7. Đầu năm 1964, Điểu Lên khăn gói lên đường đến Chiến khu Đ tại núi Bà Đen. “Đi học”. Nghe nó lạ lẫm làm sao ấy. Anh vừa vui mừng lại vừa lo lắng, hồi hộp. Nhưng thật vinh dự vì được cấp ủy K4 cử đi học lớp “Thanh niên thi đua và đối tượng Đảng”. Chỉ lo là không biết phải học như thế nào, có cần đến cái chữ không? Những loại công cụ săn bắn hoặc dụng cụ lao động anh đều sử dụng thuần thục một cách tự nhiên. Ngay cả việc cầm súng, chỉ cần được hướng dẫn sơ qua là anh đã trở thành tay thiện xạ rồi. Vậy mà giờ được đi học, anh lại thấy lo.
Lên lớp nghe thầy giảng bài, một số đồng chí người Kinh còn ghi ghi, chép chép. Riêng các đồng chí là người đồng bào thì đều giống Điểu Lên, chỉ ngồi nghe một cách say sưa, nghiêm túc. Tất cả đều thu vào trí nhớ, vì người đồng bào các anh chưa hề biết cái chữ là gì. Cuối cùng, khóa học kết thúc sớm hơn thời gian dự kiến trong sự chia tay đầy lưu luyến. Tuy vậy, anh vẫn nôn nao ngày trở về.
Anh vẫn muốn tận mắt chứng kiến tình hình thực tế ở Bom Bo và vùng căn cứ. Bởi trong thời gian đi học, anh cũng nắm được tình hình chiến sự ở quê nhà: “Địch đã tăng cường củng cố các cơ sở đồn bót, chốt, điểm quân sự dọc theo quốc lộ 14 và đường 10. Chúng huy động thêm một chi đoàn xe bọc thép, một số đại đội bảo an và tiểu đoàn 34 biệt động cho vùng kiểm soát Bù Đăng - Bom Bo…”. Địch đã tăng cường lực lượng quân sự, ắt sẽ tổ chức càn quét. Anh muốn về ngay để kịp cùng góp sức chống càn.
***
Vào một ngày giữa tháng 5 năm 1964, Khu ủy Khu 6 cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 6 đã tổ chức hội nghị để kiểm điểm tình hình và đề ra nhiệm vụ, kế hoạch cho chủ trương Thu - Đông 1964. Tiểu đoàn 840 cơ động là tiểu đoàn chủ lực của T6 được tăng cường cho mũi nhọn Phước Long - Đường 10 theo hướng dẫn của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền. Vì trọng điểm của chiến trường Phước Long là khu vực Bom Bo - Đường 10.
Cũng trong thời điểm này, tiểu đoàn 52, trung đoàn 5 biệt động, xe tăng, pháo cùng máy bay yểm trợ của địch đã ồ ạt tiến công vào khu căn cứ Nửa Lon. Quân dân Bom Bo - Đắk Nhau đã sát cánh cùng lực lượng vũ trang C270 của tỉnh và Tiểu đoàn 840 (quân chủ lực Quân khu 6), quyết liệt chặn đánh địch ngay từ tuyến ngoài. Đồng chí Điểu Krú chưa qua hết cơn sốt, lưng còn đang địu con mà vẫn hăng say chiến đấu. Anh thoắt ẩn, thoắt hiện, dũng cảm, mưu trí. Anh chỉ huy tiểu đội du kích Bom Bo đánh địch từ xa bằng bẫy chông treo; dẫn dụ địch khéo léo để chúng sụp hầm chông; chiến đấu gần bằng vũ khí... Nhờ tinh thần chủ động, bố phòng tốt và chí khí kiên cường, dũng cảm của lực lượng chiến sĩ mà ta đã buộc bọn địch phải rút lui trong thất bại thảm hại. Chúng tháo chạy, bỏ lại sau lưng với hơn 30 tên bị tiêu diệt; một xe tăng bị phá hủy và nhiều vũ khí, đạn dược. Sau trận thắng chống đợt càn quét quy mô ấy của địch, Điểu Krú được tuyên dương là “Dũng sĩ tiêu diệt địch”. Thật oai dũng, một mình anh đã tiêu diệt gần chục tên giặc. Điểu Lên ngưỡng mộ vô cùng, vì mình chỉ giết được có vài tên đã vui mừng khôn xiết rồi.
Cuối năm 1964, K10 được thành lập và đồng chí Tư Quý làm Bí thư. Ta đẩy mạnh hoạt động tiến công trên toàn tuyến với lực lượng phối hợp của quân và dân Bom Bo - Đường 10, K4, K58, Lực lượng vũ trang 279 của tỉnh, Tiểu đoàn 840 Khu 6 với mục tiêu: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân, tiến công địch bằng cả ba mũi quân sự - chính trị - binh vận”. Quyết tâm phá rã, phá banh toàn hệ thống ấp chiến lược của giặc.
