C
ác bậc cha mẹ ngày nay có lẽ là những bậc phụ huynh có kiến thức và ý thức nhất trong lịch sử của hành tinh này. Có thể đó là vì chúng ta có ít con hơn so với các thế hệ trước. Xu hướng có ít con này có lẽ đang được củng cố bởi những nhận thức về việc tận hưởng cuộc sống, cũng chính là nhận thức đã khiến các loại bia ủ thủ công và rau củ quả được trồng theo mô hình xanh-sạch-lành ở địa phương trở nên phổ biến.
Cho dù lý do là gì, khi chủ nghĩa tư bản đã lan rộng ra toàn cầu và thế giới trở thành một nơi cạnh tranh hơn, chúng ta không còn có thể phó thác sự thành công của con cái mình vào tay thần may mắn. Trong một nền kinh tế mà nhóm 1% những người ở đỉnh kim tự tháp có thể sống xa hoa ngoài sức tưởng tượng, 20% những người dưới đáy thì thiếu ăn, còn những người ở phân khúc giữa đang phải giẫm đạp lên nhau để kiếm sống, các bậc cha mẹ hiện đại đã chọn đầu tư cho con mình ngay từ thời thơ ấu, với mỗi quyết định mà họ đưa ra đều được cân nhắc kỹ càng để sau này con của họ có thể được nhận vào trường đại học tốt nhất và thành công tiến thân trên con đường sự nghiệp có thể mang lại cho chúng một cuộc sống thoải mái.
Đồng thời, chúng ta cũng chú ý hơn đến lòng tự trọng của các con. Đó là một phản ứng có thiện chí hơn so với cách nuôi dạy con lạnh lùng và độc đoán ngày xưa, vốn đã để lại nhiều hệ lụy về mặt tâm lý. Nhưng trong nỗ lực nuôi dạy con trở nên tài giỏi và tự tin hơn, giờ đây cha mẹ lại quá bảo bọc con trước những trải nghiệm khó khăn mà họ lo rằng có thể ảnh hưởng xấu đến tâm lý của con. Thật không may, điều này có thể đồng nghĩa với việc con cái chúng ta không được trải nghiệm cảm giác thất bại và đứng lên sau những lần vấp ngã, một quá trình mà nhờ đó chúng mới xây dựng được sức bật tinh thần. Thêm nữa, nhiều bậc phụ huynh đã hiểu sai quan điểm “công nhận nỗ lực chứ không phải kết quả” của Dweck và hậu quả là họ khen thưởng con của mình đơn giản vì bé đã cố gắng - một điểm A vì đã nỗ lực hoặc một huy chương chỉ vì đã đến tham gia cuộc thi.
Thật không may, những nỗ lực kể trên của cha mẹ khiến năng lực học hỏi và phát triển từ các trải nghiệm (và sai lầm) của trẻ bị đánh giá thấp, đồng thời có thể gây ra một loạt các hậu quả ngoài dự đoán, thường là theo hướng ngược lại với những gì chúng ta mong đợi. Nguyên nhân thứ nhất là sự tập trung vào thành tích khiến chúng ta có định nghĩa rất hẹp về thành công, chẳng hạn như cho rằng thành công nghĩa là tìm được một công việc có mức thu nhập ổn định. Con đường thành công hạn hẹp này lại càng không đáng tin hơn khi nó được vạch ra cho một thế giới tĩnh, trong khi theo dự đoán thì 65% các bé học sinh tiểu học hiện nay có thể sẽ làm những công việc mà bây giờ còn chưa được phát minh ra, và đã có rất nhiều bằng chứng củng cố xu hướng này. Rất nhiều công việc mà chúng ta đang làm hiện nay không hề tồn tại vào thời điểm mười năm trước, và tốc độ tạo ra những công việc mới chỉ có tăng chứ không hề giảm.
Tệ hơn, ngày càng có nhiều những đứa trẻ làm “đúng” mọi điều mà nhà trường dạy, đạt thành tích học tập xuất sắc, thi đậu vào những trường đại học danh giá và dễ dàng tốt nghiệp loại ưu, nhưng lại hoàn toàn vụng về trong cuộc sống. Chúng không biết phải ứng xử như thế nào với một người bạn cùng phòng có thói quen bừa bộn, với người mà chúng đang yêu đơn phương, hoặc với những bậc phụ huynh liên tục đến kiểm tra tình hình của con mà không báo trước.
Trong quyển sách How to Raise an Adult (tạm dịch: Làm thế nào để nuôi dạy một người trưởng thành), phó giám đốc marketing của Đại học Stanford, Julie Lythcott-Haims, đã gọi những sinh viên nói trên là “người không có kỹ năng sinh tồn”. Bà viện dẫn các nghiên cứu cho thấy những sinh viên này thường có tỷ lệ bị trầm cảm và lo lắng tương đương với những đứa trẻ vị thành niên trong trung tâm giáo dưỡng, cũng như ít cởi mở với những ý tưởng mới và hiếm khi có được cảm giác thỏa mãn trong cuộc sống.
Một hậu quả khác của hành vi bảo bọc con quá mức là đứa trẻ có thể nghĩ rằng để có được tình yêu của cha mẹ thì mình phải cư xử theo một cách nào đó. Điều này dẫn đến sự tự tin có điều kiện, một niềm tin cho rằng giá trị của bản thân được xây dựng từ bên ngoài. Sự tự tin có điều kiện này có thể xuất hiện ở một cô gái luôn được ca ngợi vì vẻ đẹp ngoại hình và do đó, cô mắc chứng rối loạn ăn uống. Nhưng nó cũng có thể được nhìn thấy ở một học sinh xuất sắc luôn học tập chăm chỉ, đạt được thứ hạng đầu, làm lớp trưởng và có lẽ sẽ đậu vào một trường đại học hàng đầu, nhưng lại suy sụp tinh thần khi đạt điểm kém trong một kỳ thi. Hoặc một vận động viên nỗ lực luyện tập mỗi ngày và trở thành cầu thủ ngôi sao nhưng sau đó lại sụp đổ hoàn toàn vì phạm lỗi trong một trận đấu quan trọng.
Ngay cả những bậc cha mẹ không đi quá xa đến mức quản lý cuộc sống của con cái theo kiểu vi mô vẫn muốn con mình sống khỏe mạnh, có ích và thành công. Điều này khiến các bậc phụ huynh khó lòng không can thiệp vào cuộc sống của con. Hơn nữa, họ càng có khuynh hướng đẩy con vào những con đường mà họ thấy là tốt nhất, nhất là khi con đường mà đứa trẻ đang đi bắt đầu xuất hiện nhiều chông gai.
Tuy nhiên, cho dù bạn có cố gắng đến mức nào trong việc bảo đảm con mình sẽ thành công, hạnh phúc và an toàn, chắc chắn những cám dỗ vẫn sẽ xuất hiện và thay đổi là chuyện tất yếu sẽ diễn ra. Bạn (và con của bạn) không thể dự đoán được một vụ va chạm nhỏ, một bài kiểm tra toán không được làm tốt hoặc một bữa tiệc mà người tham gia đều uống bia rượu. Bạn cũng không thể chắc chắn rằng việc ghi danh cho con học tiếng Nhật hoặc ép con học lập trình sẽ đảm bảo chúng được nhận vào ngôi trường mà chúng chọn, tìm được công việc ổn định và thành đạt.
