Tháng Mười một, bãi bồi Hoa Tây bắt đầu chuyển lạnh, tôi có nuôi một con cào cào. Một buổi sớm mai, con cào cào nằm bất động trong lồng trúc, mặt hướng lên trời. Tôi lấy ngọn cỏ chọc vào nó, mới biết nó đã chết từ đêm hôm qua, cơ thể đã cứng đờ rồi. Tiểu Tố muốn cầm con cào cào đã chết bón cho gà trống của giáo sư Mai, nhưng tôi không đồng ý mà chôn nó trong chậu hoa trên hành lang. Tiểu Tố tò mò bám lấy tôi cả nửa ngày trời, hỏi tôi liệu năm sau cào cào có sống lại trở về giống như hoa xác pháo đỏ rực trong bồn hoa mỗi năm xuân về lại nảy mầm không. Tôi lười trả lời con bé những vấn đề kỳ lạ, nên kêu nó đi hỏi anh Khắc Tuấn. Anh chúng tôi cái gì cũng biết, anh ấy có một quyển sách tiếng Anh tên là “Bách khoa toàn thư thiếu niên”, nghe nói trong đó viết tất cả những kiến thức khoa học trên thế giới này, tiếc là khả năng tiếng Anh của tôi vẫn chưa đủ, đọc chẳng hiểu gì cả.
Mẹ may cho bốn người chúng tôi mỗi người một bộ quần áo mùa đông, bộ của tôi và chị dùng vải nhuộm Indanthren, vải không đủ, chỗ cổ áo mẹ tôi phải cắt từ một đoạn vải lụa tối màu trên chiếc xường xám cũ của mẹ, chị cảm thấy cái cổ áo hoa này đẹp như dùng nét bút của thần tiên vẽ lên vậy, trong nháy mắt khiến những bộ quần áo bình thường của chúng tôi trở nên lộng lẫy sang trọng. Chị thích nó lắm, mỗi lần bước qua cầu đều nhoài người soi bóng trên mặt nước. Còn áo bông của anh Khắc Tuấn và Thẩm Thiên Lộ là kiểu dáng màu đen của học sinh, không có hoa văn gì cả. Tiểu Tố không có áo mới, chiếc áo con bé mặc được sửa từ áo bông cũ của chị. Mẹ dỗ dành con bé: “Anh chị con đều mặc đồng phục cả, đợi đến khi con đi học, con cũng sẽ mặc đồng phục thôi.” Tiểu Tố nghe vậy tin liền, giơ tay nhẩm tính còn bao nhiêu ngày nữa con bé mới được lên tiểu học.
Chúng tôi được mặc áo mùa đông rồi, còn các chiến sĩ nơi tiền tuyến chống địch thì sao? Trên tờ Đại Công báo có một tấm hình các chiến sĩ đang co quắp để giữ ấm trong đường hầm, trên người chỉ mặc mỗi chiếc áo mỏng. Lần này, học sinh trên bãi bồi Hoa Tây nào còn có thể ngồi yên được nữa, từ đại học cho tới tiểu học đều xếp hàng tổ chức “Lễ hội âm nhạc cứu trợ mùa đông” để xoay xở tiền mua quần áo mùa đông cho tiền tuyến.
Buổi diễn của trường chúng tôi được sắp xếp vào cuối tháng, tại hội trường Trường Đại học Hoa Tây. Lần này, chính hiệu trưởng của trường chúng tôi đã ra mặt để mượn trường Đại học Hoa Tây. Hiệu trưởng trường chúng tôi là thành viên Ban Chấp hành Cứu trợ Kháng chiến của chính quyền Thành Đô, cũng được coi là một người rất có danh vọng ở bãi bồi Hoa Tây.
Nếu đã tổ chức lễ hội âm nhạc thì phải có đơn ca, đồng ca, hợp tấu, độc tấu. Phạm Thư Văn là người chơi đàn dương cầm giỏi nhất trong trường chúng tôi, tiết mục của bạn ấy đương nhiên là độc tấu dương cầm. Bạn ấy về nhà bàn bạc với bác Phạm Mã Lệ rồi đăng ký ca khúc “Nhớ quê”, tác phẩm kiệt xuất của nhạc sĩ nước Phổ. Thầy dạy nhạc cứ khen khúc này hay mãi, bãi bồi Hoa Tây có nhiều người đến từ vùng Đông Bắc bị giặc chiếm đóng, có giờ nào khắc nào họ nguôi ngoai nỗi nhớ quê nhà đâu.
