6. Thị Nết vẫn đứng chôn chân trong bụi rậm lặng lẽ đưa tiễn dâu và dõi theo những diễn biến đang xảy ra. Khi đám trẻ đã mất hút ở cuối đường thì mắt Nết mới nhòe cay. Nết những tưởng mình sẽ nhảy bổ ra để giết chết hai thằng bạn nối khố đã từng hãm hại vi Rê. Nhưng sự bình tĩnh trong tư tưởng cách mạng đã kịp đẩy cái cục hận ấy xuống tận đáy lòng cô. Điều quan trọng nhất là phải ngăn cản, không cho chúng giết bất kỳ ai trong sóc nữa. “Mình cần phải xin chỉ thị của cấp trên”.
“Ông già bị ma lai ăn thịt. Phải tìm giết nó ngay…”. Cái giọng ác ý của hai kẻ hại người cứ văng vẳng bên tai cô. Ngày ấy, trong sóc có già Ray đau nặng rồi chết. Điểu Lơ và Điểu Uông cũng tung tin là bà bị ma lai ăn thịt như bây giờ. Chúng nói sẽ lùng sục tìm cho ra con ma lai ấy và cuối cùng chúng cũng tìm được. Vi Rê chính là mục tiêu của chúng. Sau khi vi Rê bị giết. Mẹ con cô đã bị chúng và dân làng đuổi cùng, giết tận. Từng nhát lao phóng vào vi Rê; từng nhát búa rìu, gậy gộc đập phá nhà cửa mà hai đứa nó làm tiên phong; sự sỉ nhục của loài ma lai rút ruột người bị xua đuổi phải trốn chạy trong nỗi tuyệt vọng khốn cùng của mẹ con cô. Nỗi đau chèn kín nỗi đau. Cô đổ gục trong rừng. Qua cơn khủng hoảng, cô được cấp trên rút về căn cứ và giao nhiệm vụ mới.
***
“Nửa Lon” - vùng căn cứ cách mạng nằm trên địa bàn Đắk Nhau - Bom Bo. Vào giữa năm 1960, đồng chí Phạm Thuận (tức Ba Thu) trực tiếp chỉ huy đội võ trang tuyên truyền làm nhiệm vụ mở đường đến sóc Bom Bo để bắt liên lạc với đoàn công tác từ Bắc vào chi viện cho chiến trường miền Nam. Mũi của đồng chí Nguyễn Văn Phú (tức Ba Phú) đã cắt rừng ròng rã gần hai tháng mà vẫn chưa bắt được liên lạc với đoàn cán bộ từ Bắc vào. Lương thực dần cạn kiệt nên cả đoàn quay về Đắk Nhau lập căn cứ. Trong những ngày đầu gây dựng cơ sở đầy khó khăn, gian khổ. Lương thực thiếu thốn, một đồng chí mỗi ngày chỉ được lưng nửa lon gạo để cầm cự. Chính vì vậy mà căn cứ Nửa Lon được ra đời và theo thời gian đi vào lịch sử. Tuy thức ăn chính chỉ là lá nhíp, măng tre, đọt mây, củ rừng, trái gấm… nhưng được đồng bào che chở, đùm bọc, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi.
Cơ sở cách mạng trong quần chúng nhân dân ngày càng lan rộng. Thanh niên hăng hái tham gia đội vũ trang tuyên truyền, xây dựng căn cứ. Đồng bào già trẻ ở vùng tự do tích cực đào hầm, vót chông, đặt bẫy, lao động sản xuất. Đồng bào ở vùng tạm chiếm, mặc dù phải chịu sự kiểm soát gắt gao của địch vẫn lén lút cung cấp thông tin, lương thực và thuốc men cho vùng cách mạng. Nhưng bọn ngụy quyền rất gian trá. Chúng lập ấp dồn dân, mua chuộc những người đồng bào nhẹ dạ, lười biếng, tham lam về làm việc cho chúng. Vì lợi ích cá nhân mà những người này sẵn sàng làm tay sai cho giặc, hãm hại đồng bào mình. Một mặt, chúng cho bọn côn đồ khát máu tự do cướp của, hãm hiếp dân làng. Mặt khác, chúng cho bọn tay sai là người đồng bào về kích động, tung tin chia rẽ mối quan hệ Kinh -Thượng và hạ uy tín của cách mạng. Chúng còn lợi dụng sự mê tín và đức tin của đồng bào để gây hoang mang trong lòng dân rồi tạo sức ép, buộc đồng bào giết hại cả người thân của mình. Ma lai chính là vũ khí lợi hại nhất mà chúng dùng để đánh vào tư tưởng dân làng và diệt trừ những người đồng bào theo cách mạng. Điểu Lơ và Điểu Uông là tay sai đắc lực của chúng.
