Buổi chiều ngày thứ Bảy, tôi xách một gói đồ nhỏ trở về nhà như thường lệ. Trong gói đồ có vài bộ quần áo bẩn của tôi, còn cả một tập thơ tiếng Anh. Trước đây, tôi không bao giờ mang quần áo bẩn về nhà giặt, vì tôi biết mẹ rất vất vả, tôi vào cấp hai rồi cũng nên tự mình lo cho bản thân. Thế nhưng vài ngày trước, luồng không khí lạnh đột ngột kéo đến, các đường ống tự cấp nước của trường đều đóng thành băng, bác nấu bếp còn phải gánh nước từ sông về trường, những bộ quần áo bẩn mà chúng tôi thay ra không thể xử lý ngay tại trường được. Còn về tập thơ trong gói đồ, thật ra tôi đọc không hiểu đâu. Từ đơn thì hiểu, nhưng ghép lại thành câu nó cứ mơ mơ hồ hồ. Sở dĩ tôi mang nó về nhà chẳng qua là để Thẩm Thiên Lộ nhìn thấy tôi cố gắng học tiếng Anh thế nào, để có thể cùng anh ấy viết thư gửi Mã Khắc.
Sao tôi lại nghe lời Thẩm Thiên Lộ như vậy chứ? Tại sao phải cố gắng thể hiện trước mặt anh ấy chứ? Bắt đầu từ lúc nào nhỉ? Kỳ lạ quá, khi còn bé tôi đã từng ghét anh ấy lắm cơ mà.
Tháng Giêng đã qua, hương thơm mát lành của mùa xuân ngập tràn trong không khí. Trên bãi đất hoang, những cánh hoa nhài mùa đông vàng ươm nở rộ, tô điểm cho vùng đất khô cằn qua những tháng ngày giá lạnh, khiến cho tâm tình người ta cũng trở nên khoan khoái và hân hoan. Hoa nhài khoe sắc, ong dại dập dờn, những con bướm nhỏ cánh trắng cũng dập dìu, đến cả chim chóc cũng mừng vui nhảy múa, hót vang ríu ra ríu rít, thế giới thật vui tươi và náo nhiệt.
Tôi vừa đi, vừa ngắm những chú ong dại bay lượn, đột nhiên nhớ đến khúc nhạc mô phỏng theo tiếng ong dại bay kia, lòng đánh rộn ràng, giống như có thứ gì đó vừa mở ra một cánh cửa, ánh sáng tràn vào soi tỏ. Ừ nhỉ, lúc ong bay lên khác hoàn toàn với lũ bướm bay múa mà. Đôi cánh chúng dao động nhanh, động tác phải chính xác, ổn định, mạnh mẽ, tiếng đập cánh có lẽ phải quả quyết hơn nữa, giục giã hơn nữa. Nếu như dùng tiếng đàn biểu đạt, lúc đàn lên có lẽ phải thế này... phải thế này...
Tôi mải mê suy nghĩ, cuối cùng đeo gói đồ lên lưng, giơ bàn tay lên, xòe mười ngón ra, tập trung ấn lên phím đàn không khí trong tưởng tượng. Cánh tay tôi lướt về bên trái, rồi lại vút sang bên phải. Âm trầm. Hợp âm. Chạm phím nhấc tay. Khi ấn trên phím đen hình như còn phải nhanh và nhẹ hơn một chút mới được. Sao tôi lại không bắt được cái cảm giác ong dại bổ nhào xuống đốt người nhỉ?
Đột nhiên, sau lưng tôi bật ra một tiếng cười, giống như phải nín nhịn lâu lắm rồi mới thốt lên mà “phì” một tiếng, sau đó thì từng tràng từng tràng nối tiếp nhau tuôn ra, ngắn có dài có, giống như tiếng chuông đón gió, đã thổi lên rồi là không thể thu lại.
Tôi quay phắt người lại, nhìn chị đứng cách hơn mười mét đang cười ngả cười nghiêng, tôi vừa thẹn vừa giận. Tôi giận chị cứ lẳng lặng đi theo tôi lâu đến vậy, rõ rành rành là nhìn tôi làm trò cười cho thiên hạ mà còn vui mừng đến vậy. Nếu như không phải đi bên cạnh chị còn có một người con trai, nếu như không phải tay chị còn đang đặt trên vai anh ta, chắc chắn tôi sẽ xông lên đánh chị một trận.
