Cuối tháng Năm năm 1938, đúng vụ lúa mạch vàng ươm, dâu tằm tím lịm, hoa thạch lựu đỏ thắm trên bãi bồi Hoa Tây.
Em trai út của tôi ra đời trên bãi bồi Hoa Tây ở Thành Đô đã được bốn tháng tuổi. Bốn tháng trước, bác sĩ Phạm Duy Hán ở tầng dưới Lựu Viên lần đầu nhìn thấy cậu nhóc sơ sinh to bằng con mèo ở khoa sản bệnh viện Hoa Tây, đã kìm lòng không đặng giơ tay vỗ trán, kinh ngạc thốt lên: “Thượng Đế của tôi ơi!”
Trước lúc đó, vì mẹ tôi phải chạy nạn, lang bạt khắp nơi nên thiếu dinh dưỡng trầm trọng, do vậy, em trai út sinh ra chỉ vỏn vẹn có một cân chín lạng10, đến cả tiếng khóc cũng nhỏ như tiếng gió hút. May mà trong nhà bác Phạm có sữa bột gửi từ Mỹ về, bèn đưa cho hai hộp, nó uống xong mới có chút sức lực, bắt đầu dài ra. Chưa tới một trăm ngày, thằng bé đã trở nên mập mạp trắng trẻo, lúc hai tay giơ ra có tận mười cái ngấn thịt, hễ người ta trêu đùa là thằng bé bật cười khanh khách, đáng yêu vô cùng.
10. Tương đương ba cân tám lạng của Trung Quốc.
Bác Phạm là hàng xóm với gia đình chúng tôi, cũng sống ở Lựu Viên. Bác là người Mỹ, theo đạo Cơ Đốc, là giáo sư khoa ngoại của Viện Y học Hoa Tây, y thuật của bác giỏi vô cùng, các quan to chức lớn của Chính phủ Trùng Khánh đều tới đây tìm bác chữa bệnh. Vợ của bác tên là Phạm Mã Lệ (Mary), dạy piano tại trường chuyên Âm nhạc Hoa Tây. Ngày nào cũng vậy, cứ vào giờ đó, lúc trước và sau hoàng hôn, tiếng đàn piano vang lên như thủy triều dâng trong phòng khách của gia đình bác Phạm ở dưới tầng, từng hồi từng hồi, khiến cho tất cả các gia đình sống ở tầng trên tầng dưới đều rón ra rón rén, khẽ khàng cất bước, khẽ khàng làm việc, chỉ sợ sẽ làm nhiễu loạn cảnh đẹp như mơ này.
Nhưng mà đa phần tiếng đàn không đẹp đẽ đến vậy, thậm chí còn khá lộn xộn, đó là khi học sinh mà bác gái mới thu nhận đang luyện đàn. Có một khoảng thời gian, lẫn trong những tiếng tạp âm đó có cả phần của tôi. Tôi ấy mà, là do bị mẹ xách tai áp giải tới nhà bác Phạm, nguyên nhân là do lúc đó tôi quá hiếu động, có bao giờ ngồi yên được đâu, vậy nên cha tôi yêu cầu tôi học piano để mài giũa tính nết.
Nhà bác Phạm chỉ có một cô con gái tên là Phạm Thư Văn (Schumann), da trắng như tuyết, môi đỏ như son, tóc vàng rực rỡ, đôi mắt giống như mắt của chú mèo Ba Tư, lúc đi trong màn đêm, đôi mắt bạn ấy cũng tỏa sáng hệt như mèo vậy. Hai chúng tôi cùng tuổi và học cùng lớp tiểu học. Bạn ấy là đồng bọn với tôi. Khi tôi xuống sông bắt cá, trèo lên cây móc trứng chim, chui vào vườn thí nghiệm của Viện Nông nghiệp hái dưa trộm đào, bạn ấy sẽ là người đứng ngoài quan sát nhiệt tình nhất. Tiếc là Phạm Thư Văn quá béo, tay chân lóng ngóng, mỗi lần nhìn thấy tôi trèo cây, lội sông là sẽ sợ hãi vỗ ngực thán phục: “Trời ạ! Trời ạ!”
