Mùa xuân đương vụ bận rộn nhất, Chính phủ khẩn cấp kêu gọi sinh viên thuộc các trường đại học trên bãi bồi Hoa Tây nhập ngũ, sinh viên Đại học Kim Lăng hưởng ứng lời kêu gọi, lòng ôm nhiệt huyết tận lực, tận trung cho Tổ quốc, ít nhất một nửa số sinh viên hăng hái lên đường, đi đến chiến trường Tây Nam, nơi có tình hình chiến sự gay gắt và căng thẳng nhất.
Cha tôi đau lòng vô cùng, sau khi bất đắc dĩ phải tiễn tất thảy học sinh yêu quý của mình lên đường, ông về nhà đập bàn nổi giận với giáo sư Mai: “Đám người Chính phủ nghĩ gì thế? Sao nỡ lòng nào đưa lũ trẻ này lên tiền tuyến? Đây là mổ gà lấy trứng đấy anh! Chiến tranh có tàn khốc hơn nữa cũng có ngày kết thúc, đánh xong trận rồi, người dân Trung Quốc khắp muôn nơi phải ăn phải mặc! Phải cần Chính phủ cấp lương thực, cây bông! Lương thực, cây bông từ đâu mà có? Nông nghiệp! Nông nghiệp! Nhất định phải phát triển nông nghiệp! Quân đội trưng binh, dù có thế nào cũng không nên trưng đến sinh viên viện nông nghiệp chúng ta.”
Giáo sư Mai ngậm tẩu thuốc trong miệng, từ tốn nói: “Chiến tranh kéo dài đến ngày hôm nay đã tiêu hao quá nhiều binh lực trên chiến trường, cần phải có những người ưu tú xuất sắc tới bổ sung, đây cũng là chuyện dễ hiểu. Chiến tranh hiện nay đã dùng tới xe tăng, đại bác, máy bay, những binh sĩ không có văn hóa dần dà cần phải đào thải, không đến đại học trưng binh thì lôi đâu ra nhân tài quân sự? Thêm nữa, sinh viên của anh không phải bị bắt đi mà là tự nguyện tham chiến, nhiệt huyết báo quốc. Ông già tôi đây nếu mà trẻ thêm vài tuổi, có cơ hội, nhất định lên chiến trường xả thân vì đất nước.”
Cha tôi ngập ngừng nói: “Tôi cũng hiểu đạo lý này chứ, chẳng phải tôi đang cũng lo lắng đấy sao. Việc nước gian nan, bồi dưỡng nên mấy nhân tài này không dễ dàng gì, tương lai chúng đều là trụ cột của quốc gia, đáng tiếc quá...”
Giáo sư Mai im lặng rất lâu, rồi thở dài một hơi: “Cầu nguyện cho lũ trẻ thôi.”
Ruộng thử nghiệm của Học viện Nông nghiệp nằm trên bãi bồi Hoa Tây, diện tích không nhỏ, lúc cuối xuân đầu hạ phải diệt sâu trên lúa mạch, ươm mạ lúa nước, cấy mầm cây bông, cây cam, cây quýt mới ra được những quả bé bằng quả nho, phải bón phân làm cỏ, bắt sâu chọn giống, thụ phấn nhân tạo... quá nhiều việc đồng áng tập hợp lại một lúc mà học sinh lại ít đi, cũng không có tiền thuê người dân địa phương làm nhân công ngắn hạn, cha tôi nóng ruột cáu giận cũng là đương nhiên.
Cha chăm chú nhìn lũ trẻ trong nhà. Anh chị tôi, Thẩm Thiên Lộ, ba người này đã mười bảy, mười tám tuổi, ít nhất cũng có thể làm được một nửa sức người.“Con, con,” Cha chỉ hai anh chị tôi, “Hai đứa các con, bắt đầu từ hôm nay, một tiếng buổi sáng, hai tiếng sau khi tan học, phải xuống ruộng làm việc giúp cha.”
Thẩm Thiên Lộ nhìn chung quanh: “Chú, cháu thì sao?”
“Cháu ở lại, mẹ cũng cần giúp một tay.”