Ôi chao ôi chao, trời ơi trời ơi, người con trai kia không phải là bạn trai của chị đấy chứ? Lẽ nào chị tôi bắt đầu yêu rồi?
Tôi quên bẵng sự chế giễu của chị mà quay sang đánh giá chàng trai kia. Đúng là đẹp trai, đến cả đứa con gái tính tình qua loa xuề xòa như tôi còn thấy anh ta đẹp trai. Anh ta không cao quá, cũng không lùn quá, mặc bộ quần áo Tôn Trung Sơn màu đen, cổ quàng chiếc khăn màu xám nhạt, vai đeo cặp sách bằng da cũ kỹ đã mềm nhũn. Làn da anh ta vàng nhạt, rõ ràng là kiểu nhợt nhạt không đủ dinh dưỡng, đôi má gầy nhom, nét mặt khoan thai điềm tĩnh, ánh mắt khi nhìn tôi mang theo sự khoan dung và hiền hậu tựa như đang nói, đừng để ý chị em, cô ấy bị điên đấy.
Tóm lại, người con trai này không phải kiểu khí khái hào hùng như anh chúng tôi, nét đẹp của anh ta khiến tôi liên tưởng đến hồ nước giữa ngày hè, xanh biếc, mát lạnh, dịu dàng, hít vào một hơi sẽ ngửi thấy hương đồng cỏ, hương lá sen và cả mùi hương của những loài thực vật thủy sinh.
Sững sờ chốc lát, tôi quay người co giò chạy, tôi phải chạy về báo cáo với mẹ mới được. Chị đứng đằng sau hét gọi tên tôi: “Tranh Tử!”, tôi cũng không thèm để ý.
Chạy một mạch lên tầng, tôi hét lên với mẹ: “Kinh khủng quá, kinh khủng quá, con nhìn thấy anh ta rồi!”
Mẹ đi ra quở trách tôi: “Kinh khủng cái gì? Hốt ha hốt hoảng. Con gái con đứa, không sửa được cái nết thô lỗ.”
Tôi chống tay vào đầu gối, khom người thở hổn hển, trong lòng có biết bao lời muốn nói mà không thể sắp xếp thành câu đơn giản dễ hiểu được.
Mẹ thương hại vỗ lưng cho tôi, vuốt tóc tôi cho gọn gàng: “Có gì cứ từ từ nói, đừng cuống.”
Tôi vừa thở hổn hà hổn hển, vừa nói: “Mẹ, mẹ có biết chị con đang yêu không?”
Mẹ nhìn tôi hồi lâu rồi phá lên cười: “Mới lớn bao nhiêu mà cũng hiểu được hai chữ tình yêu.”
“Mẹ à, chị yêu rồi, tức là phải đi theo người ta đấy.”
Mẹ híp mắt cười nói: “Hai đứa các con chẳng phải từ nhỏ đã là oan gia đối đầu sao? Chị đi rồi con không vui à?”
Mẹ đang nói gì vậy. Tôi hơi giận mẹ già rồi nên hồ đồ. Song nghĩ lại, không đúng, phản ứng của mẹ dường như chẳng ngạc nhiên chút nào, mẹ biết việc chị đang yêu rồi ư?
“Mẹ!” Tôi ấm ức kêu lên.
Mẹ giơ tay vò đầu tôi: “Tranh Tử là đứa con hiếu thảo, biết đường về nói với mẹ. Nói mẹ nghe xem, con nhìn thấy cậu chàng kia rồi à? Dáng vẻ thế nào?”
Tôi trả lời: “Cũng được, mắt đẹp.”
Mẹ tôi cười đến độ bờ vai run lên: “Rốt cuộc vẫn là một đứa trẻ.”
Đoạn mẹ hỏi tiếp: “Còn đẹp chỗ nào nữa không?”
Tôi ngẫm nghĩ: “Nho nhã điềm đạm hơn chị con.”
“Ừ, coi là một điểm.”
“Chị con đi đường còn bám lấy vai anh ta, thích anh ta lắm đấy.” “Nói linh tinh! Không được nói cho người khác nhé.”
“Đúng thật mà, mẹ không nhìn thấy lúc chị con cười đâu, mắt híp lại thành một đường chỉ ấy chứ.”