Sau khi nắm rõ tình hình, Thị Nết bắt đầu nhận nhiệm vụ chuyển thư mật từ căn cứ đến những cơ sở cách mạng trong lòng địch và chuyển thư từ, thuốc men về lại căn cứ. Hai mẹ con cô sống trong một căn chòi nhỏ gần khu tiền trạm. Hằng ngày, may tìm hái rau quả và đào củ rừng về cung cấp cho bếp ăn, thời gian còn lại thì trồng thêm khoai, bắp. Công việc tuy vất vả nhưng cả hai mẹ con đều phấn chấn lại tinh thần. Hôm nay cô lẻn về trốn trong bụi rậm lặng lẽ đưa ma dâu. Từ thái độ và giọng nói của hai thằng chỉ điểm cho giặc, cô biết chắc chắn là chúng sẽ lợi dụng cơ hội xúi dân làng giết một ai đó mà chúng gọi là ma lai. Mục tiêu của chúng chính là số nam nữ thanh thiếu niên mà chúng nghi là bộ đội, du kích hay giao liên của cơ sở cách mạng. Bỗng dưng cô nảy ra một ý định, nhưng cần phải xin chỉ thị của cấp trên.
***
Mới tờ mờ sáng, sương mù dày đặc, chưa nhìn thấy rõ mặt người. Hai người đàn ông một già, một trẻ đang đứng nép ở bìa rừng hồi hộp chờ đợi. Vừa nhận được ám hiệu, họ lặng lẽ nối gót theo bước chân người dẫn đường. Không mấy khó khăn khi len lỏi qua quãng đường rừng quanh co và cuối cùng, họ đã có mặt đúng hẹn tại khu căn cứ.
Cuối năm 1960, Điểu Lên chính thức trở thành cậu bé liên lạc làm nhiệm vụ đưa thư từ cho cán bộ trong căn cứ. Cũng chính từ cái tính gan lì bẩm sinh cùng sự thận trọng và có cái nhìn tinh tế, nên Điểu Lên luôn hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.
Điểu Lơ cùng Điểu Uông, suốt mấy tháng trời lùng sục truy tìm Điểu Lên. Chúng thay phiên nhau rình rập, theo dõi đường đi, lối về của cả nhà Điểu Lên nhưng không phát hiện một dấu hiệu gì cả. Chúng lại xúi giục một số dân làng tìm bắt ma lai. Ngày nào chúng cũng đến nhà đe dọa, đòi ông Điểu Xét phải giao Điểu Lên cho chúng. Chúng luôn hậm hực vì những câu trả lời của Điểu Xét: “Nó đi bẫy con thú rồi mất tích luôn không thấy trở về, làm sao tao biết được nó ở đâu. Mày cứ tự đi tìm nó đi…”. Không đe dọa được ông Điểu Xét. Chúng quay sang mua chuộc, dụ dỗ Điểu Đách và Điểu Gia Rớ (hai người bác của Điểu Lên). Nhưng lần nào chúng cũng đều ra về trong thất vọng.
Sau khi xin được chỉ thị của cấp trên, mẹ con Nết được một cán bộ cơ sở nằm vùng đưa về sống chung. Phải mất cả tháng trời học thêm cách ăn mặc, cười cợt, đi đứng, nói năng. Giữa năm 1961, ở Bom Ría bỗng xuất hiện một cô sơn nữ làm điên đảo cả lực lượng bảo an, dân vệ của địch. Chúng tự gây mâu thuẫn rồi đánh nhau, thậm chí còn bắn giết lẫn nhau.
