T
rận khai màn mùa giải 2005-06 diễn ra tại quê nhà: Everton, Goodison Park. Một lần nữa họ la ó và phỉ báng tôi bằng mọi lời lẽ có thể. Nhưng tôi chẳng quan tâm. Tôi có nhiều thói quen trước trận để giữ đầu óc tỉnh táo, nhiều cầu thủ khác cũng vậy. Và trước trận đấu này, tôi cầu nguyện, điều tôi bắt đầu làm gần đây vì bố mẹ Coleen theo đạo, nên điều đó cũng quan trọng với tôi. Giờ tôi đã có đức tin.
Thật hài hước, dù không ngại về việc tin tưởng vào Chúa, nhưng tôi luôn cầu nguyện kín đáo. Tôi không thể hiện cho người khác thấy vì tôi không cần phải làm thế. Tôi không muốn người khác thấy tôi cầu nguyện trước mọi trận đấu. Tôi không phải là người làm dấu thánh khi chạy vào sân; tôi không nhìn lên trời, kể cả khi bỏ lỡ một cú đệm bóng cận thành. Thay vào đó, tôi cầu nguyện trong phòng thay đồ của đội khách tại Goodison – mặc đồng phục United, dây giày buộc chặt – tôi bước vào một góc và dành ít phút cho bản thân.
Tôi cầu nguyện cho sức khỏe của người thân và bạn bè.
Tôi cầu rằng mình sẽ không bị chấn thương nặng hay đau đớn.
Tôi không cầu xin chiến thắng hay bàn thắng, tôi cầu xin sự an toàn.
Tôi còn nhiều nghi thức khác nữa.
Đêm qua, tôi tới gặp nhân viên hậu cần của câu lạc bộ vì muốn biết rõ màu sắc bộ quần áo mình sẽ mặc ngày hôm sau.
“Ờ, ngày mai mặc áo sân nhà đó Wayne, quần đen, tất đen. Sao cậu hỏi vậy?”
Chỉ tò mò thôi.
Tôi không bảo ông ấy rằng mình đang bắt đầu tưởng tượng ra màn trình diễn của bản thân trong các buổi tối trước trận đấu. Khi đi ngủ, tôi tưởng tượng những người sẽ đối đầu mình vào ngày mai, và tôi dành 20 phút để nghĩ ra những tình huống đặt bản thân vào trước khung thành. Tôi định sẵn những gì mình sẽ làm. Tôi nhận ra rằng nếu sử dụng trí tưởng tượng trước trận đấu thì bản thân sẽ sẵn sàng khi bước vào thực chiến.
Tôi nghĩ nếu hậu vệ Everton, Tony Hibbert, bị hạn chế ở một bên, tôi sẽ khai thác điểm yếu này. Rồi tôi tưởng tượng ra khán đài Gwladys Street End. Tôi thấy Ronaldo đang tăng tốc bên cánh và tung ra một quả tạt hướng đến tôi. Tôi xem mình sẽ di chuyển ra sao khi bóng hướng đến chỗ mình. Chạm một hoàn hảo. Tôi sút bóng về phía khung thành, nó bay qua thủ thành của họ, Nigel Martyn.
1-0!
Hai mắt bắt đầu trĩu xuống, tôi chìm dần vào giấc ngủ. Về mặt thể chất, tôi đang thả lỏng. Nhưng về mặt tâm lý, tôi giống như một tay golf đứng trước bóng: Tôi định hình hướng bóng, mường tượng kết cục hoàn hảo nhất trong đầu. Nhưng điều quan trọng là tôi phải tưởng tượng mọi thứ với đúng bộ đồng phục chúng tôi sắp mặc. Nếu sai màu, tôi sẽ sai nhịp khi trận đấu diễn ra vào ngày mai.
Mọi thứ phải diễn ra cùng cái áo màu đỏ, quần đùi đen và tất đen.
Trong tâm trí, tôi thấy một đường bóng dài từ tuyến dưới tới chân tôi. Tôi ở rìa vòng cấm Everton. Đội trưởng của họ, Phil Neville, lao về phía tôi. Tôi biết anh ta rất quyết liệt, xoạc bóng mạnh mẽ ở khắp mọi nơi. Anh ta lao đến, trượt trên mặt cỏ. Tôi làm như định sút bằng chân phải, hạ vai rồi gạt bóng vào trung lộ khi anh ta lao qua tôi. Tôi nã đại bác bằng chân trái, bóng vượt qua Martyn.