Trong thời đại ngày càng khó đoán và có nhiều sự cạnh tranh gay gắt mà chúng ta đang sống, một trong những điều tốt nhất mà cha mẹ có thể làm để giúp con mình phát triển là dạy chúng những kỹ năng được mô tả trong quyển sách này. Sự linh hoạt cảm xúc giống như liều vaccine giúp trẻ không bị choáng ngợp trước những giây phút khó chịu không thể tránh được trong cuộc sống. Kỹ năng này không giúp trẻ hoàn toàn miễn dịch với sự khó chịu, nhưng nó sẽ giúp trẻ phát triển sự linh hoạt và sức bật tinh thần cần thiết để phát triển vượt bậc ngay cả trong những thời điểm khó khăn.
Dám mạo hiểm
Vào mùa hè năm con trai Noah của tôi lên năm tuổi, hai mẹ con tôi là khách quen của hồ bơi trong thị trấn. Thằng bé thường gặp một số bạn bè ở đó và chúng sẽ dành cả buổi chiều để chơi tạt nước và tham gia đủ loại hoạt động mùa hè khiến thời gian trôi qua như tên bắn. Nhưng có một hoạt động khiến thời gian như ngừng trôi, ít nhất là đối với Noah. Mỗi khi nghĩ đến việc nhảy xuống khỏi tấm ván nhún trên hồ bơi thì thằng bé đều sợ cứng cả người. Tất cả bạn bè của Noah đều chơi trò đó và bé cũng rất muốn tham gia nhưng lại quá sợ hãi nên vẫn chưa dám thực hiện. Thằng bé sẽ chỉ đứng xem và chôn chân tại chỗ, bị tê liệt trước một nỗi sợ lớn hơn cả mong muốn được tham gia vào một hoạt động mà bé thấy rõ ràng là rất vui.
Tất cả chúng ta đều có những lúc như vậy, khi mà ta nghĩ mình muốn thử một cái gì đó mới mẻ nhưng lại không thể vượt qua được nỗi sợ của chính mình. Tuy nhiên, đối với trẻ em, việc đối mặt với những trải nghiệm đáng sợ là một thách thức đặc biệt khó khăn vì chúng chưa có kinh nghiệm thực hiện những bước nhảy như vậy (trong trường hợp của Noah thì điều này đúng cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen). Trẻ chưa có thời gian để gặt hái những kết quả giúp củng cố lòng tự tin - “Tôi đã từng làm chuyện này và đã vượt qua được” - vì thế, trẻ dễ có khuynh hướng đưa ra những phản ứng tự động khiến trẻ chùn chân và loay hoay mãi trong nỗi sợ.
Cuộc sống đầy những tấm ván nhún và vách đá buộc chúng ta phải nhảy. Nhưng như chúng ta đã biết qua những nội dung bàn về sự linh hoạt cảm xúc, việc thực hiện một cú nhảy không có nghĩa là bỏ qua, khắc phục, chiến đấu hoặc kiểm soát nỗi sợ - hay bất cứ thứ gì khác mà bạn đang trải nghiệm. Thay vào đó, cú nhảy này liên quan đến việc chấp nhận và nhận ra tất cả những cảm xúc và suy nghĩ của bạn, xem xét ngay cả những cảm xúc và suy nghĩ có sức ảnh hưởng nhất với lòng trắc ẩn và tinh thần học hỏi, sau đó chọn lòng can đảm thay vì sự thoải mái để có thể thực hiện bất cứ điều gì bạn xác định là quan trọng nhất đối với mình. Cần phải nhắc lại rằng dũng cảm không có nghĩa là không sợ hãi. Dũng cảm là vẫn tiến lên đối mặt với nỗi sợ - hoặc trong trường hợp của Noah là nhảy vào nỗi sợ.
Mặt khác, nỗi sợ của một đứa trẻ thường sẽ khuấy lên nỗi sợ về nỗi sợ đó ở cha mẹ. Chúng ta sợ việc con mình từ chối một trải nghiệm sẽ có ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của bé (hoặc phản ánh điều gì đó về kỹ năng làm cha mẹ của chúng ta). Chúng ta lo lắng sự từ chối đó sẽ khiến trẻ phải trả giá. Chúng ta muốn con mình phát triển vượt trội, và vì thường nhìn ra con đường phát triển cho con nên chúng ta cố gắng đẩy chúng theo hướng đó, với niềm tin rằng như vậy thì từ từ chúng sẽ nhận ra những gì chúng từng từ chối hoặc ngại thực hiện không quá đáng sợ như chúng nghĩ. Nhưng như chúng ta đã biết, linh hoạt trong cảm xúc không phải là làm việc gì đó vì cảm thấy phải làm hoặc vì mong muốn của người khác. Thay vào đó, linh hoạt cảm xúc là khả năng tự đưa ra những lựa chọn có chủ ý về cách hành xử của bản thân. Và đối với trẻ em cũng vậy.
Khi Noah bị mắc kẹt - theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - trên mép tấm ván nhún đó, tôi có thể áp đặt ý chí của mình lên con, nói với bé những gì tôi biết rõ: “Nếu con cứ bước lên tấm ván và nhảy xuống, con không chỉ không sao cả mà còn vui mừng hơn nữa”. Hoặc tôi có thể xem nhẹ nỗi sợ của con và nói: “Đừng ngốc như thế. Con nhìn xem các bạn chơi vui thế nào kìa. Con không muốn vui giống vậy sao?”.
Tuy nhiên, tôi đã chọn một phương án khác. Tôi đã bắt đầu một cuộc trò chuyện với Noah tại hồ bơi và tiếp tục nói chuyện với con khi về nhà. Sau khi tôi và Noah đều thừa nhận nỗi sợ nhảy khỏi tấm ván của thằng bé, chúng tôi nói về những cảm xúc mà Noah có thể có nếu dám nhảy (phấn khích và tự hào), những cảm xúc khi không dám nhảy (nhẹ nhõm đôi chút nhưng chắc chắn sẽ rất thất vọng về bản thân); sau đó chúng tôi cùng bàn xem làm thế nào để Noah có thể nhảy bất chấp nỗi sợ, vì bước nhảy này rất quan trọng đối với bé.
Làm thế nào để Noah có thể nhảy xuống khỏi tấm ván đó? Đầu tiên, tôi khuyến khích Noah đương đầu với nỗi sợ hãi: quá trình tiến hóa đã khiến chúng ta cảnh giác với độ cao vì một lý do hợp lý nào đó, và không có gì đáng xấu hổ khi phải cần thời gian để thuyết phục bản thân tin rằng tiến lên năm bước và nhảy từ tấm ván nằm ở độ cao một mét xuống hồ bơi sâu bốn mét chứa đầy nước clo là một quyết định hợp lý, dù nó đi ngược lại với bản năng sợ độ cao của con người.
Chỉ bằng một việc đơn giản là thừa nhận những cảm xúc của bản thân, Noah đã thay đổi được mối quan hệ của mình với nỗi sợ, nhờ đó thằng bé có thể bước ra khỏi nỗi sợ để tạo ra khoảng cách giữa cảm xúc và kết quả mình muốn đạt được. Điều này có nghĩa là Noah tách bản thân ra khỏi những ảnh hưởng về mặt sinh lý của nỗi sợ - sự gia tăng cortisol, nhịp tim tăng nhanh, thở gấp - và cả sự tự nghi ngờ bản thân mà bé rất dễ gặp phải trong những năm tháng đầu đời này.