Lớp năm hát bài “Cứu quốc khúc quân hành”, học sinh trong lớp mặc bộ quân phục của trẻ con, lưng đeo trống, xếp hàng trên bục, vừa gõ vừa làm động tác hành quân, vừa đồng thanh cất tiếng hát: Họng súng hướng ra ngoài, giậm chân tiến bước! Không làm hại người dân, không đánh phải người mình. Bảo vệ dân tộc Trung Hoa, mãi mãi là người tự do! Lúc họ tập luyện trên sân thể dục, trống đánh vang trời, giọng ca lảnh lót, khí thế hào hùng, quả thật khiến các lớp khác ngưỡng mộ ghen tị.
Thầy giáo chủ nhiệm lớp bốn của chúng tôi không phục, quyết tâm muốn áp đảo khí thế của lớp năm. Áp như thế nào ư? Độc tấu đơn ca các kiểu quá là buồn tẻ, có hay đến mấy cũng không làm nóng được bầu không khí. Thầy nói, chúng tôi phải đồng ca, hát bài “Bùm chát bùm chát bùm”: Đánh bại giặc Tây, bùm chát bùm chát bùm! Nhấc súng lên ngắm thật chuẩn, tôi là Nghĩa Dũng Quân bé nhỏ, tiến lên phía trước chẳng sợ chết, cùng nắm tay nhau tiến về phía trước!
Ôi mẹ ơi, chết tôi mất thôi. Tôi vội vã giơ tay: “Thầy ơi, em không làm được đâu, em sợ lắm.” Thầy giáo chăm chú nhìn tôi: “Ôi chao, cũng có chuyện mà Hoàng Tranh Tử sợ ư?” Cũng có chứ, mà run rủi làm sao chuyện tôi sợ lại đúng là món đàn này. Tôi theo bác Phạm Mã Lệ học đàn bữa đực bữa cái, học gần một năm rồi mà ngay cả bài “Czerny Op.599” cơ bản cũng không đàn nổi. Bác ấy khá thất vọng về tôi, tôi đoán mỗi lần bác dạy bài mới cho tôi là lại thêm một lần hối hận: Vì sao lúc đầu bác lại nhìn trúng mười ngón tay của tôi nhỉ?
Tôi dùng giọng điệu vô cùng cường điệu thổi phồng: “Phạm Thư Văn đàn hay biết bao chứ! Bạn ấy còn chuẩn bị về Mỹ theo học Học viện Âm nhạc nữa đấy ạ!”
“Phạm Thư Văn đàn hay cần em nói chắc?” Thầy giáo cốc lên đầu tôi một cái. “Em ấy biểu diễn độc tấu, sao có thể để phân tâm vì đệm đàn đồng ca được.”
Tôi sắp khóc rồi đây. Ầm ĩ cả nửa ngày trời, việc mà tôi xông pha khói lửa hoàn thành nhiệm vụ, trong miệng thầy giáo cũng chỉ là chuyện “đệm đàn đồng ca” nhẹ tựa lông hồng mà thôi, chút chuyện cỏn con ấy mà.
Thế nhưng, tôi trời sinh tính tình không cam chịu, thầy giáo không xem trọng thì tôi càng phải làm tốt, mà hơn nữa phải làm cho tốt nhất.
Phải làm thế nào mới là “tốt nhất” được nhỉ? Không còn cách nào khác, tôi không tin tập cả một tuần lễ mà tôi không đánh được khúc “Bùm chát bùm chát bùm”.
