Hai tháng sau, tháng năm năm 1945, Thẩm Thiên Lộ anh dũng hy sinh.
Vào quãng thời gian đó, tất cả mọi thứ đang tiến dần theo chiều hướng tốt đẹp: Quân đội Mỹ ném bom Tokyo, Hồng quân Liên Xô chiếm lĩnh Berlin, năm mươi mốt quốc gia tham gia hội nghị Hiến chương Liên Hợp Quốc tổ chức tại San Francisco, Mỹ, vận mệnh thế giới đang đổi chiều. Tình hình chiến khu Trung Quốc cũng khiến người ta phấn khởi như vậy: Đại thắng Tương Tây, giành lại Phúc Châu, quân đội quốc gia bao vây Nam Kinh, năm sư đoàn đóng quân tại Ấn Độ và ba mươi sư đoàn quân viễn chinh hoàn thành cải cách cơ giới hóa, chuẩn bị đưa vào chiến trường.
Khi ấy, hoa lựu ở Lựu Viên đang nở rực rỡ vô ngần, từng đóa hoa đỏ rực như lửa nở rộ suốt cả ngày lẫn đêm, dường như cái cây ấy đang cháy bừng lên, đang gào thét, đang lóe lên ánh sáng chói lòa của sinh mệnh.
Mẹ tôi đứng ở lan can tầng hai ngắm nhìn cây lựu, vui mừng thì thầm: “Điềm lành đây!” Bởi bà nhớ cũng vào tầm này năm ngoái cây lựu chỉ lác đác vài bông hoa rủ, kết quả là chị tôi đi Diên An rồi bặt vô âm tín, anh tôi hy sinh tại nơi đất khách quê người.
Tiểu Tố mướt mải mồ hôi nhảy dây trên hành lang, nghe mẹ lẩm bẩm như vậy liền bĩu môi phê phán: “Đây là mê tín.”
Mẹ không hề giận con bé: “Con còn bé thì hiểu gì chứ? Từ xưa đến nay, sinh mệnh cây cỏ đều do trời định, cây cỏ tươi tốt thì mọi điều thuận lợi. Mẹ mơ thấy anh Thiên Lộ của con đấy, thằng bé gọi mẹ, bảo mẹ để dành hai quả lựu cho nó!”
Tiểu Tố dựa vào tường, ríu rít cười: “Anh Thiên Lộ là phi công đội Phi Hổ, phi công mà còn thòm thèm mấy quả lựu của mẹ ư?”
“Sao lại không chứ? Đi cùng trời cuối đất thì đồ ăn ở nhà vẫn là ngon nhất. Như mẹ thấy ấy, tháng Chín, cùng lắm là tháng Mười, khi lựu nhà ta chín mọng là Thiên Lộ có thể về rồi.”
Khi mẹ nói câu này là vừa vào tháng Năm. Tháng Năm tới, vạn vật trên bãi bồi Hoa Tây khoác lên màu xanh um tươi mát, hằng ngày, em trai chẳng hề tốn sức đã có thể ngắt đầy ắp một làn cỏ non, Phạm Thư Văn yêu cái đẹp cũng đã sớm khoác lên người những chiếc váy liền kẻ caro, bẻ cổ thắt eo xinh đẹp.
Vào tháng Năm, trên phía Bắc Hồ Bắc, thế cục giằng co giữa Trung và Nhật vẫn đang tiếp diễn. Đầu tiên, quân Nhật Bản phát động tiến công ở hai nơi là Hà Nam và Hồ Bắc, với ý đồ giành giật hai căn cứ quân sự cũ ở Nam Dương và Lão Hà Khẩu. Chiến khu thứ năm của quân đội Trung Quốc không chống lại được, liên tiếp bại lui, thương vong vô cùng nặng nề. Sau khi quân Nhật đánh chiếm được Nam Dương và Lão Hà Khẩu, quân đội Trung Quốc dồn sức làm lại, bắt đầu tổ chức phản công, từng chút một giành lại vùng đất đã mất. Từng trận chiến đấu vô cùng gian nan, cực khổ, bên nào cũng khó có được thời gian nghỉ ngơi.
