T
rong dịp nghỉ hè, một vài tuần sau khi mùa giải kết thúc, một cổ động viên hỏi tôi về các danh hiệu Premier League, League Cup và cả huy chương Champions League; về cuộc chiến với Chelsea, Arsenal và Liverpool: Mọi thứ bắt đầu từ đâu? Làm thế nào tôi trở thành cầu thủ chuyên nghiệp? Chúng tôi trò chuyện cùng nhau và tôi kể lại tất cả, từ xuất phát điểm ở sân bóng trên mặt đường nhựa đằng sau nhà. Chúng tôi gọi nó là The Goals, một mảnh đất nhỏ thuộc về câu lạc bộ địa phương có tên gọi The Gems.
Tôi bảo với cậu bé ấy rằng mình đã chơi bóng ở đó lần đầu vào năm 6 tuổi. Và tiếp tục chơi bóng ở đó cho đến tận năm 12 tuổi. Mỗi buổi tối sau giờ học, tôi đều ra đó, có khi chỉ một mình, đá bóng vào hàng rào và khống chế quả bóng nảy ra; sút vô-lê và đá phạt trực tiếp từ vạch giữa sân, dẫn bóng qua các hậu vệ trong tưởng tượng. Sân bóng đó có kích thước hoàn hảo dành cho một cậu bé như tôi - về cơ bản, đó là sân 5 người - và tôi có thể nhanh chóng chạy từ đầu này tới đầu kia của sân.
Nếu không tập sút, tôi sẽ đứng vào một góc để chuyền chéo sân sang góc đối diện ở đầu sân bên kia. Tôi tập chuyền bằng cả má trong lẫn má ngoài, bằng chân trái và cả chân phải. Tôi sẽ dẫn bóng và tập đảo chân cùng nhiều kỹ thuật qua người khác. Tôi sẽ không về nhà cho tới khi mẹ gọi về ăn tối.
Khi đội The Gems đóng cửa vào buổi tối, tôi sẽ chui qua hàng rào để chơi bên trong The Goals thêm một lúc. Chủ sân chẳng thèm đoái hoài. Có hôm, tôi ra sân muộn đến mức người quản lý bật đèn cho một mình tôi chơi. Lần đầu tiên điều đó xảy ra - ánh đèn chiếu xuống, tạo ra những vệt bóng dài như trong các trận đấu cúp châu Âu - tôi cảm thấy mình không khác nào cầu thủ chuyên nghiệp như trên ti vi vậy.
Hồi thi đấu cho Everton, tôi thường tới câu lạc bộ dành cho giới trẻ mỗi khi rảnh rỗi. Ở đó, chúng tôi có thể chơi snooker và bóng bàn. Tôi cũng từng nhảy múa ở đó. Quả thực là một điểm đến lý tưởng bởi họ cung cấp cho bọn trẻ một địa chỉ vui chơi an toàn. Tôi rất thích nơi này.
Tôi và bạn bè có thể vào đấy, cười đùa thả ga mà chẳng gặp bất cứ rắc rối nào. Nơi này hôm nào cũng mở cửa, nên gần như mọi buổi tối sau khi tan học, tôi sẽ tới The Gems, nghe nhạc hoặc chơi snooker.
Nhưng dù thế nào thì tôi cũng dành hầu hết thời gian ở trên sân bóng. Tôi thường tưởng tượng bản thân đầu quân cho Everton, nghĩ mình là Duncan Ferguson ghi bàn trước khán đài Gwladys Street End tại Goodison Park.
The Goals chẳng khác nào một góc riêng của tôi. Tôi cảm tạ số phận vì được chơi bóng tại đó. Nếu không nhờ sân bóng ấy, có thể tôi đã không trở thành cầu thủ chuyên nghiệp như hôm nay. Chưa biết chừng, tôi đã có một cuộc sống rất khác.