Tôi cho rằng, nguyên nhân mà bạn ấy chỉ đứng một bên khen ngợi chứ không làm không phải chỉ vì tay chân lóng ngóng thôi đâu, mà còn bởi bạn ấy suốt ngày mặc váy. Mặc váy bất tiện biết bao nhiêu, trèo cây nhé, vạt váy hở ra, quần nhỏ sẽ lộ hết, ngại chết đi được. Tại sao con gái nước ngoài cứ thích mặc váy thế nhỉ? Tôi nghĩ mãi không ra.
Nhưng tôi chẳng hề kỳ thị bạn ấy chút nào. Chẳng phải có câu như thế này sao, có người đứng trên bục biểu diễn thì cũng cần có người ngồi dưới vỗ tay, như vậy mới gọi là mỗi người một việc.
Tôi kể về em trai út của tôi nhé. Em trai mới bốn tháng tuổi, do thời gian đó cha tôi quá bận rộn nên vẫn chưa kịp đặt tên cho em. Sau khi trường học ở bãi bồi Hoa Tây được sắp xếp ổn thỏa, ông liên tục vội vã dẫn theo học trò đến hợp tác với chính quyền địa phương tổ chức chiến dịch “Khu thực nghiệm phát triển nông nghiệp”, sáng lập hội nông dân này, hợp tác xã nông thôn này, tuyên truyền cày cấy khoa học này, phát miễn phí hạt lúa mạch và hạt giống bông vải khỏe, dạy nông dân trồng thử. Cha tôi bảo, hậu phương có vững chắc, kinh tế có phát triển thì các chiến sĩ nơi tiền tuyến mới có thể ăn no, có sức đánh giặc. Lời cha nói vẫn luôn rất có lý. Cha không ở nhà, mẹ cũng chẳng dám tự đặt tên cho em trai, mọi người bèn gọi nó là “bé con”. Cứ hễ gọi là nó ngoác miệng cười, đôi mắt to tròn hấp ha hấp háy, nghiêng đầu theo hướng có âm thanh để tìm người, nước dãi chảy đầy cằm.
Ban ngày, em trai nô đùa đáng yêu lắm, mà cứ đêm xuống là quấy người. Trời vừa tối là nó bắt đầu khóc, cứ tiếng này nối tiếp tiếng kia, khóc ngặt khóc nghẽo, có dỗ thế nào cũng không nín. Mẹ sợ làm hàng xóm tỉnh giấc, đành phải bế nó đi lòng vòng khắp phòng từ đêm này qua đêm khác. Em trai ngày một lớn, còn mẹ ngày một tiều tụy, làn da vàng vọt, người gầy nhom, cảm giác chỉ một trận gió cũng có thể thổi bà bay đi mất.
Vú em làm mướn ở gia đình bác Phạm nói: “Bà Hoàng à, cứ như thế này thì không ổn đâu, ăn cũng không hấp thụ được.”
Vú em kia là người Thượng Hải, đã theo gia đình bác Phạm từ Thượng Hải về Thành Đô từ nhiều năm trước, nhưng chất giọng Thượng Hải không sao sửa được, có lẽ bác cũng không muốn sửa, người Thượng Hải cơ mà, nói lên cũng đủ thấy tự hào.
Mẹ tôi than thở: “Ăn không hấp thụ được cũng có làm gì được đâu? Giống quỷ đòi nợ đầu thai vậy.”
Vú em kia nảy ra một ý: “Viết mấy tờ giấy dán lên xem.”
Mẹ tôi sợ cha tôi biết được sẽ không vui, do dự hỏi: “Có tác dụng không đấy?”
Bác ấy rất ôm đồm: “Có tác dụng hay không, cũng phải thử mới biết được chứ.”