2-0!
Hôm sau, khi thức dậy, tôi biết mình đã chuẩn bị kỹ càng.
Áo đỏ, quần đen và tất đen.
Bất cứ cơ hội nào xuất hiện, tôi cũng đã sẵn sàng. Hài hước là khi trận đấu diễn ra, kết quả đã được định sẵn trong tâm trí tôi, chỉ có các chi tiết hơi khác một chút. Trước trận đấu, người ta la ó ầm ĩ hơn bao giờ hết và tất cả mọi người đều nhắm vào tôi. Thế rồi Ruud mở tỷ số ở phút 43 và cả sân bóng rơi vào im lặng.
Chỉ ít giây sau giờ nghỉ, hậu vệ Joseph Yobo của Everton cầm bóng ở phần sân nhà. Tôi có thể thấy anh ta định chuyền về cho Nigel Martyn. Khi anh ta bắt đầu chuyền, tôi có mặt đúng chỗ để chặn đứng nó. Tôi cắt bóng chỉ trong nháy mắt.
Tôi đứng cách khung thành 11m và chỉ còn thủ môn trước mắt.
Bóng đi xuôi theo đường chạy của tôi. Nigel Martyn nhận ra không có lợi thế về khoảng cách nên không lao ra.
Anh ta không rời vị trí; tôi có rất nhiều khoảng trống để nhắm vào.
Tôi đưa ra quyết định.
Góc dưới bên trái.
Bóng đi vào lưới và Goodison Park lại im bặt. Tiếng la ó vang lên mỗi lần tôi chạm bóng ở hiệp một bị chặn đứng. Thật tuyệt.
Tôi yêu thích sự im lặng ở đây không khác gì tiếng gào thét của 76.000 cổ động viên tại Old Trafford.
Tôi biết rõ mình sẽ bị chỉ trích rất nhiều vào chiều nay và tự nhủ bản thân sẽ không ăn mừng nếu ghi bàn, nhưng sự thù địch trong hiệp một tệ tới mức tôi không thể không cảm thấy tức giận và bức xúc.
Chết tiệt, tôi cứ ăn mừng đấy.
Tôi chạy về hướng có cổ động viên United, trượt gối trên mặt cỏ, gào thét to hết sức khi các đồng đội lao đến và nhảy lên người tôi. Tôi là cổ động viên Everton duy nhất trên cả nước hạnh phúc vào lúc ấy.
*
* *
Khi mùa giải đi từ tháng 8 sang tháng 9, một điều tôi nhận thấy sau cả năm trời thi đấu cho United là, tất cả đối thủ đều cố gắng hơn hẳn khi chạm trán chúng tôi, đặc biệt là ở Old Trafford. Tôi đã đoán trước được điều đó khi ký hợp đồng – ngay cả huấn luyện viên trưởng và các đồng đội như Gary Neville cũng cảnh báo rằng đối thủ thường chơi hay hơn khi đọ sức với chúng tôi, nhưng phải mất một thời gian tôi mới quen được với thực tế ấy. Những đối thủ tôi từng chạm trán khi còn khoác áo xanh nay quyết tâm hơn hẳn khi tôi mặc áo đỏ. Thật điên rồ. Như Blackburn chẳng hạn, họ đến sân nhà của chúng tôi vào tháng 9 và thắng 2-1. Đáng lẽ họ không thể thắng, chúng tôi là đội bóng gồm các cầu thủ hàng đầu, nhưng lại để lọt lưới những bàn thua ngớ ngẩn.
Tôi đoán nguyên nhân nằm ở sự thiếu kinh nghiệm; chúng tôi có phần còn non nớt. Ai cũng biết đội bóng đang ở trong giai đoạn chuyển giao. Đúng là chúng tôi sở hữu những cầu thủ dạn dày như Giggsy, Scholesy và Gary Neville; còn có Edwin van der Sar vừa gia nhập từ Fulham và là một thủ môn hàng đầu. Nhưng bên cạnh đó là không ít gương mặt thiếu kinh nghiệm. Những người như tôi, Ronaldo và Darren Fletcher vẫn đang học hỏi về cách xuyên phá hàng thủ của những đội bóng chơi co cụm. Chúng tôi vẫn chưa biết cách đọc trận đấu, chúng tôi còn thiếu kiên nhẫn và điều đó khiến đội bóng đánh rơi điểm số.