Chơi bóng ở đó mỗi ngày giúp tôi cải thiện kỹ năng và sự tự tin để thi đấu trong màu áo tuyển trường cũng như đội Liverpool Schoolboys, hay đội bóng địa phương Copplehouse Colts, nơi tôi thu hút sự chú ý của Liverpool và rồi là Everton, đội bóng mà tôi ký hợp đồng chuyên nghiệp
Khi còn là đứa trẻ, dù chơi cho bất cứ đội bóng nào, tôi cũng muốn ghi bàn thắng. Nhưng hồi đó tôi thường đá tiền vệ. Có thể là vì tôi thi đấu khéo léo và chuyền bóng tốt. Mặc dù vậy, điều đó cũng không thể cản trở tôi xâm nhập vòng cấm. Tôi ghi hàng tá bàn thắng ở vị trí tiền vệ.
Sau này, khi được đẩy lên đá cao, tôi còn ghi nhiều bàn thắng hơn nữa. Lập công và giành chiến thắng là tất cả đối với tôi bởi vì môn thể thao này là như thế. Nếu một cầu thủ mới chơi bóng không thích ghi bàn thì quả thực có điều gì đó không ổn đối với anh ta (hoặc cô ta).
Khi còn nhỏ, tôi không định hướng bản thân theo bất kỳ cầu thủ nào. Tôi thần tượng Duncan Ferguson và lòng quyết tâm của anh ấy, nhưng thực chất lại là người hâm mộ của Alan Shearer và Paul Gascoigne. Gazza có kỹ thuật và óc tưởng tượng, nhưng Shearer là một cầu thủ toàn diện: sức mạnh, kỹ thuật, khả năng đánh đầu, tố chất thủ lĩnh. Tôi rất hào hứng khi xem anh ấy thi đấu cho đội tuyển quốc gia. Shearer là mẫu cầu thủ lý tưởng nhất với tôi vào thời điểm đó.
Nếu có một siêu phẩm nào xuất hiện, tôi thường dành cả dịp cuối tuần đó để cố gắng tái hiện pha lập công ấy với kỹ thuật tương tự. Tôi còn nhớ là Tony Yeboah của Leeds United vô-lê cháy lưới Liverpool vào năm 1995. Quả bóng vượt qua tầm với của thủ môn và đi vào lưới như đạn bắn
Suốt cả tuần, tôi dành ra hàng giờ để sút bóng theo đúng một kiểu tại The Gems. Điều tương tự xảy ra khi Michael Owen ghi bàn thắng phi thường ấy vào lưới Argentina tại World Cup 1998. Tôi cố gắng tái hiện bàn thắng trong các trận đấu cho đến khi huấn luyện viên trưởng và đồng đội phát bực. Họ bảo tôi chuyền bóng, đưa nó cho bất kỳ ai vì tôi giữ bóng quá lâu.
Chơi bóng tại The Goals giúp tôi bắt đầu sự nghiệp. Nhưng nếu ngày ấy, có ai bảo rằng tôi sẽ thi đấu tại Premier League trong màu áo Everton, ra sân cùng Manchester United tại Champions League và trở thành cầu thủ trẻ nhất lập công tại Premier League (kỷ lục này bị phá vỡ về sau) thì tôi sẽ không bao giờ tin.
Tôi không bao giờ tưởng tượng nổi những chuyện như thế sẽ xảy ra với mình. Nhờ The Goals mà tôi có được ngày hôm nay. The Goals là nơi đầu tiên mà tôi trui rèn các kỹ năng chơi bóng.
Tôi kể với người hâm mộ ấy về trận ra mắt của tôi ở Everton. Mọi thứ thực sự điên rồ. Tôi trở thành cầu thủ của đội trong vài năm. Khi ký hợp đồng chuyên nghiệp, mức lương đầu tiên là khoảng 75 Bảng một tuần, con số thấp hơn nhiều so với bạn bè cùng trang lứa ở Crocky.
Họ kiếm thật nhiều tiền nhờ đi làm ở công trường, nhưng tôi được sát cánh hàng ngày bên cạnh những người như Big Dunne, Kevin Campbell và Steve Watson. Không đời nào tôi chấp nhận đổi chỗ cho bạn mình.
Tôi nhớ như in mình từng gặp Gazza vào thời điểm bản thân chỉ là cầu thủ trẻ. Tôi thích theo dõi anh ta trên sân tập. Anh ta luôn to tiếng và có vẻ giấu giếm gì đó.
Có một lần khi 16 tuổi, tôi ngồi trong phòng thay đồ trước trận đấu của đội trẻ. Gazza bước vào và nói lớn:
“Được rồi, các nhóc. Có ai định đi chơi tối nay không?” Anh ta rủ rê.