Mẹ về nhà, chần chừ kể với chị tôi, đại ý là muốn nhờ chị tôi viết chữ giúp bà.
Chị tôi vừa nghe xong liền la ầm lên: “Mê tín! Mê tín!” Đầu chị lắc như trống bỏi, mặt tỏ rõ vẻ khinh thường.
Mỗi lúc thế này, tôi luôn đảm nhiệm vai trò là người tham dự tích cực nhất, vội vã lao tới xung phong: “Mẹ, con biết viết, để con giúp mẹ viết!”
Chị quắc mắt nhìn tôi: “Em không viết được!”
Tôi mặc kệ, tôi cứ thích ôm đồm việc trong nhà đấy, làm gì được tôi?
Mẹ thở phào, vội vàng lấy bút, mực cho tôi, bà tìm một tờ giấy vàng thật to, rọc thành các tấm giấy cỡ chừng một thước, cẩn thận phục vụ tôi. Tôi làm theo lời dặn của mẹ, viết những dòng chữ nguệch ngoạc lên từng tấm, từng tấm: Thiên linh linh, Địa linh linh, nhà chúng tôi có thằng bé khóc dạ đề, quân tử ngang qua đọc ba lần, ngủ một mạch tới tận sáng.
Chị tôi đứng một bên xem tôi viết, hừ mũi cười lạnh: “Hơ hơ, đi học đi hành thì mãi chẳng nên thân, mà giả thần giả quỷ thì nhanh ghê! Em xem chữ của em đi, xấu như ma vậy mà cũng không biết xấu hổ còn viết lên giấy.”
Tôi còn đang hả hê vùi đầu vào viết chữ, nào có để ý đến chị. Tôi biết tính chị háo thắng, chị ghen tị với việc mẹ luôn tay luôn chân phục vụ tôi. Phục vụ thì sao nào? Ai nghe lời mẹ, mẹ đương nhiên sẽ chiều người đó!
Viết một mạch tận mười trang, mẹ nói: “Cũng hòm hòm rồi đấy.” Tôi cũng cảm thấy vậy. Mười trang! Nó mà được dán lên thế nào cũng có người tốt bụng nhìn thấy, đứng lại đọc ba lần, đọc ba lần cũng đâu thiếu của họ miếng thịt nào, nhưng đổi lại em tôi sẽ không khóc nữa, vậy thì mẹ tôi được cứu rồi.
Tôi bảo mẹ dùng bột mì quấy thành bát bột hồ, để em gái Tiểu Tố của tôi bưng, đoạn lấy một cây bút của cha làm bàn chải, nhân lúc nó còn nóng, tôi và Tiểu Tố cùng ra ngoài dán.
Mùa xuân mặt trời lên cao, xung quanh không có ai, tôi và Tiểu Tố, người bưng bát, người cầm bàn chải, vừa căng thẳng vừa chột dạ, ngó xung quanh thấy không có ai chú ý đến thì nhanh tay nhanh chân dán một tấm lên bức tường bao ngoài Lựu Viên, một tấm ở khúc rẽ con hẻm Đăng Trản, một tấm ở đằng sau lưng quán trà Thính Vũ, dán xong xuôi rồi, tôi bèn kéo Tiểu Tố trốn trong bóng cây râm mát, nhìn người qua kẻ lại xem có ai chịu đứng lại xem hay không.
Chúng tôi dán lên cây như những con thằn lằn, trống ngực đập thình thịch, vừa kích động, lại vừa mong chờ, nhìn đăm đăm cả ngày trời cũng không dám chớp mắt. Một lát sau, có người mặc áo choàng dài quá mông vội vã đi ra từ quán trà, một tay nhấc vạt áo, một tay ôm bụng, chẳng biết có phải đang chạy tìm chỗ “đi nặng” không nữa. Lúc chạy đến góc phố, anh ta ngước mắt nhìn trang giấy dán trên tường vẫn chưa kịp khô hồ, quả quyết bước lên, “soạt” một tiếng xé xuống, vo tròn trong tay, chớp mắt đã không thấy đâu nữa.
