát hiện Thẩm Thiên Lộ là một người có nhiều sáng kiến vậy nhỉ? Anh ấy cứ im ắng, thế nhưng cái gì cũng để tâm, chuyện gì cũng làm đến chu toàn.
Trời đã nhá nhem tối, dù cho chúng tôi nhiệt huyết bừng bừng thì việc bán đồ cứu trợ này cũng phải đợi đến ngày mai.
Cả một đêm lòng dạ ngứa ngáy không yên, không nghĩ ra được những thứ đồ nhỏ như túi tiền và túi đựng tẩu thuốc trong làn sẽ bán được bao nhiêu tiền. Giơ ngón tay tính toán, tính mãi tính mãi rồi cũng chìm vào giấc ngủ.
Trời sáng, mẹ tới gọi chúng tôi dậy. Mở cửa ra, bầu trời buổi sớm tinh mơ xanh ngà ngà phủ lên Lựu Viên, cây lựu được khoác lên một lớp lụa trắng đẹp đẽ, con sông và cây cối xa xa mờ mờ, ảo ảo. Mẹ đoán được sự căng thẳng của chúng tôi, bảo mấy đứa đừng lo lắng, nói rằng buổi sáng có sương nhất định sẽ là một ngày đẹp trời.
Quả nhiên, đợi đến khi chúng tôi ăn xong bữa sáng, mẹ trộn xong cho chúng tôi một bát hồ dán nóng hôi hổi thì sương mù bắt đầu tan ra, mặt trời mùa đông treo trên cao, vạn vật bừng sáng, hiếm khi có một ngày ấm áp tốt lành đến vậy.
Đội ngũ nhỏ bé với tinh thần hăng hái của chúng tôi xuất phát từ Lựu Viên, đi trước là Thẩm Thiên Lộ đội trên đầu chiếc bàn trúc vuông nhỏ, đây chính là đạo cụ quan trọng để chúng tôi bày hàng. Theo sau là tôi, một tay cầm tấm biểu ngữ câu đối, một tay cầm bát hồ. Phạm Thư Văn xách chiếc làn của chúng tôi bằng cả hai tay. Sau cùng còn có thêm cái đuôi Tiểu Tố, con bé nằng nặc đòi đi, tội nghiệp đáng thương xin xỏ tôi suốt cả sáng, tôi đành đồng ý cho nó phụ trách ôm hộp giấy đựng tiền.
Thẩm Thiên Lộ vất vả đội chiếc bàn đi suốt cả quãng đường, đi chưa được bao xa cổ anh đã bắt đầu chao đảo, chúng tôi quả quyết dỡ hàng bên vệ đường, triển khai ngay tại chỗ. Đầu tiên tìm một góc tường, nhờ vóc dáng nhẹ nhàng nên tôi chịu trách nhiệm đứng trên mặt bàn quét hồ lên tường, dán từng trang giấy đã được viết sẵn chữ. Rồi nhích bàn ra một chút, dán đôi câu đối sang hai bên, xong xuôi thì đặt chiếc bàn trước tấm biểu ngữ, tôi và Phạm Thư Văn một trái, một phải phụ trách hai đầu như ông Hanh ông Cáp23. Đồ thêu trên bàn cũng được bày vô cùng nghệ thuật, túi tiền, túi đựng tẩu thuốc đặt mỗi loại một bên, xếp thành từng tầng, chồng lên thành hình tháp, thể hiện những thứ đồ này được yêu thích vô cùng và cũng cực kỳ đáng quý, ở giữa bày cái hộp đựng tiền được làm bằng giấy đỏ viền vàng, tinh xảo lung linh, mặt trời chiếu vào rọi sáng đến chói lòa, hoa cả mắt.
23. Hai thần giữ miếu trong đạo Phật.
Thẩm Thiên Lộ nói không sai, chúng tôi vừa bày ra thế này là cảm thấy trang trọng ngay, tuy là thực tế thì khác khá xa. Mọi người tấp nập bước tới đọc to hàng chữ trên đôi câu đối, tấm tắc tán thưởng. Những người bán hàng rong bắt đầu lân la hỏi giá, có vẻ như họ cảm thấy chúng đắt quá, nhưng ngẫm nghĩ sao mỗi người vẫn lấy một chiếc túi tiền hoặc một cái túi đựng tẩu thuốc màu tím nhạt, rồi để vào chiếc hộp đựng tiền vài đồng. Có vài người trẻ tuổi giống như sinh viên đại học không lấy thứ gì cả, chỉ để thẳng tờ mười đồng vào hộp, mỉm cười rồi đi mất. Còn có một người đàn ông trung niên mập mạp mặc áo khoác cầm lấy một chiếc túi đựng tẩu thuốc rồi trả hai tờ mười đồng.