Nghe xong câu hỏi đó, mọi người nhìn nhau và đều đưa ra cùng một câu hỏi: “Anh ấy định làm gì nhỉ?” Cuối cùng, tôi buộc phải lên tiếng “Đi chứ, em đi!”
Đột nhiên, Gazza móc tiền từ ví ra và nhét vào tay tôi 20 Bảng. “Tiền của nhóc đấy, chúc nhóc một buổi tối vui vẻ.” Tôi nhìn tờ tiền. Chẳng ai trong số chúng tôi tin được chuyện này. Tôi vừa được một trong những tiền vệ hay nhất nước Anh cho tiền.
Khi được chuyển lên để tập luyện cùng đội Một, tôi cảm thấy thật kỳ lạ, nhưng kỳ lạ ở chỗ tôi không hề phát hoảng hay sướng lặng người đi, bất chấp tôi là một Evertonian, một cổ động viên trung thành. Tôi cảm thấy mình đã đủ giỏi để hòa nhập với các cầu thủ tại đây (lại là sự tự tin của dân Scouse đấy mà). Những bậc đàn anh trong đội đều cố gắng giúp cho tôi cảm thấy mình là một phần của đội bóng.
Mỗi khi cùng đội một đi du đấu vào giai đoạn tiền mùa giải 2002-03, tôi thường chơi điện tử cùng Duncan Ferguson trong phòng khách sạn của anh ta. Điều đó thật tuyệt.
Sau đó, 24 tiếng trước khi mùa giải bắt đầu, David Moyes bảo tôi sẽ được đá chính trong trận gặp Spurs tại Goodison. Tôi không thể tin được, màn ra mắt của tôi rốt cuộc cũng đến. Ông ấy gọi tôi vào văn phòng và bảo tôi ngồi xuống ghế.
“Wayne, cậu sẽ có tên trong đội hình xuất phát vào ngày mai. Nhưng tôi không muốn cậu kể chuyện này với bất cứ ai khác, ngoại trừ gia đình cậu. Tôi không muốn Spurs biết điều này trước khi trận đấu bắt đầu.”
Vì vậy nên khi về nhà, tôi đã rất dè dặt. Tôi kể lại với bố mẹ, gọi luôn cho Coleen và chỉ có bấy nhiêu người đó thôi. Tôi không được phép nói chuyện này với bất kỳ ai. Tối hôm đó có buổi tiệc sinh nhật của anh họ nhưng tôi không thể tham dự. Thay vào đó, tôi phải quanh quẩn trong nhà và phiền mẹ kiếm cớ giúp mình.
Vì quá phấn khích nên đêm đó tôi không ngủ được. Tôi phấn khích đến mức cứ đi loanh quanh trong nhà. Tôi trằn trọc suốt đêm, thức dậy mỗi giờ để xem đồng hồ và cầu trời hãy nhanh sáng, nhưng đêm hôm đó tưởng như dài vô tận.
Tôi thức dậy trong cảm giác háo hức vào lúc 7 giờ 30 sáng. Tuy nhiên, tôi vẫn còn hàng giờ đồng hồ rảnh rỗi trước khi ra khỏi nhà chuẩn bị cho trận đấu. Tôi ngồi xung quanh nhà, buộc bản thân phải thư giãn. Lúc 8 giờ 11 phút, tôi xem chương trình SoccerAM và rồi lại nhìn đồng hồ lúc 9 giờ 32 phút. Đến buổi trưa, tôi được mẹ chuẩn bị cho phần ăn trước trận gồm thịt gà và đậu nướng. Tôi lại nhìn đồng hồ và lúc này là 12 giờ 11 phút.
Tôi thề là khi đó đôi tay của tôi như chuyển động ngược lại, thời gian có vẻ trôi rất lâu. Đến 1 giờ, tôi bắt đầu lấy túi đựng dụng cụ của mình, điều mà tôi từng làm suốt những năm vừa qua khi chơi ở giải nghiệp dư hay đá cho đội trẻ Everton. Nhưng lần này là chuẩn bị cho một sân chơi lớn hơn nhiều.