Tiểu Tố vội vàng kéo áo tôi: “Chị chị chị chị, anh ta xé rồi, đuổi theo! Đuổi theo!”
Tôi đi đâu đuổi đây? Người đó còn chạy nhanh hơn thỏ ấy. Vả lại, anh ta lớn đùng như thế, dù cho tôi đuổi kịp cũng không dám đứng ra lý luận đúng sai.
Tôi vờ ra vẻ không sao, lắc lắc số giấy còn lại trong tay, vỗ bộp lên đầu Tiểu Tố: “Chúng ta đi, dán xa hơn nữa.”
Tiểu Tố hỏi tôi: “Đi xa sẽ có người đọc ba lần sao?”
Tôi thuận miệng trả lời: “Đi xa sẽ có người.”
Tiểu Tố là cái đuôi nhỏ của tôi, dù tôi ở bên ngoài có chạy nhảy nghịch ngợm điên cuồng đến thế nào, con bé vẫn theo đuổi kiên định không dời. Chúng tôi đi lên phía trước dọc theo con đường lát đá của phố Thiểm Tây, đi qua một tiệm tạp hóa bán rổ rá, chổi rễ và mũ cói, qua một nhà thờ tổ đổ nát chỉ còn lại nửa con sư tử đá canh cửa, đi qua một khách sạn nhỏ trồng vài bụi huệ chuối trước cửa, còn cả vô số những căn nhà nhỏ của các gia đình. Mới tháng Năm nhưng trời đã bắt đầu nóng bức, ánh nắng chói chang làm người ta hoa mắt, trên đường không một bóng người, chỉ thấy những bụi cỏ dại ló đầu ra từ các khe đá, những chiếc lá hình răng cưa chọc vào gót chân tôi ngưa ngứa, cảm giác như có con sâu, con bọ nào đó đang bò lên chân vậy. Gạch ngói vỡ nát nơi chân tường bị mặt trời chiếu cả nửa ngày đang phả ra mùi chua lòm của phân chó phân mèo, nồng nặc đến nỗi khiến cho mặt mày Tiểu Tố phải nhăn nhó. Cả đoạn đường dài con bé cứ lấy ngón trỏ và ngón cái bóp chặt mũi, dáng vẻ trông ghét vô cùng.
Lúc đi ngang qua khách sạn có những bụi huệ chuối, tôi cảm thấy người ra vào nơi này có lẽ sẽ khá đông, bèn dừng chân, nhìn trước ngó sau, ra hiệu cho Tiểu Tố bưng bát lên, tôi lấy bàn chải nhúng bột hồ nhanh như chớp vẽ một vòng trên khung cửa, sau đó rút một tấm giấy, trải ra, ấn bịch bịch bịch vào chỗ vừa quết bột. Hồ vừa dính vào tôi liền nói ngay: “Chạy mau!” rồi kéo Tiểu Tố chạy biến đi mất.
Tiểu Tố còn nhỏ, chưa nhanh nhạy, tay còn cầm cả bát hồ nên càng không chạy nhanh được, bị tôi kéo mạnh một cái liền ngã nhào, bát rơi loảng xoảng xuống phiến đá, vỡ tan tành, chỗ bột hồ còn lại trong bát dính hết lên phiến đá và cỏ dại, màu trắng xám nhờ nhợ, nhão nhoét, dinh dính, giống như nước mũi vậy.
Tôi lo bị chủ khách sạn đuổi theo, nên sốt ruột mắng con bé: “Sao mà ngốc thế chứ!” Tiểu Tố méo miệng, mếu máo chực khóc, sợ tôi sẽ bỏ nó lại để đi một mình. Con bé sợ, nén nước mắt lảo đảo bám đuôi tôi, cả đường cứ nghẹn ngào nhắc mãi: “Chỗ xa không có người... chỗ xa không có người...”