“Mẹ bảo con nói linh tinh thì là linh tinh! Không được nói ra bên ngoài, có nghe chưa?”
Thôi được, không cho nói thì không nói, dù sao tôi nhìn thấy hết rồi. Tôi nhắm mắt, tự nhớ lại hình dáng của người con trai kia một lần nữa, vẫn cảm thấy anh ta đẹp trai, rất xứng đôi với người chị xinh đẹp của tôi.
Cha nhanh chóng biết chuyện, nhưng không phải do tôi nói mà là do mẹ kể với cha. Cha khác mẹ, ông không hỏi tướng mạo, chỉ quan tâm gia thế, xuất thân, học thức của người kia. Chị bảo anh ta tên là Trình Du Sinh, là sinh viên năm nhất Viện Y Đại học Hoa Tây, hai người quen nhau trong quá trình tham gia đoàn phục vụ chiến trường dịp nghỉ đông. Chị nói tiếp, nhà anh ấy ở trên một bãi bồi phủ đầy cỏ dại nằm lân cận Thành Đô, cha kinh doanh buôn bán, trong nhà còn nuôi một đoàn ngựa thồ chuyên chạy tuyến đường từ Vân Nam đến Tứ Xuyên buôn muối và lá trà. Chị còn đặc biệt nói rõ, chiến tranh vừa nổ ra, đoàn ngựa thồ nhà họ Trình không làm lái buôn tư nhân nữa, toàn bộ người và ngựa dùng vào việc vận chuyển vật tư kháng chiến của Chính phủ, thồ súng pháo, đạn bom, vì thế mà còn nhận được cả lời khen của Chính phủ.
Cha lẳng lặng lắng nghe mà không bình luận gì, không nói “Ờ”, cũng không nói “Được”. Mẹ ra hiệu bằng ánh mắt cho chị, để chị tôi nói nhiều hơn một chút, nhưng vì chị không nhận được phản ứng từ cha, không biết cha có ý gì, nên không dám nói gì thêm nữa.
Rốt cuộc cha nghĩ gì nhỉ? Cha cảm thấy tốt hay là không đây? Nóng ruột chết đi được.
Giờ này phút này, tôi cũng có chút thương cảm với chị. Thời gian trôi qua rất nhanh, chớp mắt đã đến tiết Thanh minh, trường học cho nghỉ xuân ba ngày. Trình Du Sinh mời chị tôi đến bãi bồi nhà chơi, điều kiện hấp dẫn là có thể cưỡi ngựa trong trường ngựa.
“Làm sao bây giờ ạ?” Chị về nhà hỏi mẹ.
Mẹ giữ chặt em trai trên hành lang, cổ quấn tấm ga trải giường cũ, khom người vừa cắt tóc cho em, vừa trả lời: “Chuyện này phải xem ý của con.”
Mẹ nói vậy rõ ràng là không đồng ý rồi, nhưng mẹ không nói rõ ra mà đợi chị tự hiểu. Người lớn vẫn luôn lòng vòng ẩn ý, mệt quá.
Chị muốn đi nhưng lại không dám trái lời mẹ, bèn quay sang xin cha. Tôi vẫn tưởng cha sẽ từ chối ngay cơ, nào ngờ cha đặt quyển tạp chí thời sự đang đọc trong tay xuống, phá lệ trả lời: “Cũng được, đi xem xem, tiếp xúc với nhau nhiều chút cũng không phải chuyện xấu.”
Mẹ đứng ở hành lang nghe thấy liền sốt ruột, vừa lau kéo, vừa bước vào nhà, “Cha nó này, nào có chuyện như thế? Con gái con đứa, chưa đính hôn đã đến nhà người ta? Người khác biết được sẽ nghĩ sao?”
Cha bình tĩnh giải thích cho mẹ: “Thời đại hiện nay cần coi trọng tự do yêu đương, tự do kết hôn, hai bên có tình, nhưng phẩm chất ra sao cần sống chung mới biết được. Thư Nhã và Trình Du Sinh, một đứa học cấp ba, một đứa học đại học, đều là những người biết suy nghĩ có văn hóa, em lo chúng không học được cách kiềm chế bản thân à?”
Mẹ kiên trì: “Trước khi rời nhà lên đại học thì Thư Nhã chỉ là một đứa trẻ thôi, nó ra ngoài em không yên tâm.”