Mục tiêu đầu tiên là cứ điểm Bom Ría. Đúng 24 giờ ngày 5 tháng 9 năm 1964, đồng chí Đại úy Vũ Ngọc Đài (Chính trị viên Tiểu đoàn 840) cùng đồng chí Tiểu đoàn trưởng chỉ huy Đại đội 5 Đặc công, Đại đội 1 (Tiểu đoàn 840), K4, K58 phối hợp thành hai mũi tiến công vào cứ điểm của địch. Bị đánh úp bất ngờ, lực lượng bảo an phản công yếu ớt rồi lớp thiệt mạng, lớp thương vong, lớp cắt rừng bỏ chạy về Đức Hạnh. Chúng đợi ta rút quân một thời gian rồi mới dám quay trở lại cứ điểm.
Khuya ngày 5 tháng 11 năm 1964, ta tiếp tục tiến công vào ấp chiến lược Bù Bông. Ban chỉ huy và cấp ủy trận đánh do Quân khu 6 thành lập. Đồng chí Nguyễn Như Phong (Tỉnh đội trưởng Phước Long) làm Chỉ huy trưởng; Đại úy Nguyễn Thông (cán bộ Tham mưu Quân khu 6) làm Chỉ huy phó; Đại úy Vũ Ngọc Đài (Chính trị viên Tiểu đoàn 840) làm Chính trị viên phó.
Ta bố trí làm ba mũi bao vây đánh viện. Mũi thứ nhất: Tiểu đoàn 840 phục kích giữa Bù Bông - Bom Ría, đón đánh địch chi viện từ Bom Ría và tiểu khu. Mũi thứ hai và mũi thứ ba: cùng bày thế trận bao vây và đánh viện từ chi khu - ngã ba đường 10 rồi tiến công vào Bù Bông. Ngay đêm đó, ta đánh tan trung đội dân vệ, chiếm ấp rồi vận động nhân dân phá ấp, cắt rừng về vùng giải phóng. Chỉ để lại một tiểu đội tăng cường bám ấp. Toàn đại đội chuyển sang phục kích đoạn giữa cầu sông Đắk Lấp và ngã ba đường 10. Tờ mờ sáng ngày 6 tháng 11 năm 1964, Đại đội 2 ta chặn đánh đại đội bảo an 113 của địch ngay trên đường từ Bù Đăng xuống chi viện. Tên thiếu úy Thăng (đại đội trưởng bảo an) cùng 7 tên lính bị bắt và nhiều tên bị tiêu diệt, cuối cùng địch hoảng loạn bỏ chạy.
Tiểu đoàn 840 sau hai ngày phục kích mà không thấy địch đến, liền chuyển hướng vây đánh Bom Ría. Một đại đội bảo an cùng hai trung đội dân vệ của địch chống cự trong thời gian ngắn rồi hoảng loạn bỏ đồn, cắt rừng, vượt sông chạy về Phước Tín. Đồng bào và chiến sĩ ta thêm lần nữa đón mừng chiến thắng.
Từ những trận chủ động tiến công thăm dò địch bằng chiến tranh du kích lẻ và lần đầu tiên tiến công địch bằng thế trận bao vây, đánh viện đã liên tiếp giành thắng lợi. Ta tăng cường huấn luyện binh sĩ, củng cố lực lượng, bổ sung vũ trang, chuẩn bị sẵn sàng cho kế hoạch mùa khô năm 1965.
***
Tháng 2 năm 1965, Điểu Lên chính thức bước vào hàng ngũ của Đảng. Anh về K29 làm Đội trưởng Đội V2, vừa đánh địch, vừa móc nối liên lạc, xây dựng cơ sở với chủ trương “Đánh đến đâu, giải phóng đến đâu thì xây dựng cơ sở cách mạng, củng cố và mở rộng vùng giải phóng đến đó”.
Tháng 4 năm 1965, địch lại tổ chức một trận càn lớn vào Bom Bo và vùng căn cứ. Quân dân Đắk Nhau cùng lực lượng vũ trang vùng căn cứ quyết liệt phản công, kìm hãm mũi tiến công cường tập có máy bay trực thăng đổ bộ và pháo yểm trợ mở đường của địch.
Quân và dân Bom Bo cùng lực lượng vũ trang địa phương phản công kịch liệt vào quân lính sư đoàn 23 và xe tăng yểm trợ của giặc. Điểu Lên sát cánh cùng đồng đội gan dạ tiến công trực diện vào đoàn xe tăng. Bị đội hỏa lực B-41 của ta áp chế, đoàn xe tăng khựng lại khi chiếc dẫn đầu trúng đạn. Quân ta lấy đà tiến lên, quyết đẩy lùi mũi tiến công từ ngã ba đường 10 vào hướng cường tập của chúng.