Than ôi, Tiểu Tố mới có bốn tuổi, mới đi học mẫu giáo thôi mà. Vừa nghĩ vậy, tôi lại mềm lòng, chau mày nói: “Được rồi! Đừng nói nữa có được không? Ngậm miệng ngay, chị hái dâu cho ăn.”
Trẻ con dễ dỗ thật, vừa nghe thấy câu này là nó nín ngay, nước mắt còn chưa khô mà mắt đã dáo dác ngó xung quanh: “Ở đâu ạ? Quả dâu ở đâu ạ?”
Tôi nhớ đến lời mẹ nói: Không thể nói dối trẻ con, lần này mình nói dối, lần sau nó sẽ không chịu tin người lớn nữa. Tôi chỉ đành tiết lộ cho Tiểu Tố một bí mật: Quả dâu mọc ở rừng rậm bên bờ sông, quả sai trĩu trịt, có đếm cũng không xuể, dâu chín đỏ tím lịm, vừa mềm vừa mọng bước, cắn một cái đảm bảo ngọt nhé, ngọt chết người luôn. Tiểu Tố say mê nghe tôi kể, há hốc miệng, hàm răng bé xíu trắng ngần dưới ánh mặt trời, đôi mắt to, tròn xoe hấp háy, chừng như không dám tin.
Trong rừng rậm bên bờ sông có cây dâu không phải là chuyện tôi bịa, nhưng những quả thấp lùn mà giơ tay cũng có thể hái được đã bị chúng tôi hái nhẵn rồi. Tôi và Phạm Thư Văn, ngày nào tan học hai đứa chẳng chạy qua đây, từ quả hơi ương ương đến quả chín tím lịm, ăn no đến nỗi ợ ra cả mùi dâu, nào còn có phần của Tiểu Tố.
Thế nhưng lời đã nói ra đâu thể rút lại được, có phải không? Tôi đã nói với Tiểu Tố là có, thì dù thế nào cũng phải có.
Tôi kéo tay Tiểu Tố đến bên bờ sông, bảo con bé ngồi đợi trên một chạc cây cổ thụ to khúc khuỷu, không được phép đi linh tinh. Đoạn tôi híp mắt, lấy tay che trán, rúc ra rúc rích khom lưng chui vào rừng cây, trong lòng khẽ niệm: Lộc cà lộc cộc, dâu ơi dâu đến! Ông trời ơi, cho con tìm được vài quả dâu đi, dù cho còn xanh còn chát, tốt xấu gì cũng phải dỗ xong Tiểu Tố phen này chứ.
Rừng cây ấm áp dễ chịu, ánh mặt trời loang lổ trên đầu, hơi nóng bốc hơi dưới chân, mũi ngửi được mùi hơi đất ẩm ướt, mùi lá cây mục nát, còn có cả mùi thơm ngát của vô số hoa cỏ. Những con rết to gan đen sì bò loạt xà loạt xoạt sát mũi giày của tôi, những con ong mật to bằng ngón tay vo ve lượn tới lượn lui sau gáy tôi, chúng không đốt, nhưng lại không nỡ bay đi, chẳng biết đang ủ mưu gì nữa. Lá cây dâu đã hơi già, xanh nhưng khô khốc, chẳng bóng bẩy gì cả, giả như tôi mà là lũ tằm con cũng chả thích thú gì. Tôi đứng dưới tán dâu, ngẩng đầu nhìn, trên những cành cao cao mấy quả đỏ lịm treo lủng lẳng từng chùm từng chùm, thế nhưng dâu ở chỗ thấp thì mấy ngày này chúng tôi đã ăn sạch rồi, chẳng có bóng dáng quả nào. Chao ôi, sớm biết vậy đã để lại vài quả.
Tiểu Tố đứng ngoài bìa rừng dùng giọng nói ngọt ngào ngây thơ gọi tôi: “Chị! Chị!"
Tôi cao giọng trả lời con bé: “Đây đây!”