Trước đây, bác Phạm Mã Lệ có một quy định, mấy đứa trẻ chúng tôi theo học đàn thì chỉ có thể học chứ không được phép luyện đàn ở nhà bác. Bác bị bệnh đau nửa đầu, nghe quá nhiều tiếng ồn hỗn loạn dễ dẫn đến đau đầu. Bình thường chúng tôi luyện đàn là phải mượn phòng đàn của Đại học Nữ sinh Kim Lăng, mà còn phải mượn vào lúc sinh viên khoa nhạc không dùng đến, vì thế, một tuần rất khó được đến hai lần. Mà tháng này, trường nào cũng chuẩn bị cho ngày hội âm nhạc nên chuyện mượn phòng đàn khó càng thêm khó, chúng tôi chỉ được mượn vào hai buổi tối, mà còn là sau chín giờ.
Quên không nói, quãng đường từ Lựu Viên đến phòng đàn của Đại học Nữ sinh Kim Lăng khá dài, đi bộ cũng phải mất ít nhất nửa canh giờ. Đường xa là chuyện nhỏ, nhưng đêm tối thui thế này, nhất định phải đi xuyên qua những lùm cây lắc lư ngả bóng trong gió, một bãi tha ma vắng vẻ u ám, những con ngõ hai bên là tường đen vừa nhỏ vừa sâu, một nhà thờ Thiên Chúa Giáo với những bóng nến sâu thẳm tịch mịch, mới nghĩ thôi cũng đã khiến tôi nổi hết cả da gà.
Tôi van nài chị: “Chị ơi, chị đi cùng em có được không? Em cho chị bút chì hoa của em.”
Chị bĩu môi: “Không thèm, em gọt mất cả nửa rồi.”
Chị nói tiếp: “Trường chị buổi tối cũng phải diễn vở kịch nói ‘Hãy bỏ roi da xuống’ này, chị là nữ chính, diễn chị Thanh đấy. Làm sao bảo chị bỏ tập kịch để đi tập đàn với em được, nghe có hợp lý không?” Chị vừa nói, vừa ngồi ở đầu giường, giơ tay dùng giấy đỏ nhúng vào nước sơn móng tay, nhuộm đỏ cả ngón tay, giơ ra giống như móng quỷ hút máu.
“Xấu quá.” Tôi nói.
Chị ngước mắt nhìn tôi: “Liên quan gì đến em.”
Tôi quay người đi tìm anh Khắc Tuấn. Anh ấy là một “quý ông” đích thực, thông thường, anh sẽ không từ chối con gái đâu. Quả nhiên, tôi vừa mở miệng là anh đồng ý ngay. Anh hỏi tôi cần đi vào buổi tối nào, tôi trả lời, thế rồi anh bắt đầu khó xử: “Không may rồi, hôm đó là ngày hội đọc sách của trường anh, trường đã mời thầy Tiền Mục12 đến giảng về văn hóa và thanh niên Trung Quốc, là thầy Tiền Mục đấy.” Lúc nhắc đến cái tên “Tiền Mục”, nét mặt anh vô cùng cung kính.
12. Tiền Mục (1895-1990): tên tự là Tân Tứ, là một sử gia, nhà giáo, triết gia và nhà nho người Trung Quốc. Ông chuyên nghiên cứu về Nho học, Lịch sử và Văn hóa Trung Quốc cổ. Ông sáng lập Đại học Tân Á, là tiến sĩ danh dự của Đại học Hồng Kông và Đại học Yale.
Tôi không biết thầy Tiền Mục là ai, tôi chỉ biết không ai chịu đi đến phòng đàn vào buổi tối với tôi, khiến tôi cảm thấy rất buồn.
Vẫn là mẹ thương tôi nhất, lúc đó, bà đang quấn chỉ ở hành lang, thấy tôi đi ra đi vào như con kiến bò trên chảo lửa, mẹ ló đầu vào trong phòng, quả quyết: “Để anh Thiên Lộ đưa con đi.” Đoạn bà ngoái lại gọi: “Thiên Lộ!”
Trong nhà tôi, người mà Thẩm Thiên Lộ nghe lời nhất là mẹ tôi, mẹ tôi vừa lên tiếng là anh bỏ quyển vở luyện chữ trên tay xuống, vội vàng đứng dậy, trả lời bằng hai tiếng dứt khoát: “Nâng nạ.”