Chỉ trong một thời gian ngắn, tên đại đội trưởng của một đại đội bảo an trên trục lộ 14 đã có đủ lòng tin với cô. Hắn cho một toán bảo an bắt Điểu Lơ và Điểu Uông dẫn về tra tấn. Cuối cùng, hai thằng Việt gian đã bị xử bắn.
Nhiệm vụ đầu tiên đã hoàn thành một cách suôn sẻ. Để vừa có điều kiện thuận lợi giám sát tình hình địch, vừa dễ dàng liên lạc với một số cán bộ cơ sở, Nết bắt đầu cho kế hoạch tác chiến tiếp theo. Cô vẫn duy trì mối quan hệ tốt với mấy tên đại đội trưởng. Và từ chúng, cô đã tiếp cận được hầu hết những tên trưởng ấp của các ấp chiến lược trên trục đường 10. Từ Bon Bon (gần cầu Sóc Lốp), Bom Ría (gần cầu Bà Linh), Bù Càng (gần cầu Rạch Mó), Bù Hoai, Đắk Zăm, riêng Bù Bông (gần cầu sông Đắk Lấp), dân cư đông nhất lên đến 150 người do tên tổng Châu Rốt làm trưởng ấp. Cuối cùng, cô cũng đã kết thân được với tên Châu Rốt. Rồi từ đó, cô thuận lợi tới lui thăm viếng các cán bộ cơ sở cùng những gia đình đồng bào giác ngộ cách mạng nằm trong vùng địch.
***
Để thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, giặc Mỹ tăng cường chiến thuật “tát nước, bắt cá”, ráo riết dồn dân vào các ấp chiến lược, nhằm đánh trốc lực lượng vũ trang ra khỏi quần chúng. Chúng tăng cường củng cố hệ thống đồn bót. Buộc đồng bào phải đóng góp vật liệu và bàn chông để rào ấp, ai không đóng góp chúng phạt phải đóng tiền, không đóng tiền thì chúng bắt giam. Quanh ấp chiến lược chúng đặt chông và gài mìn dày đặc với ba, bốn lớp rào kẽm gai. Mỗi ấp chúng bố trí một trung đội dân vệ và hai trung đội thanh niên chiến đấu canh gác suốt cả ngày lẫn đêm. Người dân ra vào bằng hai cửa chính dưới sự giám sát chặt chẽ bằng cách cho lính canh kiểm tra căn cước và lục soát cẩn thận. Đa số đồng bào các dân tộc bị chúng xé nhỏ, trộn lẫn rồi chia ra các ấp. Sau đó, chúng công kích, tác động chia rẽ, gây nên bất đồng lớn trong khu dân cư. Một số gia đình bị lừa mị chạy theo những lợi ích trước mắt từ của cải, vật chất và cuộc sống nhung lụa mà bọn ngụy quyền mang đến cho họ. Đa số đồng bào còn lại đã hiểu rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù nên vẫn một lòng hướng về cách mạng, âm thầm tiếp tế lương thực và những vật dụng cần thiết; duy trì cung cấp thông tin liên lạc; che giấu và nuôi dưỡng một số cán bộ của lực lượng vũ trang. Phối hợp với cán bộ cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi, tìm cách che mắt địch để đưa một số chiến sĩ trẻ là người đồng bào về lại vùng kháng chiến.
Bom Bo ngày đêm oằn mình gánh chịu những trận càn quét điên cuồng của giặc. Tiểu đoàn 34 và một bộ phận của tiểu đoàn 52 biệt động quân, liên đoàn bảo an cùng đội dân vệ đóng dọc cầu 38 lên chi khu quận lỵ Đức Phong của địch vẫn liên tục tăng cường các đợt càn quét vào khu dân cư ở vùng tự do để đàn áp, bắt bớ đồng bào gom về các ấp chiến lược. Chúng sử dụng trực thăng vận, thiết xa vận cùng các loại vũ khí tối tân ngày đêm bố ráp vùng căn cứ cách mạng. Tuy lực lượng mỏng, vũ khí thiếu thốn, nhưng đồng bào ta vẫn kiên trì bám làng, tiến hành chiến tranh du kích và đấu tranh chống càn để bảo vệ dân sóc, bảo vệ cán bộ.