Mặc kệ vậy, trèo lên cây thôi. Trèo cây là món nghề tủ của tôi rồi, ở xung quanh nhà, đố có cây nào làm khó được tôi. Cây dâu thì càng chẳng phải nói, cành lá rậm rạp, thân cây không cao, vỏ cây lại gồ ghề, leo vài bước là tới ngọn. Thứ cần chú ý là những quả chín mọng ở ngọn cây kia kìa, sơ sẩy chọc phải vỏ quả thôi, cái thứ nước tím lịm kia bắn ra, giây vào quần áo thì chắc chắn là ký hiệu lấy mạng, về đến nhà thế nào cũng bị mẹ cho ăn đòn.
Tôi giẫm lên cành cây, cẩn thận rướn người, nhẹ nhàng hái bảy tám quả cầm trong lòng bàn tay. Gần như cùng lúc, giống như phản xạ có điều kiện, nước bọt chảy đầy miệng, tôi rướn cổ, nuốt “ừng ực”, thật, phải dằn lòng nhắc nhở bản thân, đây là của Tiểu Tố... đây là của Tiểu Tố... gắng nhịn không mở nắm tay ra.
Tiểu Tố đột nhiên gọi ầm ĩ ngoài bìa rừng: “Cha ơi! Cha cha cha cha!”
Trong lòng giật thót một cái, tôi vịn cành cây, nhón chân nhìn qua kẽ lá. Đã hơn nửa tháng trời cha tôi không về nhà, mẹ tôi vẫn đang đợi lương tháng này của cha để mua vải may quần áo mùa hè cho anh em chúng tôi nữa đây. Tôi nhìn thấy trên đường cái quả thực có hai người đang đi đến, người cao cao là cha tôi, bộ quần áo vải bao bố màu xám nhạt, chân đi đôi giày cói hở ngón, tóc dài chừng vài tấc, lôi tha lôi thôi, nhìn từ xa giống như ổ chim sẻ vậy. Nếu như ông không đeo cặp kính cận gọng kim loại, sẽ chẳng ai nhận ra ông là giáo sư đại học hết. Thầy giáo dạy tiểu học của chúng tôi còn mặc cả áo dài, đi giày da, ra dáng hơn ông biết bao nhiêu.
Cậu con trai đi bên cạnh cha là ai thế nhỉ? Sao tôi chưa gặp bao giờ nhỉ? Tôi đoán chừng chắc cũng cỡ tầm tuổi tôi, cứ nhìn đỉnh đầu chỉ cao đến nách cha tôi là biết. Cách ăn mặc của cậu ta còn thê thảm hơn cả cha tôi, áo thì thiếu nửa bên tay áo, ống quần thì cộc trên mắt cá chân, đôi chân trần đen nhẻm, lòng bàn chân đầy đất bùn. Cậu ta vừa đi vừa ngoái đầu, chẳng biết đang tìm cái gì, dù sao thì nhìn gương mặt khổ sở và mong chờ kia cũng biết được cậu ta chẳng hề bằng lòng.
Cậu ta không phải ăn xin đấy chứ? Có lần cha tôi dẫn một cậu bé ăn xin về nhà, bị mẹ tôi trách móc suốt một hồi. Cũng đúng thôi, nhà chúng tôi có năm đứa trẻ, ăn bữa nay lo bữa mai, nào còn sức giúp người ăn xin.
Tôi đứng trên chạc cây, rướn lưng rướn cổ, liều mạng vẫy tay về phía đường cái: “Cha! Cha!”
Cha tôi ngừng chân, che mắt cho đỡ chói, hoài nghi nhìn về phía rừng cây, cậu con trai kia cũng đứng lại theo, nhưng cụp mắt nhìn xuống đất, ra vẻ hờ hững lạnh nhạt với chuyện không liên quan đến mình.