Thẩm Thiên Lộ thuộc đội lính không quân, gia nhập chiến đấu, gấp rút tiếp viện cho phía Bắc Hồ Bắc, cho quân Nhật Bản một kích trí mạng.
Tiền Hỗ Sinh hy sinh trước. Anh ấy bị pháo cao xạ bắn trúng khi đang thực hiện nhiệm vụ ném bom, máy bay bùng cháy, sau khi bắn ra từ khoang lái thì không cẩn thận rơi vào trận địa của quân Nhật. Đối mặt với lũ quân Nhật bao vây xung quanh, anh ấy rút súng ngắn ung dung đối đầu, rồi để lại viên đạn cuối cùng cho bản thân.
Ngay sau đó là Thẩm Thiên Lộ, anh lái máy bay chiến đấu P47, ngày hôm đó, sau khi bay lên anh nhanh chóng chui vào đoàn máy bay quân địch, sau khi hai bên giằng co mười mấy phút, Thẩm Thiên Lộ đã dùng hết đạn mà máy bay thì trúng đạn nhiều vô kể. Anh tự biết đã hết hy vọng trở về, bèn chọn chiếc máy bay Mitsubishi A6M loại mới nhất của quân địch, sau đó điều khiển máy bay lao lên rồi đâm sầm xuống, cùng trở về cát bụi với máy bay của quân địch.
Đến tận tháng Tám, di thư và di vật của Thẩm Thiên Lộ mới được đưa về Lựu Viên, lúc đó, thiên hoàng Nhật Bản đã hạ chiếu đầu hàng.
Mẹ tôi hoàn toàn không hề chuẩn bị trước tinh thần, bà tưởng rằng giặc Nhật đầu hàng là đã thắng lợi, thắng lợi rồi thì Thẩm Thiên Lộ sẽ trở về thôi. Khi viên Thượng úy Không quân nâng di vật đứng trước mặt mẹ với tác phong chỉnh tề và gương mặt nghiêm túc, mẹ cứ nhìn mãi về phía sau người đó, hy vọng đây chỉ là Thẩm Thiên Lộ cố ý trêu mẹ, cốt để mẹ cười.
Khi ấy, Tiểu Tố và em trai đột nhiên trở nên vô cùng hiểu chuyện, hai đứa chúng cứ nơm nớp lo sợ vây quanh mẹ, không ngừng nói với mẹ: “Mẹ ơi, mẹ đừng khóc, mẹ đừng khóc mà.”
Mẹ tôi nói: “Mẹ phải khóc, không khóc thì mẹ chết mất.”
Mẹ khóc ít nhất một tháng trời. Sau đó, mắt mẹ khi nhìn mọi thứ xung quanh liền trở nên mơ hồ, trước mắt lúc nào cũng có một bóng đen dao động. Mẹ cố chấp cho rằng bóng đen đó là Thẩm Thiên Lộ, là Thẩm Thiên Lộ không nỡ rời xa mẹ nên mới biến thành bóng đen ở lại trong mắt mẹ.
Trước khi mùa đông tới, gia đình chúng tôi lên tàu trở về Nam Kinh. Khi chúng tôi đi, em trai còn chưa ra đời, khi chúng tôi về thằng bé đã sáu tuổi. Gia đình giáo sư Mai, gia đình bác Từ cùng ngồi tàu trở về với chúng tôi. Còn gia đình của Phạm Thư Văn đã vòng qua Việt Nam để về Mỹ từ trước, mang theo cả gói hành lý to đùng của Mã Khắc. Chỉ còn hài cốt của bác Đào cô đơn ở lại bãi bồi Hoa Tây này.