Tiếp theo, chúng tôi cùng xem xét động lực của Noah, hoặc những lý do khiến bé muốn thực hiện bước nhảy: niềm vui, cảm giác phấn khích, tình bạn. Trong quá trình đó, tôi đã cố gắng thuyết phục Noah tin rằng lựa chọn nhảy hay không nhảy hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân bé. Cho dù có gặp áp lực nào từ phía bạn bè, nhảy ván không phải là trò chơi mà Noah “phải tham gia”, thay vào đó, nó có thể là một trò mà bé “muốn chơi”.
Noah và tôi đã chuyển sự tập trung ra khỏi kết quả sau cùng - bé có thể thành công thực hiện cú nhảy hay sẽ đứng run lẩy bẩy tại chỗ - và hướng vào quá trình: nhảy ván là một kỹ năng mà Noah muốn học và có thể chia thành các bước nhỏ. Ví dụ, ngày thứ nhất: leo lên ván; ngày thứ hai: đi ra đến mép ván; ngày thứ ba: nhảy!
Nhưng ngày hôm sau, ngay khi chúng tôi đến hồ bơi, Noah chỉ đơn giản là leo lên ván và nhảy ùm xuống mà không hề gặp chút trở ngại nào - không run rẩy, cũng không cần dò dẫm từng bước. Và sau đó, bé cứ nhảy đi nhảy lại hết lần này đến lần khác với đủ kiểu biến tấu khác nhau, biến Nguyên tắc chiếc bập bênh thành Nguyên tắc nhảy ván khi vừa có thể vui vẻ tận hưởng quá trình nhảy, vừa bước ra khỏi vòng tròn thoải mái của mình suốt cả buổi chiều.
Đúng như Noah đã dự đoán trong cuộc trò chuyện với tôi, thằng bé đã vô cùng tự hào về bản thân - một điều mà tôi có thể nhận ra qua mỗi lần bé vẫy tay chào tôi và toe toét cười khi chuẩn bị nhảy. Việc nói về nỗi sợ và xem xét động lực hành động không hề giúp Noah bớt sợ hơn chút nào. Noah đã luôn muốn nhảy xuống khỏi tấm ván đó, nhưng trước khi thoát khỏi ý nghĩ “Mình không thể làm được” thì bé vẫn chưa thể hoàn toàn kết nối được với nỗi khao khát mạnh mẽ luôn tồn tại sẵn bên trong bản thân mình.
Tất nhiên, bài học lớn nhất mà Noah học được không phải là nhảy ván hay không nhảy ván. Khi có thể tách bản thân ra khỏi cảm xúc và kết nối với động lực của mình, Noah học được cách tháo gỡ vướng mắc và tiếp tục tiến lên bất chấp nỗi sợ.
Khi hướng dẫn trẻ thực hiện các bước cơ bản này để hướng tới sự linh hoạt cảm xúc, chúng ta đang cung cấp cho trẻ một công cụ có thể dùng được cả đời. Mỗi lần thực hiện một cú nhảy - không phải với sự liều lĩnh hay một niềm tin mù quáng, mà với một ý chí sáng suốt dù có sợ hãi - con cái chúng ta sẽ thực hành bài học đương đầu với nỗi sợ, một kỹ năng có thể giúp chúng đối mặt với nhiều thử thách có sức ảnh hưởng tâm lý mạnh hơn trong cuộc đời sau này.
Dạy con bằng cách làm gương
Khi tôi hỏi những bậc cha mẹ xem mong muốn lớn nhất của họ dành cho con cái là gì, đa số họ đều trả lời: “Tôi chỉ muốn các con được hạnh phúc”. Tuy nhiên, để có được hạnh phúc đích thực, người ta chỉ cần biết cách “sống” - ý tôi là biết cách sống thật hiệu quả với chính bản thân mình, giữ cân bằng, tử tế, hiếu kỳ và không quá mong manh dễ vỡ trong một thế giới không ngừng thay đổi. Chúng ta đều biết tình yêu và tính có tổ chức giúp đứa trẻ có được những mối quan hệ đáng trân trọng và một sự nghiệp thành công, nhưng biết linh hoạt trong cách phản ứng với cảm xúc lại cung cấp một bộ kỹ năng để biến tình yêu và tính có tổ chức thành một cuộc sống viên mãn về lâu dài. Đối với phụ huynh, sự linh hoạt cảm xúc mang lại cho họ những kỹ năng cần thiết để giúp con học cách phát triển tối ưu.
Nhiều nghiên cứu về giá trị của việc giúp trẻ học được các kỹ năng đương đầu với khó khăn, bước ra khỏi nỗi sợ, hành động phù hợp với lý tưởng của mình và hoàn thành mục tiêu đề ra đã được các nhà nghiên cứu thực hiện trong một khoảng thời gian đủ dài để theo dõi được sự phát triển của sức bật tinh thần, giá trị đạo đức, ý chí, sức khỏe, sự ổn định về mặt tâm lý và khả năng xây dựng các mối quan hệ bền chặt của trẻ khi trưởng thành. Điều tuyệt vời là một vài kết luận trong số đó đã bắt đầu được đưa vào văn hóa cộng đồng. Ví dụ điển hình là Inside Out (tựa tiếng Việt: Những mảnh ghép cảm xúc), một bộ phim hoạt hình giúp người xem khám phá những cảm xúc đa dạng và không ngừng thay đổi của một cô bé và cho thấy ngay cả những cảm xúc khó chịu, như nỗi buồn chẳng hạn, cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình bản thân chúng ta.
Đối với các bậc cha mẹ, cách hiệu quả nhất để dạy con linh hoạt trong cảm xúc là hãy làm gương cho con. Việc này có thể khó thực hiện khi con gái của bạn đang hét toáng lên là “Con ghét mẹ!”, hoặc khi con trai của bạn về nhà và khóc nức nở vì đã có một ngày tồi tệ ở trường. Nhưng chính trong những dịp như vậy bạn mới có được cơ hội tốt nhất để làm mẫu về sự linh hoạt cảm xúc. Bạn có thể cho con thấy cách bạn thực hành các kỹ năng như tách bản thân ra khỏi cảm xúc và phản hồi con một cách bình tĩnh, cảm thông để tìm hiểu xem tại sao con lại cảm thấy như vậy, thay vì vội vàng phản ứng dưới sự chi phối của cảm xúc.
Đúng là tôi có học vị tiến sĩ trong lĩnh vực này, nhưng hãy tin tôi, tôi từng có tiếng là người hành động theo cảm xúc và thậm chí đã để điều đó định hình ấn tượng về mình trong mắt người khác. Lúc Noah còn sơ sinh, tôi đã đưa con đến bác sĩ để tiêm vaccine lần đầu tiên. Khi đó Noah trông rất bình yên trong thế giới trẻ thơ của nó, nhưng ngay khi mũi kim đầu tiên chích vào người thì thằng bé bắt đầu khóc ré lên. Đối với một người mới làm mẹ như tôi, ánh mắt của thằng bé khi đó như thể đang nói với tôi rằng “Con đã tin tưởng mẹ vậy mà! Sao mẹ có thể làm vậy với con?”. Tôi muốn vỗ về an ủi con và vội vã nói ra những lời mà hầu hết các bậc cha mẹ đều sẽ nói trong tình huống này: “Không sao! Không sao đâu!”.
Noah vẫn tiếp tục khóc, y tá tiếp tục làm công việc của mình, nhưng cùng lúc đó, cô ấy cũng quay sang tôi và nói một câu mà tôi sẽ không bao giờ quên: “Không, có sao đó chứ. Nhưng sau đó sẽ không sao”.