Xã đội trưởng Điểu Xiêng dũng cảm chỉ huy đồng đội quyết tiêu diệt bọn lính bộ của sư đoàn 23. Anh mưu trí dẫn dắt để bọn giặc rơi vào trận bố phòng của làng kháng chiến. Bọn giặc nháo nhào rơi vào những bãi chông, hầm chông và vướng bẫy chông treo, lớp chết, lớp bị thương. Anh kiên cường một mình quyết chiến với gần một trung đội lính địch. Bọn chúng quá đông, vây hãm. Anh bắn đến viên đạn cuối cùng, tiêu diệt thêm một số tên nữa rồi phá vũ khí, không để bị địch tịch thu. Anh biết mình không thể thoát khỏi vòng vây bèn tự sát nhưng không chết được nên bị địch bắt.
Suốt cả buổi chiều tiến công không thành, đến gần tối, chúng sợ bị ta phản công nên vội vã rút lui với sự hao tổn hơn 30 tên và bị phá hủy 3 máy bay, 1 xe tăng. Cuộc càn của địch bị bẻ gãy và âm mưu gom dân của chúng bị thất bại.
Điểu Xiêng bị chúng bắt đưa về Đức Phong rồi tìm mọi cách để mua chuộc, dụ dỗ nhưng không thành. Chúng tra tấn dã man rồi sát hại anh, sau đó chặt đầu anh cắm trên cọc nhọn giữa đường 10 để uy hiếp tinh thần đồng bào.
Bơ Rơi hỏa tốc cắt rừng vừa đi vừa chạy, vì cô hiểu mức độ quan trọng của bức thư khẩn. Có tiếng pháo xa rồi tiếng trực thăng vọng tới. Cô cảnh giác nhảy xuống hầm. Cô nóng ruột quan sát, không biết con chuồn chuồn này đi do thám hay đã ngắm được mục tiêu nào rồi mà cánh quạt của nó cứ quay rin rít trong gió, quần đảo cả chục vòng rồi mà vẫn chưa chịu đi. Nó đứng lại. Hình như nó đã phát hiện được mục tiêu. Nó dần dần hạ thấp rồi rượt đuổi theo một bóng người nhỏ nhắn đang cố sức vượt qua khu đất trống thẳng hướng vào bìa rừng. Những tia lửa đạn chói tai cứ phóng ra vùn vụt vây lấy cái bóng nhỏ nhắn ấy. Bơ Rơi nhìn thấy rõ hơn rồi. Chính là đồng chí nam giao liên người Kinh vừa xuất phát trước khi cô bước vào nhận nhiệm vụ. Bên phải, bên trái, chỉ còn vài bước chân nữa là đồng chí ấy lọt vô bìa rừng rồi. Ôi Yang ơi! Cầu xin Yang phù hộ. Chỉ cần lọt vô rừng là thoát. Không! Con chuồn chuồn vừa vọt lên cao kèm theo một loạt bom đen trùi trũi trút xuống. Những gốc cây ven rừng cùng đất đá, bụi khói bị vốc ngược vãi tung lên trời rồi ném mạnh xuống từng đợt, từng đợt theo những tiếng nổ xé trời. Bơ Rơi thấy mắt mình cay cay, ngực mình nhoi nhói. Tiếng động cơ xa dần. Bơ Rơi ngắm thẳng hướng những hố bom còn đang bốc khói mà chạy tới. Cô cố đào bới tìm kiếm trong tuyệt vọng, rồi cuối cùng cô quyết định sẽ quay lại tiếp tục tìm kiếm sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Bơ Rơi thất thểu quay về vì kết quả tìm kiếm cũng giống như lần đầu, cộng thêm cái tin dữ là vi Xiêng bị địch sát hại. Cái cảm giác giằng xé khi chứng kiến đồng đội của mình bị bom vùi mà vẫn trơ mắt nhìn theo bất lực đã khiến cơ thể cô như bị nhũn ra rồi lần mò gom nhặt từng tế bào và gắn kết lại. Còn người anh dũng cảm của cô, chính là máu thịt, chân tay của cô, đó là nỗi đau mất đi một phần cơ thể. Cô cảm thấy cả hệ thần kinh bị tê liệt, tất cả các giác quan bị xơ cứng. Cô như một cỗ máy bất di bất dịch. Rồi không hiểu bằng cách nào mà cô đã về được tới nhà. May ngồi thẫn thờ trong nước mắt. Cô chỉ biết tựa đầu vào vai may ngồi lặng im bên cạnh. Cô biết có nói gì cũng vô ích. Chắc hẳn nỗi đau đang giằng xé may, cứ để cho nó vơi bớt theo những giọt nước mắt kia ra ngoài, rồi số còn lại sẽ được nén chặt xuống tận đáy lòng. Hai người anh này được may thương nhất. Ngoài vi Xiêng ra thì còn vi Lanh đang tham gia ở chiến trường Phước Long. Khi vớp chết, nhờ có ba anh em Bơ Rơi mà may đã gượng dậy được. Trước khi tham gia vào lực lượng vũ trang địa phương, hai anh ấy đã cố gắng thuyết phục may đồng ý cho ông già Đắt về sống chung. Vì muốn hai anh ấy yên lòng nhập ngũ mà may đã đồng ý. Vậy là ông già Đắt bỗng dưng trở thành vớp của Bơ Rơi.