Hai ngọn tháp nhỏ trên bàn thấp đi trông thấy, hình tháp dần biến mất, chỉ còn lại một gò hình chữ nhật.
Buổi trưa, từ con đường cái phía xa xa vang vọng tiếng vó ngựa lộc cà lộc cộc. Chúng tôi đồng loạt ngẩng đầu, nhìn thấy một người mặc bộ quân phục cấp tướng tá ngồi trên lưng ngựa, lưng thẳng như cán bút, một người lính công vụ đi phía trước dắt dây cương ngựa, họ đi từ phía Nam sang phía Bắc, tới trước mặt chúng tôi. Khi đi qua bục từ thiện cứu trợ, tướng quân ghìm cương ngựa, ánh mắt thoáng lướt qua đôi câu đối và tấm biểu ngữ, rồi thuận tay cầm túi tiền lên quan sát, ông gật đầu với chúng tôi tỏ ý khen ngợi.
“Các bạn nhỏ, làm không tệ đâu.” Người đó nói.
Chúng tôi khoanh tay cung kính cúi đầu, mặt đỏ tới tận mang tai.
Người đó cúi người thầm thì câu gì đó với anh lính công vụ. Anh lính ấy vội vàng mở túi công văn, cẩn thận đếm và rút ra mười tờ tiền mệnh giá lớn, rồi cung kính cúi chào chúng tôi, sau đó một tay cầm tiền, một tay rút từng tờ bỏ vào trong hộp tiền.
Lúc đó, chúng tôi ngây ra như khúc gỗ, chỉ biết mở to mắt sững sờ, chẳng ai nghĩ đến việc nói cảm ơn. Đến tận khi người tướng quân kia cầm một túi tiền mỉm cười rời đi, tiếng vó ngựa càng lúc càng xa, mất hút nơi cuối phố, Phạm Thư Văn mới hoàn hồn, hoảng sợ kêu lên: “Tranh Tử, là một trăm đồng đấy!”
Tiểu Tố cũng hoan hô theo: “Chị ơi, một trăm đồng đấy.”
Ba đứa trẻ chúng tôi “Á” một tiếng rồi bổ nhào vào nhau, vừa nhún vừa nhảy, xoay tròn từng vòng, từng vòng giống như con quay vậy.
Chuyện này đã qua được vài ngày, túi tiền và túi đựng tẩu thuốc đã bán hết, chúng tôi tiếp tục hừng hực tinh thần bước vào hoạt động từ thiện cứu trợ tiếp theo thì Thẩm Thiên Lộ đột nhiên chạy đến hỏi tôi: “Này, em có biết người hôm đó mua túi tiền của chúng ta là tướng quân nào không?”
Tôi hỏi anh ấy: “Ai thế?”
Anh ấy bảo đã tìm kiếm trên báo, có một tướng quân tên là Đặng Lập Tường gần đây từng đến Thành Đô, còn từng thuyết giảng ở hội trường đại học: “Nhất định là người đó, Đặng tướng quân, người đã từng đánh trận bảo vệ Trường Sa, anh hùng kháng chiến tiếng tăm lẫy lừng!”
Giữa ngày đông giá rét mà anh kích động đến nỗi mồ hôi lấm tấm trên đầu mũi, còn giậm chân, thở dài, giống như đã bỏ lỡ một cơ hội hiếm có để thể hiện lòng kính trọng và ngưỡng mộ đối với vị tướng quân kia.
“Tranh Tử, Tranh Tử à, đấy là Đặng tướng quân đấy!”
“Vâng vâng, là Đặng tướng quân.”
“Anh hùng kháng chiến.” Anh ấy nhắc lại.
Anh ấy cắn môi, như có điều suy nghĩ.
Tôi đột nhiên nghĩ đến một vấn đề: “Anh Thiên Lộ, anh nói xem, tướng quân mua túi tiền kia cho ai nhỉ? Vợ hay là con gái?”