Thẩm Thiên Lộ vẫn luôn gọi mẹ tôi là “mẹ”, gọi cha tôi là “chú”. Gọi loạn lên như vậy mà người gọi, người nghe dường như cũng tập mãi thành quen. Thẩm Thiên Lộ có thể làm việc, cũng bằng lòng làm, những chuyện vặt vãnh trong nhà như: mua thức ăn, mua rơm củi, nấu nước, giặt quần áo, bế em, chúng tôi lười lắm, thế nhưng anh ấy lại vui vẻ làm. Thùng nước cao hơn một thước mà anh ấy có thể xách lên, chạy một mạch lên tầng, không làm rơi vãi một giọt nào, hình như từ một năm trước anh ấy đột nhiên cao lớn phổng phao thì bắt đầu tự tin nói nhiều hơn, tính tình cũng hoạt bát hơn, cả ngày híp mắt cười, vui vẻ theo sau mẹ tôi bận việc này việc kia, theo cách nói của vú Hình tầng dưới thì còn hiếu thuận hơn cả con đẻ.
Mỗi lần vú Hình nhìn thấy cậu thanh niên cao lớn đi sau mẹ tôi liền vô cùng ngưỡng mộ: “Bà Hoàng à, có đứa con trai này đúng là bõ công nuôi nhỉ.”
Mẹ tôi sẽ híp mắt cười trả lời: “Nhờ phúc của mọi người.”
Thẩm Thiên Lộ hơi sợ cha tôi, cha bảo anh ở nhà, anh không dám phản bác. Nhưng tôi không sợ cha, tôi cũng là học sinh trung học rồi, dựa vào cái gì mà không có việc của tôi? Tôi thử thăm dò hỏi ông, có thể để tôi đi theo tưới cây nhổ cỏ hoặc làm gì đó vào cuối tuần không. Cha tôi đánh giá cánh tay khẳng khiu như cành trúc của tôi, trả lời: “Nếu chiến tranh tiếp tục thêm ba năm nữa, sớm muộn cũng sẽ có chỗ cho con.”
Ba năm sao? Ba năm sau tôi mười lăm tuổi. Thế nhưng nếu chiến tranh đánh thêm ba năm nữa thì đất nước của tôi sẽ ra sao đây? Người thân của tôi sẽ ra sao đây? Tôi không dám nghĩ sâu.
Năm ấy, anh Khắc Tuấn học lớp mười hai, đã ra dáng một cậu thanh niên trưởng thành lắm rồi: vai rộng, eo thon, mắt to mày rậm, ánh mắt kiên định, lời nói có trọng lượng, cũng chín chắn, được thầy yêu bạn mến, đi đến đâu cũng là người khí khái phong độ. Anh xắn ống quần xuống ruộng cùng cha, làm việc đâu ra đấy, ươm mầm cấy mạ không chậm hơn người ta, ngồi xuống nhổ cỏ, đứng lên vẩy vôi, làm từng việc ra ngô ra khoai. Tôi cảm thấy trong số các anh chị em chúng tôi, thật ra, cha thích anh nhất, cũng thấy tương lai anh ấy là người có triển vọng nhất.
Thứ Bảy về nhà, tôi vòng đến bãi bồi Hoa Tây phía sau ngó anh chị làm việc. Lúa mạch đã bắt đầu trổ đòng đòng, màu vàng điểm xuyết lẫn giữa cánh đồng xanh thẳm, đó là thứ màu sắc đặc biệt trong một thời gian dài, màu sắc khiến con người ta liên tưởng đến mùa màng bội thu và bột mì trắng ngần sắp được đựng trong làn. Tôi nhìn thấy người cha cao lớn của mình đầu tiên, ông mặc bộ quần áo vải thô mà nông dân hay mặc, ống quần xắn đến bắp chân, vừa đi men theo bờ ruộng, vừa nhìn đăm đăm vào những bông trổ đòng đòng đều tăm tắp. Một tay ông cầm cái kéo lớn dài đến nửa thước, hai chiếc túi lớn ông bảo mẹ đặc biệt may thêm cho đang căng phồng, không biết đựng cái gì. Cứ chốc chốc ông lại ra khỏi bờ ruộng đi vào trong ruộng lúa, cúi đầu tỉ mỉ nhìn một bông nào đó, nắm nó trong lòng bàn tay, so sánh với bông lúa mạch xung quanh. Vào lúc này, ông rõ ràng đang cực kỳ chuyên chú, cũng cực kỳ do dự, mãi không quyết được: đầu tiên là nhìn trái nhìn phải, rồi lại lùi về sau hai bước ngắm nghía, còn nheo một mắt nhìn như thợ mộc đang nhìn thước. Tôi biết cha đang chọn giống, muốn chọn ra những bông lúa nổi trội trong ruộng lúa mạch hàng nghìn hàng vạn bông này.