Tôi làm tất cả có thể để mọi thứ diễn ra dễ dàng hơn. Tôi luôn theo dõi trận đấu của đối thủ kế tiếp qua ti vi, để xem mình sắp phải đối đầu với điều gì. Một đêm thứ Bảy vào tháng 10, tôi dùng bữa với đồ ăn Trung Quốc và một ly rượu vang; theo dõi chương trình Match of the Day trên ti vi và xem trận đấu của đối thủ tuần tới: Middlesbrough. Họ tệ hại vô cùng; họ để thua 1-2 trước West Ham.
Tuần sau chúng tôi có thể thắng đến 10-0.
Khi bước vào trận đấu 7 ngày sau đó tại Riverside, trong tiết trời lạnh và ẩm ướt, họ dường như đã trở thành một đội bóng hoàn toàn khác – nhanh hơn, khỏe hơn và khao khát hơn những gì họ vừa thể hiện tuần trước. Họ đã biến đổi hoàn toàn. Có lẽ suy nghĩ đối đầu với chúng tôi đã biến họ trở thành một đội bóng mạnh hơn. Điều đó khiến tôi hoang mang. Chúng tôi không thể làm chủ thế trận. Ngay từ phút đầu, các hậu vệ của họ nhắm vào tôi cũng như Ronnie và tôi hoàn toàn không thể đóng góp vào lối chơi. Bỗng nhiên, tiền vệ của họ, Gaizka Mendieta, tung ra một cú sút xa vu vơ mà Edwin vốn dĩ đã có thể cản phá, nhưng bóng đi vào lưới và cả sân bóng nổ tung. Boro phấn khích tới mức họ ghi thêm 3 bàn nữa và chúng tôi bị vùi dập.
Huấn luyện viên trưởng nổi điên sau trận đấu.
“Đó không phải là màn trình diễn của Manchester United”, ông ấy hét vào mặt tất cả những ai ngồi trong phòng thay đồ, rồi nói từ những điều nhỏ nhặt nhất. “Các cậu không xứng mặc cái áo này”.
Ông ấy đúng và chúng tôi hiểu rõ điều đó. Phải mất đến nửa tiếng đồng hồ để chúng tôi lấy lại năng lượng và đi tắm. Ở Champions League, mọi chuyện cũng không khá hơn là bao. Sự thiếu kinh nghiệm và thiếu bình tĩnh khiến chúng tôi không thể xuyên phá hàng thủ của Benfica, Villarreal và Lille tại vòng bảng. Trong trận gặp Villarreal, tôi mất bình tĩnh và vỗ tay mỉa mai trọng tài (Kim Milton Nielsen, cái gã đã truất quyền thi đấu David Beckham khi tuyển Anh gặp Argentina ở World Cup 1998) khi ông ấy rút thẻ vàng cho một pha vào bóng muộn của tôi. Sau đó, ông ấy tặng thêm một chiếc thẻ vàng và đuổi tôi ra khỏi sân. Chúng tôi chỉ thắng 1 trận vòng bảng và thua 3, nhưng kỳ lạ là khi bước vào trận đấu cuối gặp Benfica, chúng tôi vẫn có thể đi tiếp nếu thắng. Trong trường hợp thất bại, chúng tôi sẽ đứng bét bảng. Đó là hậu quả của việc không biết đánh bại những đối thủ thích lùi sâu phòng ngự.
Tôi đã từng ở phía bên kia chiến tuyến. Mỗi khi cùng Everton đọ sức với United, tôi luôn cảm thấy đây là một trận đấu lớn và chúng tôi rất quyết tâm phòng ngự. Tại Goodison, cổ động viên ầm ĩ hơn và các cầu thủ chuyền bóng với nhịp độ cao hơn. Khi tới Old Trafford, chúng tôi chiến đấu như thể đây là trận đánh giải cứu câu lạc bộ vậy. Vào tháng 10 năm 2002, chúng tôi thậm chí còn giữ sạch lưới, cho tới khi trận đấu gần kết thúc.