Cha ngẫm nghĩ, đưa ra một ý kiến trung hòa: “Vậy thì để Tranh Tử đi theo.”
Tôi vẫn luôn trốn trong phòng nghe lén, cha vừa thốt ra câu này, giống như quả táo rụng từ trên cây xuống, may mắn thế nào lại đụng trúng vào tôi, tôi “oa” một tiếng, lao ra ôm chặt lấy cha, thơm chụt một cái thật kêu trên đầu ông.
Chị chán ghét chau mày, trừng mắt với tôi, chị vô cùng vô cùng không muốn như thế. Tôi không thèm để ý nhé, lời của cha chị dám không nghe sao?
Buổi tối hôm ấy trước khi đi ngủ, cha gọi riêng chị sang nói chuyện. Tôi nghe được nhát gừng vài câu: ... con gái thời đại này, hôn nhân quan trọng, sự nghiệp cũng quan trọng... có thể sống chung với bạn trai, nhưng đừng vội vã định chuyện chung thân... còn một năm nữa là thi đại học...
Đối với tôi mà nói, đây đều là những chuyện quá đỗi xa vời, tôi cứ nghe rồi ngủ mất, ngủ đến nỗi chẳng biết trời đâu đất đâu.
Ngày hôm sau, Trình Du Sinh đến nhà dẫn tôi và chị đến nhà anh ta. Chúng tôi ăn xong bữa sáng rồi mới đi, chặng đường dài hai mươi, ba mươi dặm, cứ thế thong dong mà đi, mặt trời mùa xuân chiếu rạng, cả chặng đường gặp biết bao hoa thơm cỏ dại, bị ong dại đuổi đến kinh hồn bạt vía, tôi uống nước Trình Du Sinh tự mình đưa cho, lúc đi đến bãi bồi cỏ dại thì trời vẫn chưa quá trưa, chúng tôi đều cảm thấy chưa ngắm đủ phong cảnh xung quanh.
Cha của Trình Du Sinh cùng đội thồ hàng đã đi đến Đằng Xung, Vân Nam, nói là phải đón một lô vật tư quan trọng, không biết đến bao giờ mới trở về nhà. Mẹ anh ta là một người phụ nữ mập mạp khá hiền lành, mặc bộ quần áo bằng sợi bông Hương Vân, chân bó, đi đôi giày thêu, lúc bước đi lảo đà lảo đảo như con vịt. Tôi nhìn thấy dáng vẻ của bác ấy thì buồn cười lắm, chị tôi sợ tôi không biết chừng mực, ráng sức nhéo lấy tay tôi, không cho tôi cười. Lúc chúng tôi cất lời gọi bác ấy là “mẹ Trình”, bác ấy đột nhiên thẹn thùng, gò má đỏ ửng. Vẻ mặt này khiến tôi lập tức có cảm tình với bác ấy. Mẹ tôi nói rồi, người dễ đỏ mặt sẽ không xấu xa được đâu. Nếu lời của mẹ không sai thì nhỡ may chị gả đến nhà họ Trình, ít nhất cũng sẽ không bị mẹ chồng bắt nạt.
Mẹ Trình chuẩn bị cơm trưa cho chúng tôi, trong mắt tôi thì mâm cơm này cực kỳ thịnh soạn: có thịt bò xốt, cá băm tiêu, gà xào ớt, còn có các loại nấm khô nhà anh ấy mang từ Vân Nam về. Ở trên bãi bồi Hoa Tây vài năm, những bữa cơm bình thường trong nhà chúng tôi không bao giờ vượt quá hai món mặn, bữa cơm phong phú của nhà họ Trình nhất thời khiến tôi hoa cả mắt, chẳng biết nên đưa đũa vào đâu.
Cơm nước xong, mẹ Trình thương chúng tôi đi đường mệt nhọc nên để chúng tôi ngủ trưa trước. Tôi và chị nằm trên một chiếc giường lớn. Chiếc giường này chạm trổ mạ vàng, bốn góc có bốn trụ giường đẹp đẽ treo chiếc màn trắng. Trước khi lên giường phải giẫm chân lên một chiếc ghế ngựa, trên ghế ngựa đặt một cái bàn nhỏ bằng mặt đá cẩm thạch, trên bàn là một cái khay đựng trái cây bốn màu bằng gỗ lim, bên trên bày những món đồ ăn vặt như hạt óc chó, mứt táo, đậu phộng, thịt bò khô, điều này cũng khiến tôi vô cùng ngạc nhiên và mừng rỡ. Trước khi nằm lên giường, tôi vừa vắt cao chân ăn thịt bò, vừa thành thật nói với chị: “Tốt nhất chị hãy quyết định lấy anh Trình Du Sinh đi, nếu chị gả cho anh ta, sau này, ngày nào em cũng được ăn đồ ăn ngon.” Chị nghiến răng, nghiến lợi bổ nhào đến bịt miệng tôi, còn giận tôi nữa cơ: “Không lấy đấy, cho em thèm chết!”