Cũng nhờ vớp Đắt khéo khuyên nên may mới chịu húp chén canh thụt rồi đi ra làng giã gạo. May nói có buồn cũng không thể quên giã gạo nuôi quân. Hạt gạo của may giã vừa góp phần nuôi bộ đội và cũng là để nuôi vi Lanh mà. May là vậy đó.
Địch vẫn liên tục tung bọn thám báo, biệt kích lẻn vào phá hoại nương rẫy, hoa màu của đồng bào. Máy bay do thám, trinh sát, trực thăng của địch thì ngày ngày quần đảo. Hễ chúng phát hiện khu vực nào thấy có màu vàng của lúa là thả bom na-pan đốt cháy rụi. Chúng kìm cặp, kiểm soát gắt gao để đồng bào ở các ấp chiến lược không thể liên lạc được với vùng kháng chiến. Nương rẫy bị đốt phá, nguồn tiếp tế từ vùng địch bị chặn. Thiếu gạo thì ăn rau, củ rừng. Thiếu muối thì đốt rễ tranh, cây lồ ô rồi ngâm, lọc lấy nước ăn thay muối. Nhưng nhà nào nhà nấy cũng đều hăng hái góp những gì mình thu hoạch được vào kho hậu cần. Vẫn chưa đủ, họ còn tích cực tìm mọi cách lẻn vào các ấp chiến lược để vận động bà con trong ấp hỗ trợ lương thực thực phẩm và thuốc men cho cách mạng.
***
Sau khi điều nghiên thật kỹ, Bộ Chỉ huy Miền và Quân khu 6 đã quyết định mở Chiến dịch Đồng Xoài - Phước Long, nhằm tiêu diệt sinh lực tinh nhuệ của địch, mở rộng địa bàn giải phóng. Dự kiến đêm mùng 10 tháng 5 năm 1965, quân ta đồng loạt tiến công trên tất cả các mặt trận Đồng Xoài. K ủy giao cho Bom Bo thực hiện nhiệm vụ hậu cần. Đây chính là yêu cầu trọng tâm mà Bom Bo tích cực thi đua phục vụ cho Chiến dịch Đồng Xoài - Phước Long.
Bom Bo đã dốc toàn lực để phục vụ cho chiến dịch. Tất cả bộ đội, du kích đều tăng cường ra ngoài trận tuyến. Thanh niên nam, nữ tích cực làm dân công tải gạo, tải đạn. Người dân còn lại thì từ tờ mờ sáng đến tối mịt vẫn hăng say tăng gia sản xuất trên nương. Vào mùa, tất cả dân làng hợp sức lại, bất kỳ nương lúa nhà ai vừa chín thì cả làng già, trẻ, gái, trai cũng đều tập trung tuốt cho xong lúa mang về. Chỉ cần hạt vừa chín tới, lá lúa còn xanh là tuốt được rồi. Tuốt lúa chạy giặc mà, quyết không để chúng đốt hết lúa trên nương, quyết không thể để chúng đắc ý nhìn mình chịu thua. Đêm, đốt đuốc giã gạo đến gần sáng để đủ cung ứng cho chiến trường.
Thời điểm này, sóc Bom Bo trở thành trung tâm tiếp tế lương thực cho bộ đội tham gia chiến dịch. Với tinh thần yêu nước, một lòng theo Đảng, theo cách mạng, đồng bào S’tiêng Bom Bo đã cùng chung tay: “Toàn sóc Bom Bo quyết tâm giã gạo nuôi quân. Tất cả vì chiến dịch”.
Tuy trong điều kiện hết sức khó khăn, dân làng vẫn tích cực ủng hộ tất cả số lương thực hiện có cho chiến dịch, có đợt lên đến 2.000 xá lúa, 8.000 gốc mì; có gia đình ủng hộ cả nương lúa còn đang ngậm sữa.
Trước yêu cầu nóng bỏng của chiến dịch, người dân Bom Bo - Đắk Nhau phải huy động toàn bộ cối chày hiện có; họ còn sáng tạo làm ra những cái cối liền nhau trên một thân cây sao rồi tích cực giã cả chày tay lẫn chày đạp bằng chân. Đến thời kỳ cao điểm cận chiến dịch, toàn dân già trẻ đều ra quân giã cả ngày lẫn đêm. Suốt ba ngày đêm giã liên tục không ngơi nghỉ, đồng bào cả sóc Bom Bo đã làm nên kỳ tích của những đêm không ngủ để cung cấp cho chiến dịch đến 5 tấn gạo, vượt cả chỉ tiêu.