Cô ấy hoàn toàn đúng. Tôi thật ngu ngốc khi nói với một người, dù chỉ là một đứa trẻ, vừa mới bị đưa vào một căn phòng lạnh ngắt và bị một người phụ nữ xa lạ đâm kim vào người rằng những chuyện đó không sao cả! Tôi đã bác bỏ những cảm nhận rất rõ ràng dù không được thể hiện thành lời của Noah, phủ nhận nỗi đau rất thật mà con đang cảm thấy. Về bản chất, tôi đang yêu cầu thằng bé “đóng chai” cảm xúc!
Đến lúc chồng tôi, Anthony, trở về nhà, Noah đã bình thường trở lại. Trong khi đó, tôi đã tự giày vò bản thân mình hàng giờ liền. Tôi đã dành nhiều năm nghiên cứu về cảm xúc. Đáng lẽ tôi phải biết xử lý tình huống tốt hơn! Nhưng nếu dẹp công việc của mình qua một bên, tôi là một người mới làm mẹ lần đầu và đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy con mình bị đau như vậy nên tôi chỉ muốn an ủi thằng bé mà thôi, dù cách an ủi của tôi hơi kém cỏi.
Ngay khi Anthony bước vào nhà, tôi kể với anh toàn bộ câu chuyện.
“Anh tin nổi không… Noah đang khóc mà em lại nói với con là không sao đâu!”
Anthony, một bác sĩ rất thực tế nhưng cũng rất vui tính, nghe tôi kể lể. Anh ấy vẫn im lặng lắng nghe, nhưng sau đó, một nụ cười thích thú xuất hiện trên gương mặt anh. Anh nói: “Không sao đâu Sue. Không sao đâu”.
“Tôi nhìn thấy bạn”
Bằng cách tự thực hành kỹ năng linh hoạt cảm xúc, bạn sẽ giúp con của mình học được những kỹ năng tương tự. Tuy nhiên, bên cạnh việc làm gương thì vẫn còn những bước khác mà bạn có thể chủ động thực hiện.
Bạn còn nhớ các quy tắc biểu lộ ở Chương 3 chứ? Đó là những bài học mà chúng ta dạy cho con để chúng biết phản ứng cảm xúc nào là phù hợp hay không phù hợp với một tình huống nhất định. Trong trường hợp cực đoan, quy tắc biểu lộ có thể được biểu đạt thành các mệnh lệnh như “Con trai không được khóc” và khiến đứa trẻ cho rằng những cảm xúc không thoải mái là dấu hiệu của sự yếu đuối và do đó cần phải được né tránh.
Trong trường hợp ít cực đoan hơn, chúng ta có thể cố tình bỏ qua cảm giác thất vọng hay buồn bã của trẻ: “Ồ, thằng bé chỉ mệt thôi” hoặc “Con bé đói rồi”. Những lần khác, chúng ta “bọc đường” nỗi buồn của trẻ: “Ôi, con yêu, con biết là con không thật sự cảm thấy như vậy mà” hoặc “Không sao. Không sao đâu”. Ngay cả khi những thông điệp này xuất phát từ tình yêu thương đi nữa thì chúng vẫn có thể phản tác dụng.
Chúng ta cũng dễ sập bẫy khi cố gắng khắc phục mọi vấn đề. Khi con đi học về và nói “Không ai chơi với con hết”, chúng ta có thể sẽ vội vã đáp lại rằng “Đừng lo, mẹ sẽ chơi với con” hoặc lập tức liên lạc với cha mẹ của “những đứa bé dám không chơi với con mình” để sắp xếp một buổi chơi chung cho bọn trẻ nhằm xoa dịu tình hình. Đây là những phản ứng hoàn toàn tự nhiên và dễ hiểu mà chúng ta dùng để chữa lành nỗi tổn thương của những người thân yêu. Những cách phản ứng này tuy có thể giải quyết vấn đề trước mắt nhưng lại tước đi của trẻ cơ hội quan trọng để nhìn nhận những cảm xúc khó chịu của mình - để đương đầu, bước ra và học hỏi từ những tình huống đôi khi khá đau lòng trong thực tế. Chúng cũng vô tình báo hiệu cho đứa trẻ biết rằng “Cha mẹ không tin vào khả năng giải quyết vấn đề của con”. Ngược lại, khi dành thời gian để giúp con thừa nhận cảm xúc và trấn an trẻ rằng những cảm xúc này là bình thường và lành mạnh, bạn đã tiến được một bước dài trong việc hỗ trợ con phát triển các công cụ mà bé sẽ cần để trở thành một người trưởng thành có ích và linh hoạt trong cảm xúc.
Trong bộ tộc Zulu, một bộ tộc lớn nhất ở Nam Phi, người ta chào hỏi nhau bằng cách nói “Sawubona”, nghĩa đen là “Tôi thấy bạn”. Ngụ ý của câu này là khi tôi thấy bạn, tôi đang công nhận sự tồn tại của bạn. Tôi rất thích cách lý giải này bởi vì nó tóm tắt một cách hoàn hảo bước đầu tiên và quan trọng nhất của việc dạy con biết cách linh hoạt trong cảm xúc. Chỉ đơn giản bằng cách cho các con biết chúng ta nhìn nhận chúng một cách đầy đủ, rõ ràng và không phán xét, chúng ta đang phát đi tín hiệu rằng cha mẹ chấp nhận và công nhận các trải nghiệm cảm xúc của con. Thêm vào đó, chúng ta còn giúp con bình tĩnh lại khi làm điều này, vì trẻ con thường bớt xúc động khi cha mẹ có thể hiểu được cảm xúc của chúng. Vì vậy, tuy chúng ta có thôi thúc khắc phục mọi thứ, làm cho mọi chuyện trở nên tốt đẹp hơn càng nhanh càng tốt, nhưng sẽ hiệu quả hơn nếu chúng ta chỉ đơn giản dừng lại và lắng nghe, hướng dẫn con tách biệt tác nhân kích thích bên ngoài với phản ứng bên trong bằng cách tự mình làm gương cho con.
Khi một đứa trẻ cảm thấy được những người xung quanh hiểu và nhìn nhận một cách trọn vẹn, thật khó có chuyện nó không cảm thấy được yêu thương và an toàn. Hẳn bạn từng thấy cảnh các bé hai, ba tuổi chạy chơi trong sân và chỉ thỉnh thoảng mới ngoái lại nhìn để đảm bảo rằng người thân của chúng vẫn còn đó và tin tưởng rằng họ sẽ luôn ở đó trong suốt khoảng thời gian còn lại. Cảm giác an tâm này - mà theo thuật ngữ tâm lý học là sự gắn bó an toàn - chính là nền tảng giúp trẻ có can đảm bước ra thế giới rộng lớn bên ngoài. Sự gắn bó an toàn có vai trò như chất ổn định trong đời sống tinh thần của trẻ suốt thời niên thiếu và có ảnh hưởng đến quá trình hình thành các mối quan hệ của trẻ khi trưởng thành.
Cảm giác gắn bó an toàn, niềm tin rằng mình luôn được yêu thương và chấp nhận vào lúc vinh quang lẫn lúc thất bại, giúp trẻ dám đón nhận không chỉ những rủi ro của thế giới bên ngoài mà còn cả những rủi ro đến từ thế giới cảm xúc trong nội tâm mình. Khi biết mình sẽ không bị phủ nhận, từ chối, trừng phạt hoặc phải xấu hổ vì những cảm xúc của mình, trẻ có thể thử cảm nhận nỗi buồn, niềm vui hoặc cơn giận dữ và tìm được cách kiểm soát hoặc phản ứng với chúng.