Theo sau cha là chị tôi. Chị mặc áo ngắn vải xanh, đội chiếc nón chóp nhọn, dây nón buộc dưới cằm. Hình như trên nón có quét một lớp dầu trẩu, trông có vẻ vừa to lại vừa nặng, vòng eo của chị rõ là mảnh mai thướt tha, thế nào cũng không giống con gái nhà nông lao động khổ cực. Tay chị cầm một chiếc làn trúc nhỏ, trong làn cũng có đồ. Một khi cha đã chọn được cây lúa mạch giống thì sẽ lấy kéo to cẩn thận cắt đầu nhọn trên cùng, sau đó quay lại ra hiệu cho chị. Chị sẽ nhanh chóng bước lên, rút một túi giấy từ trong chiếc làn, mở ra, nhẹ nhàng bọc lên trên, miệng túi gấp lại, buộc chặt, tiếp đó rút một tấm thẻ nhỏ buộc dây, dùng bút viết vội mấy chữ, rồi treo thẻ lên thân bông lúa đó.
Có lẽ hai người làm chuyện này không phải chỉ một lần, từ mắt đến tay phối hợp vô cùng ăn ý, quả là một bức tranh hài hòa, bình đạm và đẹp đẽ.
Đi đến đầu ruộng, chị tôi mới bước lên bờ. Cha đã đi sang một mảnh ruộng khác xem giống bông mọc thế nào. Chị cởi nón xuống, tôi thấy da mặt chị bị phơi nắng đến đỏ ửng, môi tróc da khô nứt nẻ, trên mu bàn tay là những vết xước đo đỏ có nông, có sâu do đầu nhọn của lúa mạch quẹt vào, có lẽ rất ngứa nên hai tay chị cứ gãi mãi không ngừng.
“Anh Khắc Tuấn đâu rồi chị?” Tôi hỏi chị ấy.
Chị giương cằm, hất hất về phía ruộng bông vải. Tôi thấp thoáng nhìn thấy phía xa xa có vài bóng người đang ngồi, nhưng không xác định được ai mới là anh của chúng tôi.
“Chị về nhà sao? Hay là đợi anh nữa?”
“Không đợi đâu, chị đang ngứa chết đi được đây, phải về giội nước lạnh đã.”
Tôi cầm nón giúp chị, còn giành cầm lấy chiếc làn đựng thẻ giấy. Sớm chiều chung sống biết bao năm, đây là lần đầu tiên tôi cam tâm tình nguyện phục vụ chị.
Vào lúc đó, mặt trời đầu hạ đang ngả về phía Tây, màn sương chiều màu tím và màu lam ánh hồng đang di chuyển trên bầu trời. Ánh tà dương vàng rực xuyên qua lớp lớp tầng mây trải khắp mặt đất, hàng cây dương mọc ven bên bờ ruộng trở thành bức tranh sáp màu mà lũ trẻ tô vẽ bừa bãi, đủ mọi màu sắc, rực rỡ tươi đẹp khiến người ta hoa cả mắt. Trên cánh đồng hoang thoắt cái vụt qua một chú chim én mỏ vàng về nhà muộn, rồi thoắt cái xẹt qua vài cô dơi cánh đen ra chơi sớm, đến cả chuồn chuồn hai cánh mắt to cũng ra góp vui, từng đàn từng đàn là là lượn quanh, khiến tôi nhớ tới trực thăng của lũ quân Nhật một năm trước vẫn đang điên cuồng thả bom trên đầu chúng tôi.
Nếu như thế giới mãi mãi yên bình và hiền hòa đến thế này thì tốt biết bao! Cha tôi, anh chị tôi, họ sẽ có thể toàn tâm toàn ý làm việc họ yêu thích, thực hiện mong ước của mình.
Đáng tiếc, cảnh tượng ấy trên bãi bồi Hoa Tây đặc biệt đến vậy nhưng cũng chỉ là hư ảo. Năm ấy, bên ngoài bãi bồi Hoa Tây, đất trời nổi khói lửa chiến tranh, những người chết đói chất đầy đường mới là cảnh tượng thật sự của Trung Quốc.