Tiểu Tố đã đứng dậy, huơ huơ hai cánh tay nhỏ xíu, vừa cười, vừa gọi, vừa cắm đầu cắm cổ chạy về phía đường cái. Tiểu Tố yêu cha nhất, vì chỉ có cha mới đủ sức bế con bé “nâng cao cao”, mẹ thì chẳng bế được rồi. Tôi cũng mau chóng trượt xuống đất, chuẩn bị giằng lấy vali của cha trước, để khiêng về nhà giúp ông.
Thế nhưng, một tay tôi còn phải nắm mấy quả dâu chín mọng kia, chẳng nỡ vất đi nên một tay phải giơ cao, chỉ dùng tay còn lại ôm lấy cành cây, “roạt” một phát trượt xuống. Tôi cảm thấy chỗ đầu gối đau đau, giống như bị ong vàng chích một cái vậy. Nhưng tôi không để ý. Trước đây, mẹ đã nói rồi, tôi là con gái mà chẳng có chút gì dịu dàng giống con gái cả. Không biết mẹ đang khen hay đang chê tôi nữa.
Tôi cứ nắm mấy quả dâu như vậy, chạy như bay đến con đường cái. Tiểu Tố đã nằm gọn trong lòng cha, ôm lấy cổ cha cười rộn ràng không ngớt, áo và chăn mền bẩn của cha đã bị vứt lộn xộn bên lề đường, phía sau cuộn hành lý của cha là cậu con trai kia, cậu ta đang đứng chùng vai, quay mặt sang chỗ khác, hờ hững nhìn trời, nhìn đất, nhìn rừng cây, nhưng không nhìn chúng tôi.
Tôi đã hơn tám tuổi, sắp chín tuổi, lớn tướng rồi, mặc dù tôi cũng vẫn luôn mong ngóng cha trở về nhưng không thể tranh tình yêu của cha với Tiểu Tố được. Tôi bèn ra vẻ rất ngoan ngoãn hiểu chuyện, quy củ đi đến bên lề đường nhấc hành lý của cha lên. Cậu con trai kia vẫn quay đầu, chắc chắn cậu ta cố ý, không muốn nhìn thấy cảnh cha con chúng tôi thân thiết.
“Tranh Tử!” Cha tôi đột nhiên hốt hoảng kêu lên: “Con nhìn chân con xem!”
Tôi vội vã cúi đầu, bấy giờ mới phát hiện đầu gối đã bị rách da, chắc hẳn nó đã bị vỏ cây cào vào, còn chảy cả máu, có lẽ bị cào rất sâu, máu chảy dọc theo chân thành một đường dài đỏ tươi, giống như con đỉa trâu hút no mọng máu. Chẳng trách lúc tôi chạy, chân hơi chuệch choạc, đầu gối cưng cứng.
Tiểu Tố nhát gan, thấy tôi chảy máu liền sợ hãi rúc đầu vào cổ cha. Cha bảo con bé xuống đất để ông kiểm tra chân cho tôi, nhưng nó sống chết không chịu, hai chân móc cứng lấy lưng, hai tay ôm chặt cổ ông, giống như dính vào người cha vậy.
Nói thật lòng, thấy chân mình chảy máu như vậy tôi cũng sợ lắm. Tôi sợ tôi sẽ bị uốn ván. Tôi nghe Phạm Thư Văn nói, nếu bị mắc bệnh uốn ván thì chết là cái chắc. Nếu như tôi chết thì năm sau chẳng thể ăn dâu được nữa rồi.
Cha khuỵu chân, luôn miệng dỗ dành Tiểu Tố đang sợ hãi buông tay. Tôi ngây ngô đứng đó, chẳng biết phải làm gì thì lũ máu chết tiệt trên chân mới chịu ngừng chảy. Trong lúc lúng túng, cậu con trai kia đột nhiên chạy về phía mảnh ruộng hoang bên lề đường, chui vào lùm cỏ, khom người ngắt một nhúm gì đó, rồi lại ba chân bốn cẳng chạy về, ngồi chồm hỗm trước mặt tôi, nhét nhúm cỏ trong tay vào miệng, cố gắng nhai nhai, nhai thật mạnh, nhai ra được một nhúm bã cỏ đặc quánh, xanh xanh thì nhổ vào lòng bàn tay, rồi bất ngờ giơ tay ấn bốp một cái vào đầu gối của tôi.