Nếu mẹ đã lên tiếng, có không phải thì cũng là anh ấy rồi. Nghĩ đến đoạn đường khiến người ta rợn tóc gáy kia, tôi thấy có thêm anh ấy dù sao cũng tốt hơn.
Rất nhiều năm sau, tôi vẫn nhớ mãi bầu trời sao buổi tối hôm ấy. Ánh sao phủ kín bầu trời, như dời non lấp biển, tựa như chỉ cần hét gọi một tiếng, chúng sẽ từ khoảng không kia ào ào trút xuống, sao dày như vậy, trang nghiêm mà lại rực rỡ đến vậy. Trải dài từ Lựu Viên đến con đường nhỏ là một màn sương mỏng màu xám bạc, dưới bầu trời sao là những đốm sáng to bằng hạt gạo nếp nhấp nháy nhấp nháy. Không khí trong veo, lành lạnh, giống như có vô số những cây kiếm nhỏ xíu đâm vào xoang mũi, trong nháy mắt đã khiến đường hô hấp của con người ta thông suốt, khí quản tắc nghẹn bị những kẻ xâm nhập này ùa vào làm cho trở nên nhanh nhạy như loài lang sói, tôi há to miệng, ra sức hít đầy lồng ngực, sau vài lần mới trở về bình thường.
Thẩm Thiên Lộ đi đằng trước, tay chiếc đòn gánh mà bình thường anh vẫn giúp mẹ tôi gánh gạo, gánh rau ở trên phố, anh đập một cái bên phải, một cái bên trái, bắt chước lại động tác của con khỉ. Tôi vội vã bước lên vài bước đuổi theo anh ấy, hỏi tại sao anh lại mang theo thứ này, anh ấy trả lời: “Đánh ma.”
“Nói bậy!“ Tôi nói với anh, “Trên đời này không có ma.”
Anh ấy quay lại liếc nhìn tôi: “Không có ma thì sao em phải sợ?”
“Em sợ đêm tối đấy chứ.”
“Ma toàn trốn trong bóng đêm cả đấy.”
Tôi không còn gì để nói.
Càng đi rừng cây càng âm u, giả như là ban ngày thì đây là chỗ vui chơi của tôi và Phạm Thư Văn đấy, chúng tôi sẽ quan sát xem con kiến chuyển xác bướm to gấp mấy chục lần cơ thể nó như thế nào, nhặt nhạnh những xác ve vàng để bán cho các quầy thuốc Bắc, nếm thử đủ các loại quả đỏ tươi nom có vẻ rất ngon mắt, nếm đến khi đầu lưỡi tê cứng, cổ họng nghẹn ứ. Có một lần, tôi còn bắt được một chú dế mèn bóng nhẫy, đen nhánh trên cành cây cổ thụ, Phạm Thư Văn khẳng định chú dế mèn ấy là một “dũng sĩ”, cậu ấy đã từng nhìn thấy có nơi chuyên bán những con côn trùng nhỏ như thế này trên chợ phiên, người ta dùng để chọi dế nên giá đắt vô cùng. Bạn ấy nói vậy làm tôi nảy ra một suy nghĩ, không chừng con côn trùng nhỏ trong tay tôi lại có thể đổi được món tiền lớn. Kết quả là lúc chúng tôi cẩn thận nâng niu con dế mèn kia chạy đến chợ phiên, người ta liếc nhìn rồi cười phá lên, nói là đây không phải là dũng sĩ dế mèn đâu, chỉ là một con côn trùng mà thôi, đem về nhà bón cho gà ăn đi. Phạm Thư Văn chán muốn chết, chúng tôi vốn đã bàn bạc xong chuyện sẽ dùng tiền bán con dế mèn này mua bánh lá trẩu13 về ăn, cuối cùng lại làm hai đứa mừng hụt.
13. Bánh lá trẩu: Là loại bánh gói bằng lá trẩu, loại bánh ăn vặt truyền thống vào mỗi dịp tết Trung thu và rằm tháng Bảy của vùng Vân Nam, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam Trung Quốc.