Bố chở tôi đến sân vận động bởi tôi chưa đủ tuổi để tự lái xe. Tôi cũng chưa đủ tuổi để uống rượu luôn. Bố tôi cũng là cổ động viên Everton và ông rất hào hứng trên đường đến Goodison.
Thông thường thì các cầu thủ đều gửi xe trong bãi đỗ của cầu thủ, nhưng bố để tôi xuống ở cổng chính, lối đi dành cho các giám đốc.
Tôi và bố đều chuẩn bị cho trận đấu theo cách riêng. Tôi bước vào sân vận động và thay đồ. Còn bố thì về nhà, bắt taxi đến quán rượu và cùng bạn bè xem trận đấu này. Ông ấy dường như vỡ òa trong niềm tự hào.
Khi bước vào phòng thay đồ, gặp các đàn anh, tôi cũng cực kỳ phấn khích. Tôi cảm thấy mình đã sẵn sàng. Tôi tự tin vào năng lực của mình trong khoảng thời gian dài và tôi biết mình đủ sức để đá chính. Khi nhìn thấy áo đấu của mình treo trên tường, tôi thực sự xúc động.
Rooney. 18.
Đó là số áo cũ của Gazza. Khi tôi lên dây cót cho bản thân, David Moyes bước vào và nói chuyện riêng với tôi: “Ra ngoài kia đi và hãy tận hưởng trận đấu nhé, Wayne. Cứ bình tĩnh và thể hiện mình.”
Tôi tập trung vào bản thân, nhìn xung quanh để nắm bắt tình hình. Tôi có thể thấy tất cả đều mong chờ tiếng còi khai cuộc vì đây là trận đấu đầu tiên trong mùa giải. Toàn đội đã tập luyện vô cùng chăm chỉ và chúng tôi nóng lòng hướng đến một sự khởi đầu tốt.
Mọi thứ quá mới mẻ, chỉ riêng việc được mặc áo bib và giãn cơ trước mặt cổ động viên cũng khiến tôi phấn khích. Tôi đang làm đồng đội của những cầu thủ tôi từng cổ vũ từ khán đài.
Bây giờ thì tôi đã hiểu cảm giác làm một cầu thủ Everton là thế nào trước thời điểm diễn ra trận đấu. Khi tôi chạy vào sân để chuẩn bị cho màn ra mắt Premier League, người hâm mộ cổ vũ tôi hết mức. Tôi là một người con ở địa phương, họ muốn tôi thi đấu thật tốt và tôi không muốn làm ai thất vọng.
Một điều quái quỷ diễn ra khi tôi đang khởi động trước trận đấu: Tôi tưởng tượng mình trở lại The Goals. Tôi chạy vào sân và thấy nó rõ như ban ngày.
Tôi sút những quả bóng về hướng thủ môn Richard Wright, khởi động trước mặt người hâm mộ và để trấn an tinh thần, tôi mường tượng mình đã trở về nhà, sút bóng vào những khung thành rỉ sét, xé lưới khung thành phía sau câu lạc bộ dành cho giới trẻ. Đó là cách tôi chuẩn bị cho trận đấu.
Mọi thứ thực sự phấn khích, người hâm mộ cảm thấy sung sướng đến phát ngất khi chứng kiến tôi được thi đấu. Tôi nghĩ rằng một vài người trong số họ từng theo dõi tôi chơi bóng ở giải trẻ FA Cup - Chúng tôi vào tới chung kết mùa trước nhưng rồi để thua Villa.
Lúc đó, truyền thông địa phương và báo chí quốc gia bắt đầu đề cập đến tôi. Người hâm mộ nhận ra tôi trên băng ghế dự bị vào cuối mùa giải 2001-02 và tự hỏi tôi sẽ trở thành mẫu cầu thủ như thế nào, nhưng tôi nghĩ rằng lý do lớn nhất khiến họ vui mừng là vì một Evertonian thực thụ đã lọt vào đội Một.
Khi trận đấu bắt đầu, tôi có thể nghe thấy tiếng cổ động viên hát vang tên mình. Tôi có pha chạm bóng đầu tiên và tất cả mọi người đều tung hô. Spurs là một đối thủ đáng gờm vì họ sở hữu những ngôi sao hàng đầu vào lúc ấy như Teddy Sheringham, Les Ferdinand và Jamie Redknapp. Nhưng dù thế nào thì tôi cũng không run sợ. Tôi thích chạm trán với họ.