Sau khi ngủ dậy, mỗi người lại được ăn một bát canh hạt sen nấm tuyết. Lúc bưng bát trên tay, tôi và chị đều cầm lòng không đặng đưa mắt nhìn nhau. Trình Du Sinh len lén nói với chúng tôi, nhà anh ta bình thường cũng không nỡ đâu, bởi vì chúng tôi đến làm khách nên mẹ anh gần như đã bày hết mọi thứ ra, bưng từng món ngon lên bàn, đến cả anh cũng được hưởng ké. Nói xong, anh nhìn chị tôi, nở nụ cười dịu dàng đầy tình ý.
Chuồng ngựa nhà Trình Du Sinh rất hoành tráng, to rộng, thoáng khí, từng phòng nối tiếp từng phòng, cỏ đặt một chỗ, thức ăn đặt một chỗ, máng đá gốm sứ được quét dọn sạch sẽ. Trình Du Sinh kể rằng, thời điểm trong nhà nhiều ngựa nhất là vào thời của ông nội anh, ít cũng phải đến bốn, năm mươi con, toàn là giống ngựa Sơn Đan dưới chân núi Kỳ Liên, dáng vóc vạm vỡ, thồ được nhiều hàng, có thể chạy đường dài.
Tiếc là ngày chúng tôi đến, đội ngựa đã ra khỏi nhà, chuồng ngựa trống không, thế nhưng trên thảm cỏ ngoài cửa có cột một con ngựa cái chưa trưởng thành, nó có bộ lông màu nâu đỏ, lỗ tai và đuôi thì hơi đen đen, bụng no căng tròn, ánh mặt trời chiếu xuống khiến cho thân ngựa như được quét một lớp dầu, nó đứng giữa cánh đồng hoa dại trên sườn núi, vừa mở đôi mắt ngây thơ đen lay láy nhìn chúng tôi, vừa thong dong vung đuôi, đẹp như một bức tranh.
Trình Du Sinh bảo rằng, trong nhà anh chỉ còn một con ngựa này thôi, chúng tôi cưỡi tạm nó vậy.
Anh trở về chuồng ngựa lấy một bộ đồ dùng cưỡi ngựa khảm bạc tinh xảo, vừa vuốt ve con ngựa con, vừa lắp yên ngựa lên lưng nó, cài chặt, đoạn anh tháo dây cầm trong tay, giữ vững con ngựa để chị tôi giẫm vào bàn đạp mà trèo lên. Có lẽ ngựa con chưa hề biết cảm giác bị người ta cưỡi là như thế nào, không ngừng giơ móng trước vui mừng gõ xuống đất, còn cúi đầu dụi dụi vào cánh tay Trình Du Sinh mong được yêu thương vỗ về. Một tay chị tôi đặt lên lưng ngựa, vừa nhấc chân lên thì ngựa con lập tức trốn sang bên cạnh theo phản xạ, chị tôi đạp hụt vào không khí, suýt chút nữa ngã dập đầu. Chị Thư Nhã vốn mỏng manh yếu ớt sợ đến nỗi mặt mày trắng bệch, liên tục xua tay với Trình Du Sinh: “Không được không được, ngựa nhà anh sợ người lạ, anh cưỡi trước đi.”
Trình Du Sinh hơi khó xử, nói rằng ngựa còn nhỏ, xương cốt yếu ớt, chị tôi cưỡi thì được, chứ nếu anh ta cưỡi thì sợ nó không chịu nổi, nếu làm nó bị thương, cha anh biết được, không biết sẽ đau lòng đến nhường nào.
Tôi nhanh nhảu chen lời: “Trẻ con có thể cưỡi được không ạ?”
Trình Du Sinh trả lời: “Được chứ, em dám cưỡi không?”