Một đứa trẻ cảm thấy được tự do trải nghiệm đầy đủ các cung bậc cảm xúc mà không phải tự kiểm duyệt, cũng như không cần sợ bị trừng phạt, sẽ học được một số bài học quan trọng như sau:
• Cảm xúc nào rồi cũng sẽ qua. Chúng chỉ tồn tại tạm thời. Không có trải nghiệm tinh thần nào đòi hỏi tôi phải hành động.
• Cảm xúc không đáng sợ. Cho dù phải đối mặt với một cảm xúc nào đó có vẻ rất mãnh liệt hoặc rất tồi tệ, tôi vẫn luôn mạnh mẽ hơn nó.
• Cảm xúc là những người thầy. Chúng chứa đựng những thông tin có thể giúp tôi nhận ra những giá trị quan trọng đối với mình và đối với người khác.
Cần phải nói rõ rằng tuy việc nuôi dạy những đứa trẻ biết linh hoạt trong cảm xúc đòi hỏi bạn phải nhìn nhận cảm xúc của trẻ mà không buông lời khiển trách, nhưng như vậy không có nghĩa là bạn phải chịu đựng những cơn cáu giận hay những hành vi không hợp lý của trẻ. Bạn có thể cho trẻ biết cảm xúc của chúng là có thật và cũng quan trọng như cảm xúc của bất cứ ai khác, đồng thời cũng cho trẻ biết rằng không phải cảm xúc nào cũng cần có hành động phản ứng lại (“Mẹ biết con khó chịu với cô bảo mẫu. Mẹ cũng hiểu là ngay lúc này, con đang muốn cô ấy tránh ra”). Đây là lúc bước thứ hai, “bước ra”, cần được thực hiện. Bằng cách giúp con học cách định danh cảm xúc, có cái nhìn toàn cảnh và tách biệt xung động với hành động, bạn đang nhấn mạnh cho trẻ biết rằng mặc dù không cần đè nén cảm xúc, trẻ đôi khi vẫn cần kiềm chế hành vi của bản thân.
Tuy nhiên, kiểu phản ứng đầy yêu thương nhưng vẫn đủ rõ ràng này có thể rất khó được thực hiện khi đứa con ba tuổi của bạn nằm úp mặt gào khóc giữa siêu thị, la hét và giãy giụa lung tung, hoặc khi đứa con tuổi teen của bạn vừa leo cửa sổ để chuồn lên yên sau chiếc mô-tô của thằng bé nhà Petersen hàng xóm. Nhưng đối với cả cha mẹ lẫn con cái, đối mặt với cảm xúc chính là quá trình tạo nền tảng cho việc thoát ra khỏi chiếc móc câu, nhờ đó chúng ta không bị chi phối bởi những cảm xúc khó chịu nhất của mình.
Quan trọng là nghĩ như thế nào, chứ không phải nghĩ gì
Gần đây, tôi đã hỏi mẹ tôi có còn nhớ chuyện tôi cố bỏ nhà đi bụi và cuối cùng lại thành đi loanh quanh khu nhà của mình hàng giờ liền hay không. Bà đã bật cười và nói rằng tất nhiên là bà vẫn nhớ. Sau đó, bà kể với tôi một chuyện mà tôi chưa từng biết: trong suốt thời gian tôi đi lòng vòng quanh khu nhà ngày đó, bà đã luôn đi sau tôi một đoạn. Nghĩ lại thì lúc đó tôi chỉ mới năm tuổi, quả thật không có lý nào mẹ lại để tôi đi lang thang một mình trên đường phố nguy hiểm như thế.
Điều tuyệt vời là mẹ tôi không hề cố coi nhẹ nỗi buồn của tôi (nếu làm vậy thì bà đã vô tình dạy tôi “đóng chai” cảm xúc), cũng không cố “hóa giải mọi vấn đề” bằng cách xoa dịu cơn tức giận của tôi. Thay vào đó, bà để tôi được trải nghiệm cảm xúc của mình, thậm chí là cho phép tôi hành động theo tự do ý chí, dù hành động đó của tôi có phần dại dột. Trong suốt quá trình đó, bà vẫn duy trì sự bảo vệ (giấu mặt) và gắn bó bằng cách đảm bảo tôi được an toàn, đồng thời sẵn sàng can thiệp khi cần thiết. Nói cách khác, bà giữ cho tôi an toàn về thể chất và tặng cho tôi món quà về sự tự do làm chủ cảm xúc.
Tự chủ là yếu tố cốt lõi cho sự phát triển trọn đời và cực kỳ quan trọng đối với quá trình phát triển tinh thần của trẻ em. Tự chủ nghĩa là tự kiểm soát bản thân, và theo cách nói của tâm lý học, một người tự chủ sẽ sống theo những lựa chọn của mình. Nhưng tự chủ không chỉ là độc lập. Khi đứa trẻ tuổi teen gào lên “Cha mẹ không thể ra lệnh cho con! Con sẽ đi chơi cả đêm nếu con muốn!” thì nghe có vẻ rất độc lập, nhưng đây không phải là hành vi tự chủ nếu nó bị chi phối bởi áp lực từ bạn bè, các thói quen xấu, sự ép buộc hoặc những cảm xúc hỗn loạn. Hành động tự chủ đích thực là hành động do bạn toàn quyền quyết định, thực hiện cũng như giám sát mà không có sự cưỡng ép từ bên ngoài hoặc từ các thôi thúc không kiểm soát của bạn. Khi một đứa trẻ tuổi teen luôn về nhà đúng giờ vì sợ bị la hoặc vì cảm thấy tội lỗi nếu không vâng lời cha mẹ, đứa trẻ đó không hề hành động tự chủ hơn một đứa trẻ tuổi teen nổi loạn không về nhà đúng giờ giới nghiêm. Thay vào đó, đứa trẻ có hành động tự chủ sẽ về nhà đúng giờ vì đó là một quy định mà nó tin là hoàn toàn hợp lý và có giá trị.
Sau đây là cách chúng ta có thể khuyến khích sự tự chủ ở trẻ:
• Trân trọng trẻ vì chính con người của trẻ (ví dụ như người thích vẽ tranh) chứ không phải vì con người mà bạn muốn trẻ trở thành (ví dụ như một người thích đấu vật).
• Mỗi khi có thể, hãy cho trẻ được lựa chọn. Lưu ý rằng điều này không có nghĩa là không vạch rõ giới hạn hoặc đặt ra các kỳ vọng, càng không phải là nuông chiều mọi yêu cầu của trẻ.
• Giải thích cho trẻ hiểu những quyết định mà bạn đưa ra thay cho trẻ khi không có sự lựa chọn nào khác. “Vì mẹ yêu cầu con làm vậy!” không phải là cách giải thích có thể giúp trẻ phát triển tính tự chủ cho việc tại sao trẻ phải nắm tay bạn lúc băng qua đường. Thay vì vậy, bạn có thể nói: “Bởi vì con còn nhỏ nên tài xế có thể không nhìn thấy con, nhưng họ có thể nhìn thấy mẹ”.
• Giảm thiểu các phần thưởng có thể tìm được ở bên ngoài như đồ chơi, các miếng dán hoạt hình, bánh kẹo hoặc tiền… khi trẻ làm được những việc như đi tiểu trong bô thay vì trong tã, làm bài tập về nhà hoặc đạt điểm cao.