Chúng tôi vẫn không nhận được tin gì của chị Thư Nhã, cũng chẳng biết đến đâu tìm kiếm, nghe ngóng tin tức của chị. Có lẽ vào khoảng năm 1950, một ngày nọ, có một vị khách không mời đến gò Phó Hậu nhà chúng tôi. Dáng người anh ta nhỏ bé, mặc chiếc áo xám Tôn Trung Sơn, mắt và mũi nhỏ, chẳng nhìn ra là ba mươi hay bốn mươi tuổi nữa. Anh ta giới thiệu mình tên là Lý Thắng Lợi, đã từng là chiến hữu của chị tôi, anh ta bảo chị tôi hy sinh vào tháng cuối cùng của kháng chiến, khi Bát Lộ Quân bắt đầu phát động cuộc phản kích lớn vào quân Nhật trên Hoa Bắc. Lúc đó, chị tôi đã rời khỏi Đại học Quân sự kháng Nhật Diên An và làm việc tại bệnh viện trong quân khu Tấn Tuy, trong một lần kháng chiến, chị đi theo đội cáng cấp cứu chiến sĩ bị thương nặng, bị quân Nhật bắn trúng đầu, chết ngay tại chỗ.
Lần này, mẹ tôi không khóc nữa. Tôi cảm thấy, có lẽ bà đã sớm chuẩn bị tinh thần cho kết cục của chị tôi rồi. Từ năm 1944 đến năm 1950, sáu năm đằng đẵng không hề nhận được bất cứ một tin tức nào của chị, trái tim mẹ tôi sớm đã bị khoét hàng trăm lỗ rồi.
Bệnh gan của cha không thể khỏi hẳn, vào những năm 50, trong lúc lên lớp, có một hôm, ông đột nhiên nôn ra máu ngay tại giảng đường rồi ngất xỉu. Hệ thống cấp cứu những năm đó cực kỳ kém phát triển, sinh viên của ông vội vội vàng vàng mượn một chiếc xe ba bánh của nhà ăn để kéo ông đến bệnh viện, thời gian chậm trễ, chưa kịp lên bàn mổ ông đã qua đời. Còn mẹ tôi thì sống đến hơn bảy mươi tuổi, tiếc là gần mười năm cuối cuộc đời, mắt bà đã hoàn toàn mất đi ánh sáng, đến cả cháu trai, cháu gái trông như thế nào bà cũng không nhìn rõ nữa. Nước mắt của mẹ tôi đã ở lại trên người con trai, con gái của bà, những năm kháng chiến ấy, nhiều lần khóc ròng đã làm mắt bà lòa mất rồi.
Có lẽ là vào năm 1984, khi tôi hơn năm mươi tuổi, sắp nghỉ hưu, cuối cùng cũng góp đủ tiền mua được một cây đàn piano hiệu Châu Giang. Năm tôi bắt đầu đàn lại, vì ngượng tay nên chỉ có thể bắt đầu đàn từ Beye và Thompson giống như những đứa trẻ. Một năm sau đó, tôi có thể đứt quãng đàn lên khúc “Vũ điệu ong dại”. Đến hiện tại đã gần ba mươi năm trôi qua rồi, tôi vẫn lưu giữ khúc “Vũ điệu ong dại” ấy, tôi từng đàn trong hội liên hoan giáo viên viên chức, từng đàn trong hội giáo viên về hưu, cũng từng đàn trong đoàn hợp xướng người già của thành phố. Mỗi lần đàn lên khúc ca này, bên tai tôi lại vang lên lời nói khi đó của Thẩm Thiên Lộ, “Xem kìa, cái tên hay biết mấy, giống như có thể nhìn thấy đàn ong dại bay lên trước mắt vậy, lần sau anh về nhất định phải nghe em đàn bài này.”
Tháng Năm hằng năm, mùa hoa lựu nở rộ, ong dại lại bay lượn và nhảy múa trong nhà tôi, thế nhưng, người muốn nghe “Vũ điệu ong dại” đã không còn nữa rồi, mãi mãi không trở về nữa rồi.
Đây là câu chuyện của tôi và Thẩm Thiên Lộ.
Có lẽ các bạn sẽ hoài nghi, rằng là tám mươi năm rồi, sao tôi có thể ghi nhớ mọi chuyện rõ ràng đến thế chứ, đến cả một tiếng thở dài, một câu cười đùa cũng không hề quên?
Tôi sẽ trả lời rằng, bởi vì tôi chưa từng già đi, sinh mệnh của Thẩm Thiên Lộ đã hòa vào với cơ thể tôi, anh hai mươi tuổi, mãi mãi ở lại độ tuổi này, tươi đẹp, xán lạn, tràn đầy nhiệt huyết.