Hôm đó tôi ngồi dự bị. Thật hài hước là khi tôi vào sân ở thời điểm trận đấu còn 15 phút, tỷ số vẫn là 0-0, cổ động viên United phỉ báng tôi. Họ có nhiều lý do, tôi đoán vì mình là một Scouser và xuất hiện nhiều trên mặt báo. Ở đó, rất nhiều từ ngữ có cánh nói về tương lai của tôi, nhưng nó không giúp ích một cầu thủ thi đấu quyết liệt và thích xoạc bóng như tôi. Tiếng la ó bùng lên ngay lập tức, nhưng tôi biết điều đó diễn ra vì chúng tôi vẫn đang cầm chân và họ không muốn tôi ghi bàn đem về chiến thắng.
Sau đó, phút 86, United ghi bàn đầu tiên trong số ba bàn thắng.
Ba bàn!
Một khi họ mở tỷ số, chúng tôi hoàn toàn bất lực trong việc ngăn chặn cuộc vùi dập này. Đôi chân của chúng tôi nặng nề hơn, đỡ bóng bật ra xa cả mét. Chúng tôi sụp đổ hoàn toàn. Bàn thua đầu tiên làm tan rã cả đội hình, như thể chiếc kim làm nổ quả bóng bay.
Bàn gỡ trước đối thủ như thế này tại Old Trafford? Không có cửa đâu.
Bàn thứ hai và thứ ba của họ đến rất nhanh sau đó. Chúng tôi thất bại hoàn toàn.
Hài hước là một vài cầu thủ tại United không thấy sự khác biệt ở đối thủ – cách họ chơi hay hơn hẳn mỗi khi chạm trán chúng tôi – nhưng tôi nhận ra vì tôi thích nghiên cứu chiến thuật và các đối thủ. Tôi coi đó như một phần công việc. Đó là bài tập về nhà.
Tôi xem bóng đá Tây Ban Nha và Italia. Tôi thậm chí còn xem cả các đội bóng ở Championship. Tôi không tìm kiếm điều gì từ những cuộc đấu ở giải hạng thấp, nhưng nếu có trận đấu thì tôi sẽ xem vì sở thích. Tôi muốn biết những ai đang thi đấu và cách họ chơi bóng. Nhưng trên hết, tôi thích xem các tiền đạo. Tôi có thể học hỏi được vài thứ khi theo dõi các cầu thủ ở cùng vị trí, bất kể họ đang chơi bóng tại hạng đấu nào.
*
* *
Roy Keane rời câu lạc bộ vào tháng 11 năm 2005, một tin động trời. Cổ động viên United yêu mến anh ấy, nhưng anh ấy chấn thương nặng ở trận gặp Liverpool hồi tháng 9 và hầu như không thi đấu nữa. Tôi đoán huấn luyện viên trưởng đã đặt dấu chấm hết cho Roy và anh ấy chuyển tới Celtic. Tệ hơn là anh ấy chỉ trích một số cầu thủ trẻ sau trận thảm bại trước Boro'. Nhưng mọi người vẫn sốc khi anh ấy chia tay Old Trafford.
“Đó là điều mà chúng ta sẽ phải giải quyết”, huấn luyện viên trưởng phát biểu khi tập hợp đội bóng lại để thông báo tin mới. Không có ai phàn nàn và Gary Neville được chỉ định làm đội trưởng mới, một lựa chọn hợp lý đối với tôi. Gary là người hoàn hảo với trọng trách này, một đồng đội đích thực. Anh ấy sẽ làm tất cả những gì tốt nhất cho đội bóng, vì đó là một thủ lĩnh thực sự và sự có mặt của anh ấy tốt cho tất cả mọi người trong câu lạc bộ, không chỉ các cầu thủ đội Một mà còn cả đội dự bị và đội trẻ. Bất cứ cậu nhóc nào có vấn đề và muốn xin tư vấn về hợp đồng, họ luôn tìm tới anh ấy.
Nhờ những cầu thủ như Gary, tôi hòa nhập rất nhanh ở United. Old Trafford giống như nhà tôi vậy và cảm giác thoải mái này đem lại sự tự tin cho tôi – tôi biết mình có thể ghi bàn và kiến tạo cho các đồng đội. Sự tự tin là một phần quan trọng trong bóng đá. Có nó, tôi không thể bị chặn lại. Có những ngày khung thành trở nên khổng lồ và tôi biết rõ mình sẽ ghi bàn. Có những lúc khung thành bé lại bằng cái hộp thư. Tất cả là do tâm lý của tôi.