Đầu năm 1962, Điểu Lên chính thức là du kích bí mật của K14. Anh cùng một số đồng đội của các K nhận nhiệm vụ bám làng, chống càn. Những cái tên quen thuộc như: Điểu Lên, Điểu Lết, Điểu Ong, Điểu Beo, Điểu Sét, Điểu Cốc, Điểu Mác, Điểu Đách, Điểu Rông, Điểu Briêng, Điểu Xiêng, Điểu Lanh, Điểu Krú… luôn sát cánh bên nhau trong làng kháng chiến. Vừa làm việc, vừa canh gác, cảnh giác. Giặc đến thì cùng nhau đánh đuổi chúng đi. Giặc lui, lại cùng nhau vót chông, đào hầm, đặt bẫy. Rảnh rỗi thì hỗ trợ dân làng tăng gia sản xuất.
Sau mỗi đợt tiến công, càn quét không thành trở về, bọn giặc càng siết chặt gọng kìm, kiểm soát gắt gao, buộc người dân ở các ấp chiến lược không được liên lạc, giao tiếp với nhau. Sống trong sự kìm kẹp hà khắc như “chim lồng, cá chậu” ở ấp chiến lược, đồng bào đã thấy rõ bản chất và thủ đoạn, âm mưu của địch. Những ai bị dồn vào ấp chiến lược đều dấy lên nỗi căm thù bị cô lập trước chính quyền Mỹ - ngụy.
***
Đêm, trời tối đến không nhìn thấy mặt người. Bọn lính gác đã say khướt nằm lăn lóc giữa hơi men. Tiếng chó sủa thưa dần rồi tắt lịm. Đây đó, tiếng gáy “cúc cu, cúc cu” ở những điểm chân rào đã bị phá đồng loạt báo hiệu. Đoàn người cứ lặng lẽ dắt díu nhau mò mẫm vượt rào ra khỏi ấp chiến lược. Họ hối hả băng rừng, vượt suối để tìm về sóc cũ. Mưa, họ bẻ lá rừng che cho người già, trẻ nhỏ. Khi khát, có nước suối. Khi đói, có lá rừng. Lòng đã quyết nên người không thấy lạnh, không mỏi mệt. Cứ thế, nhờ cây rừng che chắn, bảo vệ mà cả đoàn gần 100 con người đã thuận tiện về đến tận căn cứ Nửa Lon.
Làng kháng chiến Bom Bo bên dòng suối Đắk Nhau và Đắk Liêng rộn rã niềm vui sum họp với số lượng dân cư lên đến hơn 200 người. Có Đảng lãnh đạo, có cán bộ của lực lượng vũ trang tuyên truyền, rèn luyện, giúp đỡ. Có các chiến sĩ trong căn cứ Nửa Lon cùng làm việc, cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu với đồng bào. Đội ngũ cán bộ dân vận thường xuyên tổ chức những buổi giao lưu học hỏi tiếng nói, phong tục, tập quán của dân sóc và dạy tiếng Kinh cho đồng bào; hỗ trợ, hướng dẫn người dân tăng gia sản xuất, đào hầm trú ẩn, đặt hầm chông và làm bẫy chông; cách tự vệ và phòng chống các đợt càn quét của địch. Vùng kháng chiến ngày càng mở rộng. Phong trào đấu tranh ngày càng lớn mạnh. Nhà nhà là căn cứ cách mạng. Người người là chiến sĩ cách mạng.
Có tin mật báo: “Địch chuẩn bị tiến công căn cứ”. Lãnh đạo cấp ủy đã vạch rõ kế hoạch chuẩn bị tác chiến ở hai cứ điểm là căn cứ Nửa Lon và Bom Bo - Đường 10. Đội du kích Bom Bo cùng bà con dân sóc tích cực ngày đêm vót chông đặt bẫy (cả bẫy hầm và bẫy treo) rồi ngụy trang cẩn thận. Sau khi đưa đồng bào lui về nơi an toàn, lực lượng du kích liền triển khai đội hình sẵn sàng chờ địch tới. Mặt trời vừa xuống núi, giọng ra lệnh của Điểu Krú đã cất lên dõng dạc:
- Toàn tiểu đội chú ý! Về vị trí chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu!