Bộ đội hậu cần ở các đơn vị hết đoàn này đến đoàn khác, tấp nập về liên hệ với Kinh tài K để nhận gạo chuyển ra tuyền tuyến.
Khí thế sôi nổi về đêm ở vùng kháng chiến cứ rộn ràng như ngày hội. Bộ đội, du kích vừa đánh trận về cũng hòa chung tiếng chày cùng dân sóc. Ánh lửa bập bùng của đuốc lồ ô phần phật sáng bừng trong đêm. Tiếng chày ba, chày tư của những chàng trai, cô gái cứ nhịp nhàng hòa quyện vào nhau như khúc nhạc rừng; tiếng chày đôi, chày ba, chày chân của phụ nữ, người già vẫn dập dồn theo hương trầu, khói thuốc. Tiếng chày non nớt của trẻ thơ thì lại trong veo, rộn rã theo tiếng cười rúc rích... Cái khung cảnh rất thật ấy cứ khắc họa tự nhiên như một bức tranh sống động, nó huyền diệu như cõi thần tiên trong cổ tích, nó hùng tráng như pho sử ca oai dũng, nó vi diệu như một tuyệt tác trong huyền thoại.
***
Giữa năm 1965, một cánh quân chủ lực của ta bí mật hành quân lên hướng mở ra chiến dịch. Họ cắt rừng mà đi để đảm bảo bí mật. Họ hành quân đến điểm X để nhận gạo. Trong chuyến đi này có một đồng chí Chính trị viên làm công tác dân vận và phụ trách phong trào, là Đoàn trưởng của Đoàn Văn công Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Anh được Khu ủy biệt phái tăng cường ra mặt trận, tham gia chiến dịch Đồng Xoài - Phước Long. Đêm đó, tiếng chày giã gạo vang vọng, rộn rã, nhịp nhàng trong sóc đã thúc giục đôi bàn chân anh tiến dần, tiến dần đến trước cửa động thiên thai. Đêm rừng hoang dã giữa ánh đuốc lồ ô bập bùng, những chiến sĩ giải phóng quân, những cô sơn nữ, những trai làng, người già, trẻ nhỏ... Họ cứ nâng chày lên rồi thả xuống nhịp nhàng, đều đặn làm vang lên một chuỗi tiết tấu vui nhộn như bản nhạc; đôi bàn chân với tư thế đứng vững chắc, chỉ điều khiển chày bằng đôi tay, đôi vai và lắc cặp mông uyển chuyển theo nhịp chày như đang múa. Có những em bé được địu trên lưng các bà mẹ cứ đung đưa theo nhịp chày; lắc lư theo tay sàng, tay sảy mà vẫn hồn nhiên say giấc như những thiên thần tí hon. Vũ điệu rừng khuya trong ánh lửa bập bùng, đúng là tuyệt tác! Những ấp ủ về tiếng chày giã gạo từ thời thơ bé của anh bỗng bừng sống dậy. Anh tự tin rằng mình sẽ biến cái ước mơ ấy trở thành hiện thực trên chính mảnh đất này.
“Bom Bo”, người đến rồi không nỡ đi, đi rồi cứ muốn quay trở lại. Với tư cách một nhạc sĩ đi thâm nhập thực tế để sáng tác, vậy là Xuân Hồng đã được Khu ủy đồng ý cho ở lại Bom Bo một thời gian theo nhu cầu công việc của anh. Anh đã hòa nhập vào cộng đồng dân sóc như thể mình chính là một thành viên của người đồng bào S’tiêng vậy.
***
Vậy là “Cái thai nghén ấy đã tượng hình, nhưng nó vẫn rất cần được bồi bổ cho đủ chất dinh dưỡng thì mới đủ lớn, đủ khỏe mạnh, để khi được sinh ra mới đủ sức vẫy vùng và dẻo dai sống mãi theo thời gian...”. Anh mỉm cười mãn nguyện, vì đây chính là môi trường thích hợp để cho anh dưỡng thai và sinh sản. Ngày. Anh cùng dân làng vót chông, đặt bẫy, rèn vũ khí, chống càn hoặc tuốt lúa trên nương. Đêm. Anh cùng thắp đuốc lồ ô, cùng nâng chày giã gạo. Máy bay Mỹ đến, anh cùng đồng bào dập tắt lửa rồi đưa người già, trẻ em nhảy xuống hầm trú ẩn. Đói: Cùng chia nhau miếng cơm nắm, nhúm rau rừng, quả dại.