Tôi hỏi Thẩm Thiên Lộ: “Hồi còn ở quê, anh đã bao giờ bắt được ‘dũng sĩ’ chưa?”
“Dũng sĩ gì?” Anh ấy bắt đầu tò mò.
“Ồ, chính là con dế mèn biết đánh nhau ấy.”
Anh trách tôi không nói tử tế, dế mèn là dế mèn, lại còn cái gì mà ‘dũng sĩ’. Anh bảo dế mèn ở quê anh nhiều vô kể, còn kể cho tôi mấy cái tên liền: đầu quan tài này, dế cơm này, sắt xanh đen này, hoa vằn tím này. Anh giải thích từng loại dế mèn có đầu trông như thế nào, răng hàm ra sao, lúc đấu nhau thì hăng như thế nào, lúc nuôi phải chú ý những gì, rõ ràng mạch lạc, sống động như đang hiện hữu ngay trước mắt. Tôi kinh ngạc khi phát hiện ra anh là một người thích nói chuyện. Tôi còn phát hiện ra thêm một chuyện nữa, đó là khi dùng tiếng Tứ Xuyên để giải thích một chuyện gì đó, nghe êm tai hơn giọng quan thoại Nam Kinh của chúng tôi nhiều.
“Thế rốt cuộc anh đã thắng ván nào chửa?” Tôi học theo giọng điệu của anh.
Anh lập tức ủ rũ như quả cà héo, cúi đầu không nói gì.
“A ha, khoác lác chứ gì, lừa em.”
Anh nổi giận, giọng cao vút: “Cái gì mà lừa? Ở quê anh nhiều người giỏi lắm!”
Tôi phá ra cười ngặt nghẽo, suýt nữa thì không bước nổi. Thẩm Thiên Lộ dễ xấu hổ thật đấy! Cái vẻ tức giận cứng đầu cứng cổ, giọng nói run run của anh quả là thú vị vô cùng.
Có điều Thẩm Thiên Lộ cũng không ngốc, anh mau chóng phát hiện ra tôi đang trêu anh. Anh bực bội, quay người bỏ tôi lại, cứ thẳng bước về phía trước không thèm ngoảnh đầu nhìn lại, bước chân nhanh như bay. Tôi vừa chạy lên trước đuổi theo, vừa bày ra vẻ đáng thương cầu xin anh ấy đi chậm lại, đợi tôi với. Anh mặc kệ, chân cũng chẳng dừng, chớp mắt đã biến mất trong màn đêm mịt mờ. Phen này tôi hoảng thật sự. Đêm tối không bì được với ban ngày, tôi muốn chạy thật nhanh, nhưng cứ lảo đà lảo đảo, bước cao bước thấp. Trong lúc hoảng hốt chạy bừa, tóc tôi không cẩn thận móc vào cành cây ven đường, giằng ra không giằng được, đi lại không đi được, tôi lo lắng đến độ hét toáng lên. Có lẽ nghe thấy tiếng hét thảm thiết của tôi, anh mới không đành lòng mà vòng lại, mò mẫm đi đến bên cạnh tôi, ghé sát vào nhìn cành cây đang mắc lấy tóc, lóng nga lóng ngóng, sau khi giật đứt vài sợi tóc, cuối cùng mới giải thoát được cho tôi.
“Đây là ma phải không? Gặp báo ứng rồi chứ gì?” Anh ấy mượn cơ hội cười nhạo tôi.
Tôi không dám hó hé nửa câu.
Nghĩ tới phía trước vẫn còn bãi tha ma diều than quạ thét, vẫn còn nhà thờ với ánh nến leo lét như ma trơi, tôi quyết định không ngang tàng nữa, ngoan ngoãn cầu xin anh: “Anh Thiên Lộ ơi, em có thể nắm tay anh không?”
Đấy là lần đầu tiên tôi gọi anh ấy là “anh”, dường như anh khá bất ngờ, lẳng lặng nhìn tôi hồi lâu. Trong đêm tối, tôi không nhìn rõ cảm xúc trong mắt anh, có điều tôi có thể nghe thấy tiếng thở của anh nặng nề và rối loạn hơn bình thường.