Trong vòng một tháng của mùa giải 2005-06, từ cuối tháng 10 tới cuối tháng 11, tôi trải qua một chuỗi trận dài tịt ngòi, nhưng tôi vẫn giữ được sự bình tĩnh, điều rất khó làm. Rất dễ để trở nên bức xúc khi trải qua một chuỗi trận kém cỏi, hoặc vài tuần không ghi bàn.
Tại sao tôi chưa ghi bàn?
Tôi đã làm gì sai vậy?
Tôi nên làm gì bây giờ?
Nhưng tôi phải giữ tập trung, nếu không điều đó sẽ ảnh hưởng tới cách tôi tư duy trên sân. Tôi dập tắt những câu hỏi ấy. Thay vào đó, tôi tiếp tục cố gắng, tiếp tục chăm chỉ. Tôi biết nếu mình tiếp tục làm mọi thứ, bàn thắng rồi cũng sẽ đến. May mắn là khi tôi không ghi bàn cho United, có những cầu thủ khác hoàn thành trách nhiệm ấy, như Ruud, Ronaldo và Louis Saha, tiền đạo chúng tôi đưa về từ Fulham năm 2004. Louis và tôi thực sự ăn ý trên sân. Anh ấy chạy rất nhanh và có cảm giác bóng tốt tới mức tôi không dám chắc anh ấy thuận chân nào, dù đã tập luyện và thi đấu cùng anh ấy hàng tháng trời.
Huấn luyện viên trưởng cũng biết bàn thắng sẽ đến, ông ấy biết cách giữ lửa cho tôi trong một giai đoạn khó khăn. Ông ấy bảo rằng nếu tôi không thể ghi bàn thì phải bù đắp vào những khía cạnh khác, nên trong các trận đấu, tôi luôn bám đuổi hậu vệ đối phương và tạo ra cơ hội. Tôi buộc người kèm cặp mình phải chạy theo, kéo anh ta ra khỏi vị trí và khiến anh ta mệt lả đi. Tôi tạo khoảng trống cho các cầu thủ khác xâm nhập. Sau 90 phút, tôi sẽ không tự trách bản thân nếu không ghi bàn, nhưng các tiền đạo khác trong đội bóng sẽ không làm thế. Khi Ruud hay Ronnie tịt ngòi trong trận đấu, họ sẽ bực mình kể cả khi chúng tôi chiến thắng. Với bản thân, tôi hạnh phúc dù cho mình có ghi bàn hay không. Có lẽ tôi cần thêm sự tập trung đó, sự tham lam đó. Có lẽ tôi nên buồn bực nếu không ghi bàn. Nhưng vào lúc này, tôi chỉ buồn khi đội nhà thua cuộc mà thôi.
Sau bốn vòng đấu, bàn thắng đến với tôi trong trận thắng 2-1 trên sân của West Ham vào tháng 11. Tiếp theo là một chuỗi phong độ cao của tôi, chọc thủng lưới Portsmouth (thắng 3-0), Wigan (4-0), Aston Villa (2-0) và Birmingham (2-2). Vào đêm giao thừa, chúng tôi đè bẹp Bolton 4-1 và đội bóng xếp nhì bảng. Chúng tôi còn xa mới đuổi kịp Chelsea, nhưng tôi nghĩ cả đội đều tự tin vào cơ hội vô địch, nếu chúng tôi loại bỏ những sai lầm ngớ ngẩn và Chelsea sảy chân.
BẢNG XẾP HẠNG PREMIER LEAGUE,
NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 2005
Chúng tôi đều hiểu chặng đường còn nhiều khó khăn, nhưng United không bao giờ bỏ cuộc.
*
* *
Ruud không vui chút nào. Tôi nghĩ anh ấy nhận thấy quãng thời gian tại United đang đi tới hồi kết và lối chơi của đội bóng lúc này không còn hợp với mình. Anh ấy vẫn là một tay săn bàn thượng hạng, nhưng những cầu thủ mà huấn luyện viên trưởng mang về như Ronaldo, Louis và tôi phù hợp hơn với lối đá nhanh, phản công. Chúng tôi dùng tốc độ để chơi bóng; Ruud thích làm chậm nhịp đấu để nhiều cầu thủ tham gia tình huống, nhưng chúng tôi không còn chơi bóng kiểu đó nữa.