Tháng 5 năm 1965, được tin thắng trận từ chi khu Phước Bình - Phước Long. Bà Dệt vui mừng thấy rõ. Nhưng niềm vui chưa trọn vẹn thì cả nhà nghe tin Điểu Lanh hy sinh trong trận ấy. Một lần nữa, bọn giặc lại cướp mất đi đứa con trai thứ hai. Bà như chết lặng, ngồi bất động. Bơ Rơi đã trưởng thành hơn, gan dạ hơn, nên đã cố nén nỗi đau vào trong sâu thẳm để động viên, an ủi may. Nhưng cô năn nỉ cỡ nào may cũng không nghe.
Bơ Rơi nghĩ: “Lần này phải nhờ đến war Xuân Hồng thôi”. Ngày ấy, khi war Xuân Hồng đến Bom Bo lại thích ở chung hầm với vớp nên may rất vui.
Thường thì câu nào war Xuân Hồng nói ra cũng đều rất hay nên cả nhà ai cũng thích nghe war nói chuyện. Bơ Rơi muốn chạy đi tìm war nhưng không thể bỏ may ở nhà một mình nên đành phải đợi. Đến chiều tối vớp cùng war mới chịu về nhà. Bơ Rơi đi dọn cơm để vớp và war nói chuyện với may.
Cuối cùng, bà Dệt cũng gạt nước mắt mà ăn. Bà thấy Xuân Hồng nói rất có lý. Ăn để lấy sức mà sống, để đủ sức mà giã gạo nuôi quân. Bộ đội ăn no mới có sức để đánh thắng giặc. Thắng giặc mới trả thù được cho Điểu Xiêng, Điểu Lanh và các chiến sĩ đã hy sinh. Thắng giặc thì đồng bào mình mới có cuộc sống tự do như xưa được... Đêm đó, chính những nỗi đau biến thành lực đẩy, khiến tiếng chày của bà càng nhịp nhàng, rắn rỏi hơn. Bà giã liên tục suốt đêm không chịu cho ai thay chày hết.
Đêm mùng 9 tháng 6 năm 1965, ta đồng loạt tiến công chi khu Đồng Xoài, làm chủ phần lớn chi khu. Các đơn vị chủ lực của ta chặn đánh lính đổ bộ bằng máy bay địch liên tiếp mấy ngày liền, gây cho chúng không biết bao nhiêu thiệt hại. Ta tiêu diệt và làm tan rã hai tiểu đoàn quân địch, bắn rơi 8 máy bay, thu 337 súng các loại, 36 máy vô tuyến cùng nhiều quân trang, quân dụng khác. Một cảnh sát cùng một trung đội dân vệ đầu hàng và nộp cho ta 44 khẩu súng. Đồng bào Bom Bo nô nức mở hội mừng chiến thắng.
***
Được sự tăng cường viện trợ quân sự của tổng thống Mỹ, địch tích cực củng cố lực lượng quân sự ở Bù Đăng - Bom Bo; chúng tăng cường thêm lực lượng thiện chiến đánh thuê và quân viễn chinh với sự huấn luyện và chỉ đạo của cố vấn Mỹ. Chúng lập sân bay dã chiến, huy động pháo hạng nặng, xe tăng, trực thăng cùng một số vũ khí tối tân khác vào các yếu khu với chiến thuật “Tìm diệt, đẩy mạnh chiến tranh cục bộ”. Chúng tăng cường các đợt càn quét, đánh phá vùng căn cứ.
Đứng trước âm mưu thâm độc của địch, Tỉnh ủy cùng K ủy đề ra chủ trương củng cố các sóc kháng chiến cả về lực lượng vũ trang, hậu cần, nhằm nâng cao đời sống xã hội và cảnh giác, bố phòng ở vùng căn cứ. Đại đội C290, C270 của lực lượng vũ trang địa phương; Tiểu đoàn 168, 368, 568 của tỉnh; các đơn vị của Trung đoàn 161, 346 của Quân khu 6 phối hợp với các sư đoàn chủ lực tăng cường huấn luyện quân sự; hỗ trợ đồng bào tăng gia sản xuất và tích cực rào làng, đào hầm, vót chông, đặt bẫy; dạy chữ cho đồng bào, tổ chức giao lưu văn nghệ quần chúng... và phong trào nào cũng đều có mặt Xuân Hồng. Chỉ có thời gian nghỉ ngơi ít ỏi trong mỗi ngày đêm của quân và dân vùng kháng chiến thì anh mới tranh thủ viết ra những ý tưởng mà mình đã sắp sẵn trong đầu. Có bao nhiêu thì viết ra bấy nhiêu, sau đó đọc và chắt lọc, chỉnh sửa, ngắt bỏ bớt rồi viết bổ sung. Anh cứ đọc đi đọc lại bài thơ “Ánh đuốc lồ ô trên căn cứ Nửa Lon” của tác giả Võ Hồng Sơn. Bởi vì mỗi lần đọc đều có một cảm nhận khác nhau. Đọc để tham khảo, học hỏi; đọc để tìm những điểm tương đồng của tác giả bài thơ ấy với nguồn cảm xúc mà mình đã ghi nhận được trong bối cảnh thực tế. Anh đang viết, phải bỏ dở để đi chống càn; đang viết, lại bị bom; đang viết, nghe tiếng pháo phải cùng đồng bào tìm nơi ẩn nấp…