Tôi há hốc miệng. Nếu như tôi biết trước cậu ta sẽ dán nhúm bã đó lên đầu gối, có chết tôi cũng không đồng ý: Ác độc biết bao nhiêu!
Thế nhưng kể cũng lạ, vết thương trên cái chân bị bã cỏ dính lên vừa nãy còn sưng phồng tưng tức mà giờ trở nên mát rười rượi, ngưa ngứa dễ chịu vô cùng. Vả lại, máu cũng đã thôi chảy, thậm chí, đầu gối còn có thể hơi khom lại, tình hình không còn đáng sợ như lúc trước nữa.
Tôi vừa kinh ngạc, vừa vui mừng gọi: “Cha!“ Cha tôi híp mắt cười nhìn cậu con trai kia, giơ ngón cái: “Thẩm Thiên Lộ, giỏi lắm!“
Ha ha, hóa ra cậu ta có tên, thằng nhóc này không phải người ăn xin theo sau cha tôi, cậu ta tên là Thẩm Thiên Lộ.
Chuyện sau đó phát triển theo hướng mà tôi không thể ngờ tới: Cậu ta đứng thẳng dậy, ngẫm nghĩ điều gì đó, rồi đột nhiên vòng tới trước mặt tôi, khom người, hai tay vòng ra sau, “hây“ một tiếng, nhấc bổng tôi nằm ngay ngắn trên lưng cậu ta!
“Chú, đi.“ Cậu ta ngoái đầu nhìn cha tôi, không thể không mở miệng nói hai từ để phân trần.
“Có được không?“
“Được ạ.“
“Được, đi thôi.“ Cha tôi cõng hành lý trên lưng, tay bế Tiểu Tố, trông có vẻ như đang vội vã về nhà.
Trời ạ, cha tôi yên tâm thật cơ đấy, đây là người lạ cơ mà, ông không sợ tôi bị người ta bắt cóc hay sao? Lại nói, cậu con trai này khỏe thật đấy, cao hơn tôi có một cái đầu mà cõng tôi trên lưng không hề hụt hơi.
Tôi kinh hồn bạt vía nằm trên lưng cậu ta, chỉ trong nháy mắt, có biết bao nhiêu suy nghĩ chạy vụt qua đầu. Nhưng tôi không dám nhúc nhích, không dám kháng nghị, nằm mãi nằm mãi, tôi ngửi được mùi mồ hôi ngòn ngọt từ trên cổ cậu ta, thật sự rất ngọt. Tôi tò mò lắm, bình thường lúc học văn, giảng đến chữ “mồ hôi“ là thế nào cũng đi kèm với từ “chua“, “mồ hôi chua lòm“, thế nhưng tại sao mồ hôi trên cổ cậu ta lại ngọt như rượu gạo vậy? Với cả, lũ con trai toàn cạo đầu trơn nhẵn nào có nắm được, sao tóc của cậu ta lại cứng ghê? Vừa ngắn vừa cứng, dựng thẳng như bàn chải vậy, tôi gắng sức ngửa mặt, rướn cằm mới không bị đám tóc cứng như gốc rạ của cậu ta chọc phải.
Suốt cả quãng đường, tôi quên béng mất chuyện trong lòng bàn tay vẫn còn cầm quả dâu, cứ nắm chặt như vậy, lúc về đến nhà mở nắm tay ra, dâu đã bị nát nhão nhoét, nước dâu chảy ra, màu đỏ tươi lấm lem cả bàn tay, lấm cả vào đường chỉ tay, cả kẽ tay đặc quánh. Màu đỏ tươi đầm đìa chói mắt khiến người ta sợ hãi.