Lúc lúa mạch sắp chín thì xảy ra chuyện lớn. Một sớm ngày nọ, cha tôi đi tuần tra trên ruộng thí nghiệm như thường lệ, lúc đặt chân lên bờ ruộng, ông suýt chút nữa đã ngất xỉu vì kinh hãi khi thấy khung cảnh trước mặt: Những giống lúa mạch cha tỉ mỉ cất công chọn ra bọc trong túi giấy, những bảo bối ông bỏ tâm huyết, công sức chăm chút hơn nửa năm, quá nửa già đã bị người ta cắt mất ngọn, trên ruộng chỉ còn lại những gốc rạ đáng thương lởm chởm cao thấp không đều, hoảng hốt lo sợ khóc lóc cầu cứu cha.
Cha tôi giậm chân co cẳng chạy về Lựu Viên, ầm ầm gõ cửa nhà giáo sư Mai, lôi bác ấy từ trên giường dậy: “Tôi phải nói sao bây giờ? Tôi phải nói sao bây giờ? Hai năm trước bông già bị người ta trộm, anh nói là chuyện tốt, cứ coi như là mở rộng giống bông tốt, còn kêu tôi đừng truy cứu. Giờ thì hay rồi, chiều quá sinh hư, lần này họ nhắm vào ruộng lúa mạch của tôi rồi, nửa già ruộng! Anh Mai à, nửa già đấy, không cánh mà bay!”
Giáo sư Mai áo quần xộc xệch, râu ria xồm xoàm, không ngừng lẩm bẩm: “Thật sao? Không thể tưởng tượng nổi, không thể tưởng tượng nổi.”
Cha tôi đi đi lại lại trong phòng như con quay, đau lòng vô cùng: “Chuyện chọn giống này cả năm mới có một lần, đã lỡ rồi là lỡ dở cả năm. Đây không phải chuyện của một mình tôi, còn là tâm huyết của sinh viên của tôi nữa, những sinh viên đã đi đến chiến trường xa xôi đấy! Mất giống rồi, có nghĩa là một năm qua chúng uổng công vô ích rồi, công cốc hết rồi! Lúc chúng từ chiến trường trở về tôi biết ăn nói sao với chúng đây? Nếu chúng rơi máu ngã xuống, chẳng phải chết không nhắm mắt sao?”
Giáo sư Mai thở dài: “Vấn đề giáo dục của nhân dân, vấn đề giáo dục...”
“Còn nữa, nếu nông dân trộm đi cũng chẳng hiểu gì về gieo trồng khoa học, qua hai năm, một trăm phần trăm những giống tốt này sẽ phát sinh dị biến, quả thực là... đau lòng quá đi mất.”
Cha tôi buồn đến nỗi cứ túm chặt tóc mình.
Buồn thì buồn, còn chuyện mất giống này cũng chẳng thể đến từng nhà từng hộ tra soát, ép họ giao ra vật chứng được.
Biện pháp cứu vãn là chọn giống vòng thứ hai, đương nhiên chất lượng cũng bị giảm xuống. Đến cả chị tôi cũng nhìn ra vấn đề này, về nhà nói với chúng tôi, những bông lúa mạch chị treo thẻ giấy lần này rõ ràng hạt không to bằng những bông lần trước.
Cha không dám lơ là cảnh giác trong lần thứ hai chọn giống nữa, ông hạ lệnh, trong những ngày trước khi thu hoạch được lúa mạch cần phái người ngày đêm canh gác.
Ban ngày thì dễ, lúc nào cũng có người đến làm cái này làm cái kia, để mắt đến ruộng lúa mạch là được. Thế nhưng trực đêm là chuyện khó, bị muỗi đốt này, không được nhắm mắt này, nói không chừng còn phải cầm gậy đánh nhau với dân làng nữa. Chuyện này cha không dám tìm học sinh, vẫn phải để con mình đi thôi. Cha đuổi chị về nhà, đổi thành Thẩm Thiên Lộ và anh Khắc Tuấn đi chung với nhau.