Không biết bao nhiêu lần anh bị bọn giặc phá hỏng đi nguồn cảm hứng. Trải qua bao vất vả, gian nan dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù; đón nhận những thâm tình chân chất của đồng bào khi cùng nhau chia ngọt, sẻ bùi; cùng ngủ hầm, cùng chiến đấu chống càn, chạy loạn. Cuối cùng cũng đến ngày sinh nở. Những âm điệu trầm hùng, những tiết tấu vui nhộn, những ca từ mộc mạc, trong sáng mang đậm màu sắc dân dã của núi rừng với âm hưởng của tiếng chày giã gạo thắm đượm tình quân dân. Rồi anh đã hát cho đồng bào nghe giữa ánh đuốc lồ ô bập bùng; giữa dàn nhạc đệm “cắc cùm cum…” của vũ điệu núi rừng, dân sóc; giữa hương rượu cần ngây ngất trong đêm. Say! Say với tình đất, tình người; say với sự ra đời của “Tiếng chày trên sóc Bom Bo”. Đau! Đau với nỗi mất mát đau thương của người dân chịu cảnh lầm than, đói khổ; đau với nỗi đau oằn mình của mảnh đất triền miên bị bom cày đạn xới. Buồn! Buồn bởi sắp phải chia xa; buồn bởi chưa biết tìm đâu ngày tao ngộ. Trong khói lửa chiến tranh, lần nào gặp nhau cũng có thể là lần cuối. May mắn lắm mới nói được lời chia tay, không thì …
Tin thắng trận dồn dập đưa về. “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy và quốc sách "ấp chiến lược” của chúng đã bị phá hủy. Kết thúc chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài trong 64 ngày đêm quyết liệt một cách vẻ vang, đồng bào phá ấp chiến lược nô nức trở về sóc cũ làm ăn sinh sống.
***
Phải mất cả năm trời củng cố lại sóc, nương rẫy, mùa màng, đời sống người dân mới dần ổn định. Vừa kết thúc mùa bội thu đầu tiên sau giải phóng đường 10 năm 1965. Cuối năm 1966, tất cả các sóc gần xa đều nô nức chuẩn bị cho Lễ hội Cúng mừng lúa mới. Rộn ràng nhất vẫn là K đường 10. Từ Bom Bo 1, 2, 3 đến Bom Ri Rách, Tổng Côn, Bù Bông, Bom Ría... đều bắt tay vào chuẩn bị tụ hội làm lễ nho nhỏ, đơn sơ để tạ ơn Đất, Trời, Thần Lúa cùng các thần linh, tổ tiên đã phù hộ cho dân làng được nhiều bông, nhiều lúa và cầu mong các vị tiếp tục phù hộ mùa sau mưa thuận, gió hòa, nhà nhà no đủ, lúa chất đầy bồ, gà heo đầy đàn... và đặc biệt là tiếp thêm sức mạnh để quân dân ta “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Đúng ngày Rằm tháng Chạp, trên sân làng đã bày sẵn lễ vật gồm: Một đầu heo, ba con gà luộc, ba ché rượu cần, 30 can rượu nếp, 30 ống cơm lam, ba tù canh thụt, 30 xiên thịt nướng, ba đĩa nhíp xào, ba hao xôi nếp, rơm vàng đầu vụ, rượu ủ lâu ngày (tất cả đều làm tượng trưng cho đủ lễ nhưng nhỏ hơn hoặc ít hơn để còn tiết kiệm), nong, nia sàng lúa, trầu cau, tiết gà, gạo nếp giã ngày, nêu dựng giữa sân. Bơ Rơi, Srưc cùng các chàng trai, cô gái tay sàn, tay nia, tay chày chuẩn bị. Điểu Sen nghiêm trang trong đội cồng chiêng.
Chủ lễ nghiêm nghị đọc lời khấn bên cây nêu và mâm lễ: “Hỡi các thần linh: Thần Trời - Bra Trốk, Thần Đất - Bra Ter, Thần Mưa - Bra Jieng, Thần Lúa - Bra Va… Hôm nay ngày lành tháng tốt, bà con dân sóc Bom Bo chúng tôi tổ chức làm lễ xin xa wa m’ây…”.