- Rõ!
Thoắt cái, những chiến sĩ du kích như có thuật tàng hình giữa muôn loài cây cỏ. Màn đêm đen đặc, đầy bí ẩn. Đây đó, những ánh mắt vẫn liên tục quét một đường hút tầm nhìn về phía trước. Ngồi dưới công sự, đòi hỏi sự tập trung cao độ và vận dụng tất cả các giác quan để quan sát. Chỉ cần nghe một tiếng động nhỏ là đã tỉnh ngay và xác định nhanh vị trí, nguồn gốc, bản chất chính xác của âm thanh đó. Vì vậy, người chiến sĩ cần phải rất thận trọng, dù một khắc cũng không được phép lơ là.
Trời vẫn còn tranh tối, tranh sáng. Đại đội bảo an - dân vệ của địch từ ngã ba đường 10 và ấp chiến lược Bù Bông - Đắk Zăm đã hung hăng tiến vào Bom Bo. Chúng dáo dác quan sát rồi nổ súng loạn xạ, hòng trấn áp tinh thần cách mạng để chiếm thế thượng phong. Nhưng trong sóc vẫn lặng yên như đang chìm trong giấc ngủ và không có sự phòng vệ nào. Chúng càng huênh hoang tự đắc tiến lên. Không còn bao xa nữa là chúng sẽ nuốt chửng Bom Bo và tiến thẳng vào căn cứ Nửa Lon.
- Tấn công!
- Bắn!
Bất ngờ, tiểu đội du kích Bom Bo cùng một bộ phận của lực lượng vũ trang căn cứ Nửa Lon đồng loạt tiến công. Từ tuyến ngoài, lực lượng vũ trang C270 của tỉnh cũng phản công vào. Bọn giặc hoảng loạn vừa bị bắn, vừa bị sụp hầm chông và vướng bẫy chông treo. Sau hơn hai giờ tiến công không thành, bọn chúng giẫm đạp lên nhau để gom tàn quân rút lui, tháo chạy.
Vừa thắng được giặc càn, vừa thu được không ít chiến lợi phẩm quý giá. Số súng đạn thu được của địch, làm phong phú thêm lượng vũ khí còn thiếu thốn của ta. Đồng chí Kim phụ trách quân sự vùng căn cứ Nửa Lon, đồng chí Điểu Đách là Bí thư, đồng chí Điểu Xiêng - Phó Bí thư (của chi bộ Đảng người dân tộc) cùng nhau vận động quân, dân Bom Bo tích cực tăng gia sản xuất, đào thêm công sự, sửa lại hầm chông và bẫy chông, tu bổ thêm vũ khí tự tạo để củng cố căn cứ, sẵn sàng chiến đấu.
***
Trận càn bị thất bại. Địch càng kiểm soát gắt gao hơn ở các ấp chiến lược, tăng cường lực lượng canh gác vào ban đêm. Cuối năm 1962, thằng Châu Rốt ra lệnh chặt đầu một người dân rồi treo lên hàng rào ấp chiến lược ở Bù Bông kèm theo dòng chữ: “Đây là kết quả của bọn mọi rợ dám tiếp tế cho cộng sản”. Lòng dân đau xót, oán hận nhưng cũng lo sợ, hoang mang.