Ngày đầu, hai người con trai lên trận vừa khéo lại là thứ Bảy, tôi cũng ở nhà. Buổi tối sau khi họ đi, mẹ tôi không có việc gì làm, vòng đi vòng lại nhà trong nhà ngoài như đang đẩy cối xay vậy. Tôi hỏi mẹ hoảng hốt cái gì thế? Mẹ trả lời, mẹ sợ chứ sao, sợ các anh của con bị người ta đánh lén. Tôi xung phong, hay là con đi xem giúp mẹ nhé? Mẹ ngẫm nghĩ, tìm một ngọn hương bồ khô đưa cho tôi. “Đi xem cũng được, cứ nói là đưa hương bồ cho các anh hun muỗi.”
Tôi lấy giấy bọc ngọn hương bồ khô lại, còn tiện tay mang theo một hộp diêm. Vừa ra đến cửa, mẹ lại gọi tôi quay về, cầm một cái chăn mỏng, nói là đêm nhiều sương, sợ các anh nhiễm lạnh rồi đổ bệnh.
Đi ra khỏi cửa lớn Lựu Viên, bốn bề tĩnh mịch, bầu trời đầy sao. Con đường cái giống như dải dây xám trắng được vung ra thật dài và thật thẳng, mãi mới ngoặt đằng sau một căn nhà của nông dân đen sì sì, hai bên cánh đồng lũ ếch nhái đánh trống reo hò, cách xa xa có tiếng chó sủa inh ỏi, còn cả tiếng như tiếng khóc nỉ non của trẻ con trên cây cổ thụ ngoài cánh đồng, chẳng biết có phải lũ cú mèo đang tác oai tác quái không nữa. Tôi đột nhiên nhớ đến đêm thu vài năm trước, khi đấy cũng là bầu trời đầy sao như thế này, Thẩm Thiên Lộ đi cùng tôi đến phòng đàn của Đại học Nữ sinh Kim Lăng để tôi tập đàn, đi ngang qua bãi tha ma, anh ấy cầm đòn gánh trong tay bảo giúp tôi đánh ma đuổi quỷ. Chúng tôi run cầm cập suốt cả đường. Nhưng năm đó, tôi mới là học sinh tiểu học, hiện giờ thì đã là học sinh trung học rồi. Chẳng biết trên thế giới này có “ma quỷ” không nữa, người chết trở về với khói bụi, nhiều nhất là vài chục năm, vài trăm năm sau đào được nắm xương trắng. Tôi lại nghĩ đến những năm kháng chiến này, nếu như trải hài cốt của những người dân Trung Quốc đã chết đi, những chiến sĩ Trung Quốc đã hy sinh trên mặt đất, vậy phải trải biết bao vùng đất mới đủ? Còn nữa, những giống cây tốt mà cha tôi chăm chút gây trồng thật sự có thể khiến Trung Quốc trở nên vững mạnh, có thể giúp người dân có những ngày ăn no mặc ấm ư?
Cả đoạn đường tôi nghĩ ngợi miên man, đắm chìm trong những suy nghĩ vẩn vơ, thế mà lại quên đi sợ hãi.
Lúc đi đến ngôi nhà của người nông dân đang say ngủ, tôi không khỏi nghĩ đến chuyện cây giống bị trộm. Bọn trộm liệu có xuất hiện trong thôn này không nhỉ? Đêm nay liệu có tiếp tục có người đến trộm cây không? Thế mà tôi lại kỳ vọng cảnh tượng này xuất hiện: Một người đàn ông thậm thụt “kẽo kẹt” mở cánh cổng tre, lưng đeo túi vải bao bố rón ra rón rén bước ra, nhón chân nhảy vào cánh đồng thí nghiệm của cha, đúng vào lúc hắn ta nhảy xuống ruộng, người vẫn luôn bám theo sau lưng hắn là tôi hét lớn, anh tôi và Thẩm Thiên Lộ đồng thời bổ nhào lên, chúng tôi lấy dây thừng trói hắn dẫn đi gặp cha, đấy mới là chuyện hả hê vui vẻ nhất.
Nghĩ đến đây, tôi bật cười hì hì, lưng vác bọc chăn bông, tiếp tục bước đi.
Tôi nhìn thấy ánh sáng chợp tắt chợp lóe phía xa xa, dường như còn có một sợi khói sương bay tới bay lui, giống như tay áo lụa xanh của Thanh y đang vờn múa trong Kinh kịch. Dưới ánh sao trời, bên cạnh đống lửa có hai bóng người đang chụm đầu vào nhau thì thà thì thầm. Cánh đồng bao la bát ngát không có người, tiếng nói của họ có thể truyền đi rất xa, nhưng bị phân tán trong không khí mà trở nên mơ hồ.