Tôi có cảm giác anh ấy không vui ngay từ khoảnh khắc tôi ký hợp đồng với United. Ronnie và tôi liên tục được nhắc đến và tôi không nghĩ anh ấy hài lòng với điều đó – không phải lỗi của chúng tôi, chúng tôi đâu có viết mấy bài báo đó, nhưng chúng tôi chắc chắn đang thu hút sự chú ý. Tôi thì không có vấn đề gì, tôi thân thiết với Ruud, nhưng tôi không nghĩ anh ấy và Ronnie là những người bạn tốt. Họ tranh cãi với nhau vài lần trên sân tập và Ruud cực kỳ bực bội khi Ronnie không chuyền bóng nhanh như ý muốn của anh ấy. Sau đó, huấn luyện viên trưởng cho Ruud ngồi dự bị ở chung kết Carling Cup gặp Wigan vào tháng 2 và anh ấy thực sự không hài lòng. Ruud ngồi bên cạnh những tân binh tháng 1 của chúng tôi, Patrice Evra - một hậu vệ cánh người Pháp đến từ Monaco, và trung vệ người Serbia - Nemanja Vidic. Patrice sớm yêu nơi này. Anh ấy đến từ nơi biển xanh và nắng vàng tại Monte Carlo và quen biết Thân vương Albert của Monaco. Nhưng khi trời mưa trên sân tập, anh ấy bắt đầu nhảy múa.
“Chào mừng tới Anh quốc!”, anh ấy hô to.
Patrice và Vida cần thời gian hòa nhập vì họ không thể bắt kịp tốc độ bóng đá Anh, họ bị sốc. Sau buổi tập đầu tiên tại Carrington, dường như họ đều choáng váng. Ba tuần sau đó, trông họ vẫn như vậy.
Tôi lôi họ ra làm trò đùa.
“Này Rio”, một hôm, tôi nói trong phòng thay đồ, biết rõ cả hai đều có thể nghe thấy. “Mấy tay này tồi lắm, không bắt kịp nổi đâu.”
Vida và Patrice chửi lại mấy câu, nhưng tôi phải nói Premier League đã tạo ra cú sốc lớn cho cả hai. Cầu thủ nước ngoài nào cũng vậy khi mới đến đây.
Bất chấp cảm xúc tồi tệ của Ruud trước trận đấu, cả đội đều rất quyết tâm khi sắp bước vào chung kết Carling Cup, sau khi đánh bại Barnet, West Brom, Birmingham và Blackburn để đến được đây. Động lực lớn nhất chính là nỗi đau để thua chung kết FA Cup trước Arsenal mùa vừa rồi. Nỗi đau ấy vẫn còn âm ỉ và huấn luyện viên trưởng biết đó là động lực chiến thắng của chúng tôi. Trước trận đấu, ông ấy bình tĩnh. Chúng tôi được đánh giá cao hơn hẳn và ông ấy nghĩ nếu đá như bình thường trước Wigan, chúng tôi sẽ thắng.
Huấn luyện viên không sai. Chúng tôi ghi 4 bàn, trong đó có một cú đúp của tôi. Bàn đầu tiên đến với tôi sau khi bóng được chuyền lên cho Louis. Anh ấy thắng trong pha không chiến, bóng rơi xuống và hai hậu vệ đối phương đâm sầm vào nhau khi cố gắng đoạt bóng. Sai lầm đó giúp tôi thoát ra để đối mặt với thủ môn và tôi đưa quả bóng qua đầu anh ấy rồi cắm xuống góc lưới. Cú đúp hoàn tất khi Rio đánh đầu chuyền cho tôi trong một quả đá phạt.
Wigan không có bất kỳ vũ khí nào để chống trả. Bất chấp sự thiếu kinh nghiệm tại giải Premier League, cả Patrice và Vida đều được thay người tại sân vận động Thiên Niên Kỷ. Ruud không được vào sân và anh ấy không vui chút nào. Công bằng mà nói thì tôi cũng sẽ vô cùng tức giận trong hoàn cảnh ấy. Tôi biết chắc anh ấy sẽ chia tay câu lạc bộ vào mùa hè.
*
* *
Carling Cup là danh hiệu đầu tiên của tôi tại United, nhưng thế là không đủ vì Chiếc Cúp Lớn của Premier League có vẻ như sẽ xa rời chúng tôi thêm lần nữa.
Chelsea.