Địch tăng cường hoạt động thám báo. Chúng tung lực lượng biệt kích xâm nhập vào làng kháng chiến để phá hoại, quấy rối. Nương rẫy, hoa màu, nhà cửa của đồng bào liên tục bị chúng đốt phá. Chúng quyết tâm triệt phá cho cạn kiệt nguồn lương thực, không cho lúa có bông, không cho khoai mì có củ… Khiến người dân không có cái ăn, không nhà để ở. Chúng ráo riết tổ chức tuần tra, càn quét ngày đêm để đàn áp dân làng. Tên đại đội trưởng khét tiếng của đại đội bảo an, phụ trách cánh quân phía Bắc từ Bom Bo 2 đến Đức Hạnh. Một tên tổng khát máu, phụ trách cánh quân phía Nam từ cầu sông Lấp chạy ra Minh Hưng. Tên đại úy Dớ cầm đầu đại đội bảo an. Tên tổng Lé cầm đầu một trung đội gồm bảo an và dân vệ. Hai cánh quân thi nhau càn quét, cướp bóc, bắt giết dân lành.
Người dân ở các ấp chiến lược bị đàn áp, bị kiểm soát gắt gao, không thể liên lạc và tiếp tế lương thực, thuốc men cho vùng kháng chiến. Đồng bào và lực lượng cách mạng ở vùng căn cứ vừa thiếu lương thực, thiếu muối lại phải đối mặt với bao khó khăn để khắc phục hậu quả mà bọn biệt kích, thám báo gây ra.
Đầu năm 1963, làng kháng chiến Bom Bo và vùng căn cứ Nửa Lon được dời sâu vào rừng để bảo toàn lực lượng. K ủy cùng Điểu Beo, Điểu Ong, Điểu Mác, và các chiến sĩ du kích đã vượt bao khó khăn nguy hiểm, bí mật vào các ấp chiến lược để vận động đồng bào. Nhờ vậy mà niềm tin được củng cố, chí khí đấu tranh gan dạ tiếp tục bùng lên trong lòng dân. Họ kiên cường đứng lên đấu tranh công khai với địch, đòi được tự do lên nương rẫy và tiếp tục tìm cách phá ấp để về lại vùng căn cứ.
Cả gia đình Điểu Lên cùng tham gia kháng chiến. Lúc này, Điểu Lên đã là bộ đội của X1, K14. Điểu Sen vào du kích. Thị Srưc, Thị Bách, Thị Bơ Rắc đều làm giao liên. Cả nhà Bơ Rơi cũng vậy. Điểu Xiêng, Điểu Lanh đều là bộ đội, còn Bơ Rơi thì làm liên lạc. Mà cũng phải thôi, ở cái làng kháng chiến này hễ bỏ dụng cụ lao động xuống là tay liền cầm súng, cầm dao, cầm cung tên… nên gia đình nào cũng dốc toàn lực cho kháng chiến.
Trong thời điểm quân và dân ta rơi vào tình trạng khó khăn nhất mà Nết lại phải chăm sóc may, rồi đưa may đi viện. Không lâu sau thì may chết. Tên ấp trưởng Châu Rốt đứng ra tổ chức an táng cho may. Hắn còn loan tin, Nết là vợ của hắn. Từ đó về sau, Nết đi đến đâu cũng bị dân làng né tránh vì họ không muốn nhìn thấy “Con Việt gian bỏ đồng bào theo giặc”. Rồi mỗi ngày, Nết đi về với bộ dạng chếnh choáng hơi men. Một cán bộ cơ sở nhận chỉ thị cấp trên chuẩn bị đưa Nết về Bom Bo. Nhưng Nết đổ bệnh nặng, nên phải đợi Nết khỏi bệnh mới đi được. Đau buồn vì mất may. Buồn đau vì bị dân làng hiểu lầm. Sau một cơn bạo bệnh, Nết cũng đi theo may.
Chuyển vào nơi ở mới, xung quanh toàn là rừng núi âm u. Quân dân Bom Bo cùng lực lượng vũ trang của căn cứ Nửa Lon lại tích cực củng cố căn cứ, củng cố lại các sóc và tăng gia sản xuất; lại đào hầm, vót chông, đặt bẫy; lại phát rẫy, làm nương, trỉa lúa, trồng mì… Từ đó, để đảm bảo bí mật tuyệt đối của nhiệm vụ đặc biệt, căn cứ Nửa Lon không ở yên một vị trí mà cứ khoảng một thời gian ngắn lại phải di chuyển cơ quan đến địa điểm khác nhưng vẫn bám làng, bám dân theo hai dòng suối Đắk Nhau và Đắk Liêng.