Tôi vừa gọi tên họ, vừa chạy bình bịch tới. Bọc chăn bông tôi kẹp trong khuỷu tay lắc lư điên cuồng, vô tình tạo ra lực cản, quãng đường chưa đến hai trăm mét mà khi tôi đặt mông ngồi cạnh các anh đã thở hổn hển như con cún thè lưỡi.
“Tranh Tử à, đến bao giờ em mới đi đứng ngay ngắn được chứ!” Anh tôi vừa quở trách tôi, vừa đỡ lấy bọc chăn bông vướng víu.
“Mẹ bảo em mang đến đấy. Mẹ còn bảo em mang cả thứ này nữa.”
Tôi lấy ra ngọn hương bồ khô và hộp diêm trong túi giấy, bấy giờ mới chú ý trước mặt họ đã nổi lửa, đốt bằng thứ gì đó đen sì sì. Tôi hỏi là cái gì, anh bảo đó là vỏ trấu. Anh còn nói, vỏ trấu dùng tốt hơn ngọn hương bồ, nhiều khói, bao nhiêu muỗi cũng bị hun chết bằng hết.
“Ai bảo thế?” Tôi hơi không phục. Thật ra là chán nản vì mang ngọn hương bồ đến cũng công cốc.
Anh tôi bĩu môi với Thẩm Thiên Lộ: “Lúc nhỏ cậu ấy ở quê, mùa hè hóng gió sẽ đốt cái này.”
“Lấy từ đâu thế?”
“Trộm đấy.”
“À há, Thẩm Thiên Lộ! Các anh đến đây trông trộm mà tự mình còn đi trộm!”
Thẩm Thiên Lộ mang vẻ mặt vô tội: “Anh Khắc Tuấn trêu em đấy, sao lại mắng sang cả anh?”
Anh tôi cuống quýt xin lỗi: “Đùa thôi đùa thôi, anh bỏ năm hào mới mua được chỗ này, kìa, là nhà bên kia đấy, vỏ trấu trữ đến nửa kho củi luôn.”
Tôi không nói gì nữa, lòng có chút áy náy, rõ ràng là anh Khắc Tuấn trêu chọc tôi, sao tôi mở miệng là trách Thẩm Thiên Lộ nhỉ? Bởi vì anh ấy dễ tính? Bởi vì anh ấy sẽ tha thứ cho tôi dù có sao đi chăng nữa ư?
Lạ thật đấy, con người có biết bao suy nghĩ, lúc nó đột nhiên nhảy ra thì đến cả bản thân cũng phải giật nảy mình.
Tôi thò tay cầm cành củi nhỏ cời đống lửa, cũng là để che giấu sự thất thố vừa rồi của mình. Thế nhưng Thẩm Thiên Lộ vội ngăn lại, nói rằng anh ấy đốt vỏ trấu không phải để lửa lớn, mà là để hun muỗi, phải đè ngọn lửa xuống đốt âm ỉ, để nó chỉ bay khói chứ không bùng cháy mới tốt.
Tôi lẩm bẩm: “Chỉ có anh cái gì cũng biết.”
Thẩm Thiên Lộ không nói gì, anh tôi lại bật cười, cũng chẳng biết anh cười cái gì nữa.
Mặt tôi đỏ bừng trong đêm đen, may mà các anh không nhìn thấy.
Ngồi với họ một lúc tôi bèn trở về. Thẩm Thiên Lộ đứng dậy muốn tiễn tôi một đoạn, nhưng tôi kiên quyết từ chối.
Đêm mát rười rượi như dòng nước, nếu dừng chân cẩn thận lắng nghe, sẽ thấy tiếng hạt sương lách tách rơi trên cánh đồng. Bầu trời đầy sao đã lùi đi rất xa, ở nơi xa hơn nữa có một sợi dây trắng mơ hồ, đó là ngân hà ư? Hai bên ngân hà không có Ngưu Lang Chức Nữ đang mỏi mắt chờ mong đúng không nhỉ? Tôi nheo mắt cố gắng nhìn lên bầu trời, nhưng quả thực nhìn không rõ. Trời cao rộng lớn vời vợi, còn đôi mắt tôi lại quá đỗi nhỏ bé.