Vừa dứt lời khấn thì tiếng cồng chiêng vang lên. Già làng phết tiết gà lên cây nêu rồi hút rượu cần khai lễ. Điệu cồng chiêng nhịp nhàng, réo rắt theo từng động tác nhún nhảy của cả đội. Dân làng bắt đầu nối đuôi nhau múa hát vòng quanh sân lễ. Bơ Rơi, Srưc, Điểu Sen cũng vừa buông tay chày, tay sàn, tay sảy để tháp tùng theo đội múa. Sân lễ sáng rực muôn sắc màu. Thịt nướng, rượu cần lâng lâng, ngây ngất vô tình đẩy các chàng trai, cô gái xích lại gần nhau hơn. Hương men quện vào hơi thuốc cứ râm ran theo những câu chuyện của dân sóc, nương rẫy từ các người già. Con nít không màng đến chuyện ăn uống mà cứ say sưa chạy nhảy, nô đùa. Cái nắng chiều đã khuất dần sau dãy núi xa xa, cũng là lúc các bà mẹ địu con về nhà.
Bỗng tiếng chị phát thanh viên của Đài Phát thanh Giải phóng vang ra lanh lảnh. Bơ Rơi nghe rõ mồn một lời giới thiệu: “Sau đây mời quý vị lắng nghe bài hát Tiếng chày trên sóc Bom Bo của nhạc sĩ Xuân Hồng do tốp ca… trình bày”. Không gian sân lễ như chìm trong tĩnh lặng. Phút chốc, tiếng nhạc rộn rã vang lên, tiếp theo là giọng ca sôi nổi của các chàng trai cô gái: “Cắc cùm cum, cắc cùm cum, cắc cum cụp cum…”. Bất giác, điệu cồng chiêng và tiếng chày cũng vang lên nho nhỏ theo tiếng nhạc. Họ bắt đầu vừa múa vừa hát theo, tiếng được, tiếng mất. Sân lễ bỗng bừng lên cái hào khí của tiếng chày giữa ánh đuốc lồ ô bập bùng ngày ấy, chỉ khác là đêm nay còn có cả ánh trăng tròn vành vạnh cùng hòa chung với bao niềm cảm xúc trào dâng.
Tiếng nhạc đã tắt, lời ca đã dứt mà tiếng chày và điệu cồng chiêng vẫn nhịp nhàng, réo rắt, du dương. Có một nỗi nhớ nhung đang hiện hữu trong lòng người dân Bom Bo dành cho người nhạc sĩ ấy, người chiến sĩ ấy…
Đây đó trên các nẻo đường hành quân, cánh võng đong đưa lúc dừng chân trên những cánh rừng, “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” từ ra-đi-ô của chiến sĩ cũng âm vang, lan tỏa.
***
Ca khúc “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” hoàn tất vào cuối thu năm 1965. Nhạc sĩ Xuân Hồng đã hát tặng bà con Bom Bo trong dịp lễ hội mừng thắng trận giữa tiếng chày và tiếng cồng chiêng, dưới ánh đuốc lồ ô bập bùng với hương rượu cần lâng lâng trong hương tình thắm đượm. Anh đã xem nơi này là quê hương thứ hai của mình nên cứ quyến luyến mãi mà không muốn rời xa. Nhưng rồi cũng phải chia tay, anh về đơn vị cũ.
Đầu năm 1966, “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” được dựng cấp tốc và phát trên Đài Phát thanh Giải phóng. Bài hát như một phép màu đã nhanh chóng tỏa lan, đưa cái hồn quê thiêng liêng của sóc Bom Bo đi vào huyền thoại. “Bom Bo” từ đó đã theo bước hành quân của đoàn quân giải phóng đi khắp mọi miền đất nước.
Năm 1967, nhạc sĩ Xuân Hồng được Trung ương Cục và Mặt trận Dân tộc Giải phóng cử làm Trưởng đoàn Nghệ thuật, đưa đoàn đi giao lưu biểu diễn với các nước bạn. Nghệ sĩ Phi Long được theo đoàn làm biên đạo cho các bài hát của Xuân Hồng. Cùng với những tiết mục trong chương trình của Đoàn nghệ thuật Quân Giải phóng, “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” đã vượt cả không gian, thời gian để đi vào lòng người và chinh phục lòng ngưỡng mộ của bạn bè từ các nước láng giềng như: Liên Xô, Hung-ga-ri, Tiệp Khắc, Cu Ba, Triều Tiên, Trung Quốc… rồi vang xa, vang xa. Tiết mục “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” là một minh chứng lịch sử về ý chí quật cường mà đồng bào Bom Bo đã làm nên kỳ tích của những đêm không ngủ; là một thông điệp sắc bén để đưa chân dung của người dân vùng sơn cước ra tiếp sức cùng quân dân ta quyết thắng mọi kẻ thù, để khắp năm châu, bốn biển đều biết đến có làng kháng chiến Bom Bo gắn liền với vùng căn cứ Nửa Lon trong lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cái huyền thoại ấy sống mãi với thời gian và lan tỏa như lời động viên của Bác: “Phải đem chính nghĩa của chúng ta đến với bạn bè quốc tế”.