Hai gợi ý cuối cùng trong danh sách nói trên đặc biệt quan trọng trong việc giúp trẻ tìm được các động lực “muốn-làm” mà chúng ta đã bàn tới trong Chương 7. Những đứa trẻ lớn lên trong môi trường “tiền trao cháo múc” và những đứa trẻ được dạy theo kiểu “phải tuân thủ mệnh lệnh” thường gặp khó khăn trong việc phát triển tinh thần tự chủ mạnh mẽ để có thể tách biệt giữa những việc trẻ thật sự muốn làm và những phản ứng đã được lập trình sẵn bởi người lớn, bất kể đó là phản ứng nổi loạn hay vâng lời. Hơn nữa, những đứa trẻ có thói quen hành động để đổi lấy những phần thưởng đến từ bên ngoài thường trở thành những người ít hạnh phúc, ít thành công, cũng như ít cảm thấy thỏa mãn trong các mối quan hệ hơn những người hành động vì những động lực xuất phát từ nội tâm.
Khuyến khích tinh thần tự chủ cũng giúp trẻ phát triển động lực hành động - một bộ các giá trị của riêng mình, tách biệt với các phần thưởng và yêu cầu bên ngoài. Điều này đặc biệt quan trọng khi trẻ đang phải đối mặt với nhiều sự lựa chọn mơ hồ và không xác định được sẽ như thế nào, chẳng hạn như khi trẻ không biết có nên đón nhận một rủi ro nào đó hay không. Tương tự, tinh thần tự chủ cũng rất quan trọng trong tình huống không có các quy tắc được xác định từ trước (“Cha mẹ đâu có nói là con không được lấy xe của cha mẹ để chạy ra bờ biển”). Chỉ khi trẻ được hướng dẫn tìm hiểu và tin tưởng vào các giá trị của bản thân thì chúng mới có thể khám phá ra những lý do và động lực “muốn-làm” của mình, những thứ có thể giúp chúng phát triển vượt trội.
Tuy nhiên, có lúc trẻ sẽ gặp phải những mối nguy hiểm cần được xử lý ngay. Trong những thời điểm đó, hiển nhiên bạn phải gác lại mong muốn khuyến khích sự tự chủ của trẻ để ưu tiên các giải pháp can thiệp thông thường. Khi tôi “bỏ nhà đi bụi” ở tuổi lên năm, mẹ tôi có thể thấy rằng tôi không hề cố băng qua đường và cũng không thể đi quá xa nhà, vậy nên bà mới cho phép tôi tự hành động. Nếu tôi quyết định bỏ nhà ra đi ở tuổi mười ba, chắc chắn mẹ sẽ cứng rắn đập tan mong muốn “đi tìm tự do” của tôi.
Nuôi dạy những đứa trẻ biết quan tâm
Nuôi dạy con với sự linh hoạt cảm xúc không chỉ là biểu lộ sự cảm thông với con trong thời điểm đó, mà còn là thường xuyên làm mẫu hành vi cảm thông để con có thể học được cách làm điều tương tự. Bạn có thể không thấy có bất cứ lý do nào khiến ngày đầu tiên nhập học ở trường mới trở nên đáng sợ, nhưng bạn có thể công nhận rằng con bạn đang cảm thấy như vậy. Nhờ đó, bạn vừa đem đến cho con cảm giác an toàn, vừa khuyến khích con thực hành bản năng công nhận cảm xúc của người khác. Tại sao “những đứa trẻ cứng đầu” thường cố tỏ ra ương bướng? Có ai khác đang cảm thấy cô đơn và lạc lõng không?
Đây là cách nuôi dạy nên những đứa trẻ mà sau này khi trưởng thành sẽ nhận ra có cô bạn cùng lớp đang bị bỏ rơi, có cậu học sinh trong chương trình giao lưu văn hóa đang ngại giao tiếp vì gặp phải rào cản ngôn ngữ, cô thu ngân vừa có một ngày tồi tệ, bà cụ trong cửa hàng tạp hóa đang cần được giúp đỡ. Sau này, những đứa trẻ này thường nhạy bén với những vấn đề lớn hơn về công bằng xã hội, cũng như sẵn sàng hòa mình vào cộng đồng địa phương và xã hội nói chung. Tuy nhiên, sự cảm thông và thói quen nhìn nhận vấn đề dưới góc độ của người khác không phải là thứ có thể được truyền dạy bằng cách ra lệnh.
Trong một nghiên cứu tại Đại học Cornell, các nhà nghiên cứu giới thiệu với các bé ba, bốn tuổi một con búp bê “buồn” tên Doggie. Sau đó, các bé đã được trao một thứ có giá trị với chúng: một miếng dán hình ngôi sao. Các bé ở nhóm thứ nhất được yêu cầu phải đưa ra một quyết định khó khăn, đó là tặng miếng dán ngôi sao cho Doggie hoặc giữ miếng dán lại cho mình. Các bé ở nhóm thứ hai có sự lựa chọn dễ dàng hơn: tặng miếng dán cho Doggie hoặc trả miếng dán lại cho các nhà nghiên cứu. Nhóm thứ ba chỉ nhận được yêu cầu là các bé phải chia sẻ miếng dán với Doggie. Tiếp theo, khi được giới thiệu một búp bê “buồn” khác tên là Ellie, mỗi bé đều được nhận ba miếng dán hình ngôi sao và được phép tự quyết định chia sẻ bao nhiêu miếng dán. Các bé thuộc nhóm một trước đó, nhóm được chọn tặng miếng dán cho Doggie hoặc giữ cho mình, đã cho Ellie nhiều miếng dán hơn so với các bé trong hai nhóm còn lại. Nói cách khác, những đứa trẻ được tự do lựa chọn thường hào phóng hơn những trẻ bị ép buộc.
Nếu buộc con trai mình phải mời cậu bạn cô đơn cùng lớp đến dự tiệc sinh nhật hoặc dọa phạt con gái mình nếu bé không xin lỗi vì đã lỡ lời trên sân chơi, bạn có thể nhanh chóng đạt được kết quả như mong muốn và có cảm giác nhẹ nhõm tạm thời. Nhưng chỉ khi cho phép trẻ hành động một cách tự chủ, khuyến khích trẻ tự tìm tòi để khám phá động lực “muốn-làm” của bản thân thì bạn mới có thể giúp trẻ mở khóa và phát huy lòng cảm thông.
Điều này cũng áp dụng cho các vấn đề cơ bản về đạo đức như dạy bé tính trung thực. Trong một nghiên cứu với đối tượng tham gia được chia thành cặp gồm một phụ huynh và một đứa con mười ba tuổi, những đứa trẻ vị thành niên này đã được hỏi về việc cha mẹ đối xử với chúng như thế nào trong vài tháng qua. Có một mối liên hệ trực tiếp giữa việc cha mẹ cố gắng kiểm soát hành vi và suy nghĩ của con với việc những đứa trẻ hiểu rõ giá trị của tính trung thực. Những đứa trẻ thường hiểu được lợi ích của việc nói đúng sự thật và cái giá của lời nói dối nếu chúng đồng ý với những điều này: “Khi yêu cầu tôi làm việc gì đó, cha mẹ sẽ giải thích tại sao họ muốn tôi làm điều đó”, “Cha mẹ đã cho tôi nhiều cơ hội để tự quyết định những việc tôi làm” và “Cha mẹ đã cởi mở tiếp nhận những suy nghĩ và cảm xúc của tôi ngay cả khi chúng khác với suy nghĩ và cảm xúc của họ”. Mặt khác, những đứa trẻ tin rằng nói thật sẽ phải trả giá cao thường có khuynh hướng đồng ý với các phát biểu sau: “Cha mẹ khiến tôi cảm thấy có lỗi trong mọi việc”, “Cha mẹ không chấp nhận việc tôi có thể chỉ muốn vui vẻ chứ không cần phải cố gắng làm người giỏi nhất” và “Khi tôi từ chối làm việc gì đó, cha mẹ liền dọa sẽ tước bỏ những đặc quyền nhất định nhằm bắt tôi phải làm việc đó”.