Đương nhiên tôi dám rồi. Trên đời này vẫn chưa có chuyện tôi không dám thử đâu. Hơn nữa, tôi cũng không cần Trình Du Sinh giúp đỡ, một tay túm lấy bờm ngựa, chân đạp lên bàn đạp, nhún một cái, thoáng chốc đã bay lên lưng ngựa, khiến cho Trình Du Sinh nhìn mà líu cả lưỡi.
Trèo lên lưng ngựa, cảm giác trong phút chốc trở nên khác hẳn, thế giới trong mắt tôi thấp đi rất nhiều, Trình Du Sinh và chị đều trở thành người tí hon dưới chân tôi, đồng cỏ bao la bát ngát vô ngần, còn đám mây trên bầu trời lại gần với tôi đến thế, gần đến nỗi dường như giơ tay lên là túm được vài bông. Tôi gấp gáp muốn quất ngựa chạy nhanh, nhưng Trình Du Sinh sống chết kéo dây cương không buông, hoảng hốt lo sợ kêu: “Em gái, em gái, em gái!”
Sau đó tôi mới biết con ngựa này là ngựa non, đây là lần đầu tiên được đeo bộ dàm trên yên, cưỡi chơi chơi thì còn được, chứ nếu như để nó chạy thật thì không biết sẽ gây ra họa lớn đến thế nào, không chừng cái mạng nhỏ của tôi cũng nằm trong tay nó luôn ấy chứ.
Trình Du Sinh cẩn thận dắt nó, chầm chậm đi dạo một vòng trên đồng cỏ, nhiều lần khuyên tôi leo xuống. Anh đảm bảo với tôi, lần sau đoàn ngựa thồ trở về sẽ mời chúng tôi tới cưỡi ngựa, cưỡi con ngựa thuần phục nhất. Tôi ghé vào lưng ngựa ngoắc tay với Trình Du Sinh, còn nói anh không được thất hứa, nếu không chị tôi sẽ không tốt với anh nữa đâu.
Trong hai ngày này, chị Thư Nhã luôn bám theo gót tôi cũng lên ngựa được ba lần, mỗi lần ngồi không quá ba phút, tôi thật sự không hiểu sao chị thích hét đến thế, còn hét rất chói tai, rất khoa trương, giống như cố ý làm nũng với Trình Du Sinh vậy. Tôi khác hẳn với chị, tôi mà lên lưng ngựa nhé, mông sẽ dính chặt lên đấy, bởi vì cảm giác trời cao đất rộng quả là quá tuyệt, tôi thật sự muốn đổi vị trí với chị tôi, chị ở lại trường nữ sinh tư thục học, còn tôi ở lại nhà Trình Du Sinh cưỡi ngựa.
Còn có một điều nữa, bãi bồi mùa xuân đẹp như tiên cảnh. Đồng cỏ non mềm mại như làn da em bé, một đầu chạy xa tít đến đường chân trời, một đầu dịu dàng lan xuống đáy cốc, dập dờn dập dờn, trải dài vô tận. Vô vàn các loài hoa thơm cỏ dại: tím này, hồng này, vàng này, xanh này mọc trên sườn núi rung rinh theo ngọn gió, gần thì có trăm hoa đua nở, xa thì có thảm cỏ xanh biếc mênh mông. Ánh mặt trời len lỏi qua khe hở của áng mây chiếu xuống, giống như hàng nghìn, hàng vạn những tia sáng vàng ươm rơi khắp đất trời. Hít hà một hơi thật sâu, phổi nở căng, ngực ưỡn lên, mùi hoa thơm ngát và đồng cỏ mát lành tràn vào khiến người ta phải hắt xì một cái. Trong mấy năm ở trên bãi bồi Hoa Tây, tôi chưa bao giờ được thấy cảnh non nước Tứ Xuyên tráng lệ và bao la đến nhường ấy.
Từ đó mãi về sau, đến tận khi chiến tranh kết thúc, tôi theo người nhà dọn về quê hương, rời xa Thành Đô, cũng chưa từng một lần trở lại bãi bồi bát ngát cỏ dại và hoa thơm ấy. Không phải Trình Du Sinh thất hứa không dẫn chúng tôi về, mà là cuộc đời này có quá nhiều biến số, còn chúng tôi đứng trước vận mệnh của bản thân mình, quả thật quá khó để nắm giữ.