Kịch bản mùa trước tái hiện: Họ mạnh ở hàng công, phòng ngự chắc chắn trong cả mùa giải. Dù sao chúng tôi cũng thu hẹp đáng kể cách biệt 11 điểm vào dịp giao thừa và đến cuối mùa giải có cơ hội nhỏ nhoi để cuỗm lấy chức vô địch nếu đánh bại họ trên sân khách vào ngày 26/4. Sau đó, họ phải để thua cả hai trận cuối mùa gặp Blackburn và Newcastle, trong khi chúng tôi cần đánh bại Boro cũng như Charlton ở những vòng còn lại (và phải ghi thật nhiều bàn thắng nữa). Nếu Chelsea và chúng tôi bất phân thắng bại, họ sẽ vô địch sớm vài vòng đấu. Cuộc đọ sức này không khác nào một trận chung kết; không ai biết điều gì sắp xảy ra.
Chúng tôi có một trận đấu thảm họa từ đầu tới cuối. Hậu vệ của họ, William Gallas, mở tỷ số từ sớm. Không lâu sau đó, tôi vướng vào một cú tắc bóng 50-50 với John Terry, nhưng tôi quyết tâm tới mức dẫn quả bóng chạy thẳng qua anh ấy. Anh ấy nằm xuống sân một lúc lâu và cáng đã được mang ra, nhưng rồi anh ấy lại tự đứng dậy được. Sau đó, anh ấy vẫn chơi tiếp nhưng rõ ràng vẫn còn rất đau. Trong quả phạt góc tiếp theo, khi chúng tôi đứng cạnh nhau trong vòng cấm, anh ấy thì thầm vào tai tôi.
“Anh có nguyên một cái lỗ trên chân vì đinh giày của chú đấy.”
Tôi thấy tiếc cho anh ấy, nhưng cũng không quá nhiều. Chuyện thường mà.
Trận đấu vẫn tiếp diễn.
20 phút sau, tôi có một cơ hội mười mươi. Thủ môn Petr Cech của họ băng tới trước mặt tôi và bóng đi ra ngoài. Tôi biết đó là cơ hội gây áp lực cho Chelsea nhưng đã bỏ lỡ nó. Tôi cảm thấy thật tệ.
Hiệp hai chẳng khá hơn là bao. Thực tế, nó là một bộ phim kinh dị: Joe Cole ghi bàn thứ hai cho Chelsea sau khi lắc người vượt qua hai hậu vệ và dứt điểm đánh bại Edwin. Tôi bị chấn thương sau pha va chạm với Paulo Ferreira. Cú xoạc ấy không có ác ý, nhưng đủ để làm gãy xương cổ chân và gây ra cơn đau thấu trời. Nhưng tôi có lẽ đau về tinh thần nhiều hơn là về thể xác, vì khi rời sân, rất nhiều câu hỏi được đặt ra trong đầu tôi.
Cuộc đua vô địch đã ngã ngũ chưa?
Tôi còn có thể dự World Cup tại Đức vào mùa hè không?
Câu hỏi đầu tiên được trả lời rất nhanh sau khi tôi được cáng ra ngoài. Chelsea ghi bàn thứ ba và cơ hội vô địch của chúng tôi tan thành mây khói.
Sau trận đấu, cả tôi và Terry đều nằm cáng trong đường hầm Stamford Bridge. Tôi đoán là anh ấy ít đau hơn vì có một huân chương vô địch Premier League quấn quanh cổ và khi chúng tôi chạm mặt nhau, mỗi người đi theo một hướng khác: tôi ra xe buýt về Manchester, anh ấy ra sân ăn mừng cùng cổ động viên Chelsea. Anh ấy xin chữ ký của tôi trên áo. Chắc chắn rồi, JT, của anh này. Khi tôi đưa lại cái áo, anh ấy nhìn thấy thông điệp cùng với chữ ký của tôi:
“Gửi JT, cho em xin lại cái đinh giày nhé?”
Anh ấy không vui lắm, nhưng tôi thì cũng chẳng khác gì. Đây là mùa thứ hai của tôi tại Old Trafford và Chelsea vô địch Premier League cả hai lần. Chúng tôi thậm chí còn không thể thách thức họ. Tôi nhìn vào bảng xếp hạng sau đó ít ngày.
BẢNG XẾP HẠNG PREMIER LEAGUE,
NGÀY 29 THÁNG 4 NĂM 2006
Tôi phải thừa nhận rằng: Trong chuyến xe trở về, rất nhiều sự nghi ngờ dấy lên.
Chúng tôi có đủ thực lực để vô địch giải đấu này không?