Những lợi ích của việc giúp con học cách tự chủ cũng rất thực tế, đó là bạn sẽ không thể luôn bên cạnh con khi chúng trưởng thành, không thể dắt tay con đi qua mọi nẻo đường đời và giúp con giải quyết mọi tình huống khó xử hoặc các lựa chọn tiến thoái lưỡng nan - ít nhất tôi hy vọng là không! Bạn cũng sẽ không ở đó để giúp con thoát ra khỏi những chiếc móc câu mỗi khi chúng gặp phải một cảm xúc quá mãnh liệt hoặc một suy nghĩ quá kích động. Khi còn nhỏ hoặc thậm chí là lúc thiếu niên, bạn thường được tha thứ khi có những hành động ngốc nghếch và thiếu cân nhắc. Một cậu học sinh mười sáu tuổi sẽ được tha thứ khi xì bánh xe của thầy hiệu trưởng (miễn là đừng tái phạm), nhưng một thanh niên hai mươi sáu tuổi làm chuyện tương tự với chiếc SUV của sếp sẽ không được đối xử khoan dung như thế.
*
Khi tôi khoảng tám tuổi, tôi đã lấy trộm một số tiền nhỏ của cha mẹ. Tôi vẫn còn nhớ đó là hai đồng Nam Phi, tương đương với khoảng ba đô-la Mỹ hiện nay. Cha mẹ đã phát hiện ra chuyện tôi làm khi tôi về nhà với một túi kẹo cùng với một câu chuyện rõ ràng là bịa đặt rằng một người bạn hào phóng đã mua kẹo cho tôi.
Cha mẹ tôi đã lái xe chở tôi dạo một vòng - chỉ ba người chúng tôi với nhau, cha mẹ ngồi phía trước và tôi ngồi ở băng ghế sau - và họ đã nói chuyện rất nghiêm túc với tôi. Họ nói về sự thất vọng khi biết việc tôi đã làm, đồng thời dạy tôi rằng ăn cắp và nói dối không phải là những hành động được chào đón trong gia đình chúng tôi. Sau đó, cha mẹ hướng dẫn tôi cách sửa sai, bao gồm trả lại tiền và vừa xin lỗi người bạn mà tôi đã lôi vào câu chuyện lộn xộn của mình.
Rõ ràng là cha mẹ đã rất quan tâm đến việc tôi ăn cắp tiền, nhưng họ cũng rất cẩn thận không làm tôi xấu hổ trước mặt các anh chị em. Cha mẹ cũng không la mắng hay làm tôi sợ hãi. Thay vào đó, họ bình tĩnh nói rõ mọi thứ, và tôi nghĩ họ cũng ý thức rõ về kết quả họ muốn đạt được. Bằng cách giúp tôi hiểu hành vi của tôi đã có tác động như thế nào đến cảm xúc của họ và của bạn tôi, chứ không chỉ đơn giản là cho tôi biết tại sao hành động của tôi là sai trái, cha mẹ đã giúp tôi nhìn nhận hành động của bản thân ở các góc độ khác nhau thay vì buộc tôi phải đứng ở vị trí người bị khiển trách (một hành vi thường khiến trẻ nói dối nhiều hơn). Cha mẹ cho tôi biết những kỳ vọng mà họ dành cho tôi chứ không trách phạt tôi. Kết quả là tôi cảm thấy có lỗi nhưng không xấu hổ về bản thân - đây là một sự khác biệt quan trọng, như chúng ta đã nói đến trong Chương 4 - và có động lực để sửa sai. Nếu cha mẹ buộc tôi phải nói xin lỗi trong khi tôi chưa nhận ra lỗi của mình, có thể họ sẽ nghe được những lời họ muốn nghe, nhưng họ sẽ không thể cho tôi có cơ hội xem xét và xử lý những cảm xúc đã thúc đẩy tôi hành động ngay từ đầu.
Sự thật là tôi cảm thấy bị cô lập ở trường và sự cô đơn này được khuếch đại lên mỗi khi tôi thấy những cô bạn đáng yêu nhất trong lớp vui vẻ cùng nhau đi mua kẹo, một việc mà tôi không có đủ tiền để làm. Bởi vì cha mẹ đã giúp tôi đương đầu với sự khó chịu này nên tôi đã có thể cùng họ nói về việc chịu trách nhiệm cho hành vi của bản thân, cũng như về những cách thức mà tôi có thể dùng để làm quen với vài người bạn trong lớp và tham gia vào những hoạt động vui vẻ cùng bạn bè mà không cần phải trộm cắp. Tôi cũng học được cách nói về những chuyện khó nói sao cho đạt được kết quả tốt nhất. Đây thật sự là một bài học không hề nhỏ.
Nếu cha mẹ chỉ đơn giản là phạt tôi thì tôi đã không có cơ hội học được tất cả những bài học nói trên. Tệ hơn, có thể tôi còn bắt đầu nhìn nhận bản thân như một đứa trẻ trộm cắp, hoặc cho rằng cha mẹ sẽ nhìn nhận tôi như vậy. Nhờ nhận thức rõ về khả năng xấu này, cha mẹ tôi đã giữ cho sự việc ở đúng chỗ của nó - như một chuyện chỉ xảy ra một lần và là một cơ hội để tôi rút kinh nghiệm. Cha mẹ đã nhìn nhận tôi đúng với bản thân tôi lúc đó chứ không cố biến tôi thành phiên bản mà họ muốn tôi trở thành, và chính điều đó đã làm nên tất cả sự khác biệt.
Những bài học về cảm xúc
Như chúng ta đã biết, nuôi dạy những đứa trẻ có kỹ năng linh hoạt cảm xúc bắt đầu từ việc giúp chúng đối diện với tất cả những cung bậc cảm xúc của mình, bao gồm cả những cảm xúc khó chịu nhất. Mặc dù phần lớn quá trình đối diện này tập trung vào việc nhận ra cảm xúc của bản thân (“Con đang cảm thấy như thế nào?”), nó còn liên quan tới một yếu tố rất quan trọng khác, đó là vượt qua, hoặc giải quyết những cảm xúc đó (“Làm thế nào để xử lý cảm xúc này?”). Đây là lúc sự linh hoạt cảm xúc có thể đưa ra những cách thức thực tế để “ứng phó với tình huống”, bất kể tình huống đó là gì.
Để dạy con cách giải quyết cảm xúc, tốt nhất là bạn hãy khuyến khích trẻ tự suy nghĩ. Khi bạn giúp trẻ tự tìm ra giải pháp - những giải pháp có ý nghĩa đối với bản thân trẻ - thì trẻ mới có thể phát triển sự tự chủ giúp chúng tự lèo lái và chịu trách nhiệm cho cuộc đời mình.