Thẩm Thiên Lộ trợn tròn mắt nhìn tôi, anh có chết cũng không hiểu được tư duy của lũ con gái kỳ quái đến nhường nào, tại sao có thể biến một vấn đề vô cùng nghiêm túc trở thành một chủ đề tám chuyện tầm phào chứ. Anh ấy thở dài nhìn vào mắt tôi, như tiếc tôi mãi không trưởng thành nổi: “Hoàng Tranh Tử, đến bao giờ em mới lớn chứ?”
Nhưng tôi cảm thấy tôi đã lớn rồi mà, vô cùng giỏi giang rồi, bởi vì các dì và các chị trong đoàn cứu viện đều công nhận tôi và Phạm Thư Văn là chuyên gia bán hàng cứu trợ từ thiện, không ngừng khen chúng tôi giỏi, có đầu óc, có ý tưởng, làm việc thì chắc chắn.
Sau này, chúng tôi còn bán những chiếc hộp bút làm bằng đồng thau và vỏ đạn, những con búp bê làm từ vải bông cũ và vải vụn, những đót thuốc lá khô làm bằng rễ cây rất có tính nghệ thuật, số tiền bán được không hề nhỏ. Thậm chí, Phạm Thư Văn còn nói với tôi: “Nhìn xem, nếu hai chúng ta mở một cửa hàng nhỏ chắc chắn sẽ kiếm ra tiền.”
Có điều, tôi không muốn sau này mở cửa hàng. Cha bỏ tiền để tôi học trường nữ sinh tư thục chắc hẳn không phải để tôi lớn lên làm một thương lái buôn bán.
Kỳ nghỉ đông năm đó, chúng tôi rơi vào giai đoạn điên cuồng bán hàng cứu trợ từ thiện, muốn ngừng mà cũng không xong. Chị thì ở bên ngoài biền biệt, thực hiện những hoạt động kháng chiến cứu nước vĩ đại khác. Nghe nói đoàn cứu trợ chiến trường của các chị ấy đi từ con đường hiểm trở vắt ngang núi cao trên eo Minh Nguyệt tiến thẳng đến biên giới phía Nam của Thiểm Tây, đi qua những vùng đất hoang dã tách xa khỏi sự quản lý của đất nước, bất đồng ngôn ngữ, bất đồng phong tục, phải sống vất vả khổ cực. Trước khi vào học một ngày chị mới trở về nhà, quần áo rách rưới tả tơi, phong trần mệt mỏi. Ngày chị về đến nhà, dùng cách nói của mẹ thì đúng là giống như một con quỷ đói vừa được thả từ trong tù ra, ăn một hơi hết một bát cơm canh đầy ắp, ba cái bánh tương vừng, hai quả trứng ốp la, ăn đến tận lúc ợ cả hơi ra.
Ăn cơm xong chị nói với chúng tôi, đi chuyến này mới biết nông dân Trung Quốc khổ như thế nào, kháng chiến của nước nhà gian nan ra sao. Chị kể, chị tận mắt nhìn thấy người dân địa phương già trẻ lớn bé mặc độc chiếc quần bông qua mùa đông, trong nồi chỉ có rau dại luộc bằng nước lã. Cũng nhìn thấy những người bị thương trong bệnh viện thiếu thuốc đau đến chết đi sống lại. Chị cứ kể mãi, rồi nước mắt rơi tự lúc nào không hay, đau buồn thở dài: “Trung Quốc khổ quá, cứ chiến tranh như thế này, tương lai sẽ ra sao đây?”
Bấy giờ, anh Khắc Tuấn nhoài người ra, vỗ lên cánh tay của chị: “Yên tâm, Trung Quốc còn có thế hệ chúng ta, dù có tiếp bước hy sinh, lớp lớp ngã xuống cũng phải diệt được bọn quân Nhật.”
Sắc mặt Thẩm Thiên Lộ cũng lặng đi: “Anh Khắc Tuấn nói đúng, là người Trung Quốc, sứ mạng của chúng ta là hy sinh cho nước nhà.”
Tôi ngồi bên cạnh lắng nghe, tim đập thình thịch. Lời anh tôi và Thẩm Thiên Lộ nói cùng với nét mặt của họ sao mà quyết liệt đến vậy, khiến tôi mơ hồ cảm giác được điều gì đó chẳng lành, một điều gì đó sẽ khiến tôi kinh hồn bạt vía.
Tôi không thể nào diễn tả rõ ràng, nhưng khi ấy, một nỗi bất an thoáng qua trong tim.