“Anh Thiên Lộ!” Tôi dứt khoát gọi thêm một tiếng nữa, trong giọng nói còn mang theo cả chút nũng nịu.
Anh ấy ngẫm nghĩ đấu tranh một hồi lâu, vẫn không muốn để tôi nắm tay. Có lẽ anh xấu hổ, không biết tiếp xúc với con gái như thế nào. Yên lặng chốc lát, rốt cuộc anh cũng nghĩ ra được biện pháp vẹn cả đôi đường, anh đưa chiếc đòn gánh ra, anh cầm một đầu, để tôi cầm đầu còn lại, anh đi trước, tôi theo sau. Tôi oán thán, cứ thế này thì chẳng phải tôi đã thành cô bé mù ăn xin rồi sao. Anh ồm ồm nói với tôi thông điệp cuối cùng: “Đi hay không đi?”
“Đi, đi, đi.” Tôi vội vàng trả lời.
May mà bây giờ không phải ban ngày, may mà đây là màn đêm chỉ có những vì sao, không có ánh trăng soi tỏ. Thế nhưng dù là như vậy, suốt quãng đường tôi cầm lấy đầu đòn gánh của anh bước đi, thấp tha thẩp thỏm nhìn đông ngó tây, sợ giữa đường lại xuất hiện cô cậu bạn học nào đó, vậy thì ngày mai, nhất định dáng vẻ nhếch nhác tệ hại này của tôi sẽ bị đồn ầm lên trong lớp mất thôi.
Đi đến trước cửa phòng đàn, đột nhiên đầu mũi tôi ngưa ngứa, giơ tay ra sờ, trong đêm thu se se lạnh, thế mà mũi tôi lại lấm tấm mồ hôi.
Tôi mau chóng đi đến băng ghế trước đàn, mở nắp hộp đàn lên, tranh thủ thời gian tập luyện, khúc nhạc “Bùm chát bùm chát bùm” tôi đàn rất đơn giản nhưng âm thanh lại vô cùng vang dội. Tôi không cần nhìn nhạc phổ, vì bản nhạc này quá dễ, nghe bao nhiêu lần tại trường, tôi đã thuộc nằm lòng rồi. Tôi chỉ cần đánh chuẩn nốt đen, gắng sức ấn lực ở đầu ngón tay, để đàn ra được khí thế, ra được âm hưởng hùng hồn nhất.
Phòng đàn rất nhỏ, chỉ có thể đặt vừa một người một đàn, Thẩm Thiên Lộ bèn đứng ngoài đợi, anh ngồi trên bậc cửa, nhàm chán nhìn bầu trời sao, ngắm bãi cỏ đen kìn kịt đối diện phòng đàn và những con bò sữa giống Hà Lan đang nằm túm năm tụm ba trên bãi cỏ, chúng là những con bò sữa giống Hà Lan mà giáo sư Mai trải qua trăm nghìn đắng cay khổ cực mới mang được từ Nam Kinh đến đây. Thỉnh thoảng, tôi sẽ ngừng lại, ngoẹo đầu nhìn theo ánh mắt của Thẩm Thiên Lộ, ngắm xem thảm cỏ dưới ánh sáng lấp lánh của các vì sao đêm mang màu tím thẫm hay màu chàm xanh, ngọn cỏ rung rinh đón ánh sáng tựa như có vô số những con đom đóm đang chập chờn, lấp lánh. Thật ra nào có đom đóm, là giọt sương mà thôi. Những con bò sữa béo mập kia không có chút quan niệm nào về tập thể, đứa nhởn nhơ ở đầu Đông đứa dạo bước bên đầu Tây, nhìn qua trông giống những ngọn núi nhỏ dựng trên thảm cỏ. Bò sữa nằm im không nhúc nhích, chúng đang ợ lên nhai lại chỗ cỏ non vừa mới ăn no đấy, đôi lúc thích chí lên, chúng sẽ ngẩng đầu kêu lên tiếng “bò òooooo” trầm thấp, giống như đang chào hỏi đồng loại vậy, hoặc cũng có thể những anh bò đực đang chào hỏi các chị bò cái. Bò ăn nhiều, thải ra cũng nhiều, từng cơn gió mang mùi khai của nước tiểu bò thổi vào phòng đàn, có những lúc khiến tôi khó mà thở nổi. Thế nhưng có vẻ Thẩm Thiên Lộ lại rất say mê, tôi nghe thấy tiếng anh ấy hít sâu, còn đứng dậy huýt sáo vài cái. Ồ, anh ấy thích những chú bò sữa im lìm này. Có lẽ khi còn ở quê nhà Tứ Xuyên, anh ấy cũng từng đi chăn bò nhỉ?