Và bây giờ chúng ta sẽ quay lại với ý tưởng về những điều chỉnh nhỏ: những thay đổi nhỏ giúp con của bạn đón nhận thử thách và hướng tới những mục tiêu quan trọng. Điều cần được chú ý ở đây là tiến trình - tâm thế sẵn sàng thử nghiệm, dám thử những điều mới mẻ và khám phá những bài học - chứ không phải một kết quả lý tưởng mang tính thắng-thua nào đó. Ví dụ, con của bạn lo lắng về chuyện kết bạn ở ngôi trường mới. Hiển nhiên bạn biết bé không thể làm quen với tất cả mọi người cùng một lúc được, do đó bạn có thể gợi ý cho con bằng cách hỏi “Những nơi nào sẽ thuận lợi nhất cho việc kết nối với mọi người?”. Còn đối với một đứa trẻ tuổi teen đang phải đối mặt với một thế giới khắc nghiệt trên mạng xã hội, nơi thường có những cuộc tranh luận và những lời lẽ dễ làm người ta tổn thương, bạn có thể hướng dẫn con suy nghĩ tìm cách giải quyết bằng câu hỏi “Con có thể làm gì khi người khác bất đồng quan điểm với mình?”.
Cách nay không lâu, một đồng nghiệp của tôi - hãy gọi anh là Jon - đã cùng đứa con trai sáu tuổi tham gia một giải đấu golf dành cho cha và con. Người lớn đấu với người lớn và những đứa trẻ chơi với nhau, nhưng vào khoảng giữa cuộc thi, Jon thấy con trai mình, Keith, đang khóc. Jon đã ôm lấy Keith và nhẹ nhàng hỏi lý do con khóc, nhưng rõ ràng là dù có an ủi hay trò chuyện như thế nào đi nữa thì hai cha con cũng không có đủ thời gian để giải quyết được cốt lõi vấn đề ngay trong giải đấu.
Vì vậy, Jon đã nói với con rằng thằng bé cứ khóc thoải mái nếu cần. Nhưng anh cũng hỏi liệu thằng bé có thể vừa khóc vừa tiếp tục chơi golf hay không. Jon hứa với con rằng chỉ cần thằng bé có thể hoàn thành trận đấu thì họ sẽ cùng ngồi lại để tìm ra lý do khiến thằng bé buồn ngay khi trận đấu kết thúc. Keith đồng ý, và cha con họ đã quay lại đội của mình để chơi nốt phần còn lại của giải đấu. Keith thậm chí đã chơi tốt đến mức giành được cúp.
Với một người cha ít hiểu biết về tâm lý hơn, chuyện này có thể dễ dàng trở thành một ví dụ về đóng chai cảm xúc, tức là chôn vùi những cảm xúc khó chịu và khiến mình bứt rứt suốt cả trận đấu. Thông thường, khi yêu cầu những đứa trẻ đang khóc lóc hoặc đang tức giận phải cư xử “phải phép” hơn, chúng ta đã vô tình gửi cho chúng thông điệp rằng cảm xúc của chúng không quan trọng đối với chúng ta.
Nhưng Jon thì khác. Anh đã dành thời gian để thể hiện sự cảm thông với con, để nhìn nhận với nỗi khó chịu của con. Hành động này đủ để giúp Keith có thể thoát khỏi chiếc móc câu cảm xúc, để tiếp nhận cảm xúc của mình một cách tỉnh táo và cảm thông trong khi vẫn làm việc cần làm, đó là hoàn thành trận đấu.
Sau đó, khi họ có thời gian để trò chuyện, Jon đã được biết rằng con trai anh buồn vì làm mất một quả bóng golf. Trong tâm trí của cậu bé Keith sáu tuổi, những quả bóng rất đắt tiền, vậy nên sự cố nhỏ này đã khiến thằng bé rất sợ hãi.
Jon nói với tôi rằng giờ đây, sau nhiều năm, anh vẫn nhắc nhở con trai mình rằng có thể vừa khóc vừa chơi cùng một lúc. Có lẽ phản ứng theo kiểu “hoàn thành việc cần làm dù đang cảm thấy như thế nào” này chính là cốt lõi của tính linh hoạt trong cảm xúc.
Chỉ có vậy thôi
Hầu hết mọi người đều chưa từng nghe đến cái tên Malala, mãi cho đến năm 2009. Malala, cô bé tuổi teen người Pakistan đoạt Giải Nobel này đã trở thành một biểu tượng toàn cầu cho sự dũng cảm và tinh thần mạnh mẽ. Ở tuổi mười lăm, Malala Yousafzai bắt đầu dùng bút danh để viết blog cho kênh BBC về cuộc sống của cô ở tây bắc Pakistan, nơi quân đội Hồi giáo Taliban - lực lượng đang thống trị vùng này - đã cấm hầu hết các bé gái đến trường. Trong blog của mình, Malala đã nói về tầm quan trọng của giáo dục đối với nữ giới.
Sau khi phóng viên của tờ New York Times viết một phóng sự về cuộc sống của cô vào năm 2010, Malala được toàn thế giới biết đến và cô cũng nhận được những lời hăm dọa từ trong đất nước của mình. Năm 2012, quân đội Taliban đã cử một tay súng đến giết Malala khi cô đang trên xe buýt về nhà sau khi tan học. Khi tên sát thủ lên xe buýt và đe dọa giết tất cả các cô gái trên đó, Malala, khi đó mới mười lăm tuổi, không ngần ngại nhận mình là người mà hắn đang tìm. Hắn đã bắn ba phát đạn, trong đó có một phát trúng vào đầu Malala.
Cha của Malala, Ziauddin, là một nhà hoạt động giáo dục. Ông và vợ đã dạy con gái mình đấu tranh cho những giá trị mà bản thân tin tưởng bằng cách làm gương cho con. Khi Malala rơi vào tình trạng nguy kịch, Ziauddin đã đau đớn tự hỏi ông có đúng khi khuyến khích con gái trở thành một nhà hoạt động xã hội hay không. Niềm an ủi duy nhất mà cha mẹ cô có là biết rằng con gái mình đã tìm được một lý tưởng mà cô coi trọng đến mức không ngại đối đầu trực diện với tử thần.
Khi Malala hồi phục sau vết thương chí mạng, cha mẹ cô nhận ra họ được con gái mình xoa dịu bằng chính lòng dũng cảm mà họ hun đúc nơi cô. “Con bé đã an ủi chúng tôi”, Ziauddin nói trong một bài phát biểu ngắn trước khi Malala nhận giải Nobel Hòa bình năm 2014 ở tuổi mười bảy và trở thành người trẻ tuổi nhất được nhận giải thưởng này. “Chúng tôi đã học được từ con bé cách làm thế nào để kiên cường trong những thời khắc khó khăn nhất”. Và để bạn không nghĩ câu chuyện này không áp dụng được cho con của mình, Ziauddin nói thêm: “Malala giống như bất kỳ bé gái nào khác. Con bé cãi nhau với anh em mình và khóc khi chưa làm xong bài tập về nhà”.
Tuy nhiên, điều mà Ziauddin thật sự muốn truyền tải là một thông điệp mà bậc cha mẹ nào cũng khắc cốt ghi tâm: “Điều gì đã giúp Malala trở nên thật đặc biệt, thật táo bạo và tự tin như vậy? Đừng hỏi tôi đã làm gì. Hãy hỏi tôi đã không làm gì. Tôi đã không cắt đi đôi cánh của con, chỉ có vậy thôi”.