Một tiếng trôi qua rất nhanh, tiếp theo đó là thời gian luyện đàn đặt trước của người khác. Sau khi chúng tôi giao lại chìa khóa phòng đàn thì cùng nhau trở về nhà. Suốt cả quãng đường về, tôi chỉ mải mê suy nghĩ đến ngón đàn và nhạc phổ, chẳng có tâm trạng nói chuyện. Thẩm Thiên Lộ cũng không nói chuyện. Tôi nghĩ, anh ấy thích tôi yên lặng, không quấy rầy anh ấy như thế này đấy.
Thế nhưng, khi đi qua nhà thờ có ánh nến lay lắt kia, chẳng biết anh ấy bị cái gì kích thích mà thốt lên một câu không đầu không cuối: “Em đàn khó nghe thật đấy.”
Tôi chết đứ người: “Anh nói gì?:
“Anh nói, em đàn khó nghe thật đấy, giống như tiếng búa gõ lên thớt, gõ đến nỗi anh váng cả đầu.”
Tôi vứt chiếc đòn gánh trong tay, giậm chân bình bịch mấy cái liền. Nếu không phải đám dơi trốn trong vườn hoa của nhà thờ đột nhiên bay ào ào ra dọa, tôi nhất định sẽ lao lên đẩy anh ấy ngã nhào, sau đó mặc kệ anh mà tự mình chạy về nhà.
Mấy ngày liền sau đó, tôi cứ canh cánh trong lòng mãi, nhất quyết không nói chuyện với anh ấy. Thật bực mình, anh ấy đã chạm đến đàn piano bao giờ đâu, chẳng biết phím đen phím trắng có tổng cộng bao nhiêu phím, dựa vào cái gì mà coi thường tôi? Hừ, “giống như tiếng búa gõ lên thớt” cơ à, búa có thể gõ ra “Bùm chát bùm chát bùm” sao? Có thể khiến cho toàn bộ bạn học hát đồng thanh theo nốt nhạc của tôi sao?
Dù sao thì, Thẩm Thiên Lộ không ưa tôi, tôi càng phải ra sức đàn, phải đàn giỏi như Phạm Thư Văn ấy, một ngày nào đó đột nhiên thể hiện tài năng trước mặt anh ấy, khiến anh ngạc nhiên rớt cả cằm mới được.
Suy nghĩ này khiến tôi ra sức phấn đấu, không biết từ lúc nào tôi bắt đầu nghiêm túc học hành, siêng năng luyện tập, lúc đi đường cũng lẩm bẩm khuông nhạc của Beyer hoặc là Czerny. Phạm Thư Văn vô cùng ngạc nhiên với điều này, bạn ấy hỏi tôi có phải Thượng Đế đã chạm tay lên đầu tôi không, tôi bèn đáp lại:“Thượng Đế chính là ma quỷ, bởi vì Ngài không tồn tại.” Phạm Thư Văn bị dọa đến tái mét mặt mày, vỗ một cái vào lồng ngực: “Hãy tha thứ cho cậu ấy, chúa Jesus của con, xin hãy tha thứ cho cậu ấy!”
Ha ha, tất cả điều này thật thú vị, tôi lại vì một câu nói của Thẩm Thiên Lộ mà đặt ra mục tiêu đầu tiên trong cuộc đời mình.
Nếu có một ngày Thẩm Thiên Lộ phải rút lại lời nói của mình, vậy thì vẻ mặt của anh ấy sẽ như thế nào nhỉ? Tôi mong đợi quá đi thôi.