Tôi nhớ rằng Tottenham được hưởng phạt góc và tôi phải lùi về rìa vòng cấm địa. Sheringham bắt đầu tranh cãi với một trong số các cầu thủ của chúng tôi. Tôi đôi co điều gì đó với anh ấy mặc cho mình chỉ là một thằng nhóc. Anh ta thì đã hơn 30 tuổi rồi, là tuyển thủ quốc gia và ghi bàn tại EURO. Anh ta cũng từng vô địch Champions League với Man United, nhưng điều đó không làm tôi e ngại.
Sau 67 phút, tôi biết bản thân đã chơi tốt nhưng huấn luyện viên trưởng lại thay tôi ra. Tôi cho là ông ấy tưởng rằng tôi đã kiệt sức. Tôi rất buồn, tôi muốn được tiếp tục thi đấu nhưng người hâm mộ đã đứng cả dậy để vỗ tay hoan nghênh.
Họ muốn tôi biết rằng mình đã góp công trong trận hòa 2-2 ấy. Trong khi đó, tôi lần đầu tiên cảm nhận được bầu không khí tại Premier League. Tôi muốn được tận hưởng cảm giác như thế này nhiều hơn nữa.
Sau trận đấu, bố tôi đến một quán rượu địa phương để uống mấy vại bia như mọi khi. Tôi đến đó gặp ông để kể về trận đấu vừa xong. Người hâm mộ ở đó không tin là tôi vừa bước vào. Họ đến chào tôi và chúc tôi may mắn trong giai đoạn còn lại của mùa giải.
Mọi người rất tự hào vì có một cậu nhóc người Crocky thi đấu chuyên nghiệp ở độ tuổi còn trẻ như thế này. Họ vui mừng thay cho tôi. Còn tôi thì ngồi đó với lon nước ngọt của mình và cố nốc sạch một hơi. Trời ạ, mình đã là cầu thủ Premier League rồi đấy.
Hai bàn thắng đầu tiên của tôi đến ở trận gặp Wrexham tại League Cup. Thật tuyệt khi ghi bàn thắng cho đội Một Everton. Nhưng tôi vẫn không vui quá như mình nghĩ vì đây chỉ là một giải nhỏ thôi. Tôi muốn lập công ở Premier League kia.
Tôi giữ trong đầu suy nghĩ như thế. Mình có thể sở hữu pha lập công đầu tiên ở Premier League trước khi bước qua tuổi 17. Ơn trời là tôi không phải đợi quá lâu. Arsenal, 19/10/2002, trận đấu cuối cùng trước sinh nhật của tôi.
Trận đấu diễn ra tại Goodison. Hôm đó tôi ngồi dự bị, nhưng điều khiến tôi nhớ kỹ hơn cả là các cầu thủ Arsenal đang xếp hàng trong đường hầm. Tôi thấy Sol Campbell, David Seaman, Patrick Vieira. Thierry Henry và Kanu cũng ở đó.
Tất cả bọn họ đều là những ngôi sao hàng đầu. Tôi không bao giờ tưởng tượng được David Seaman lại to lớn như thế. Tôi xem anh ấy trên ti vi nhiều rồi, nhưng khi đứng bên cạnh người trần mắt thịt thì tôi đã nghĩ: Quả là một gã khổng lồ.
Về mặt chuyên môn, họ được đánh giá cao hơn chúng tôi. Freddie Ljungberg ghi bàn chỉ sau 7 phút bóng lăn. Tiền đạo của chúng tôi, Tomasz Radzinski, cân bằng tỷ số sau đó 15 phút.
Ngồi trên ghế dự bị, tôi tập trung theo dõi bộ tứ vệ của Arsenal. Tôi nhận ra mỗi khi chúng tôi có bóng phía sau hàng tiền vệ của họ, thì trung vệ của họ sẽ lùi xuống một chút. Tôi nghĩ nếu chiếm được khoảng trống đó, mình sẽ vung chân dứt điểm.
Bước sang hiệp hai, huấn luyện viên trưởng bảo tôi: “Khởi động đi, Wayne. Cậu sẽ vào sân.” Tôi nhìn đồng hồ, trận đấu chỉ còn 10 phút nhưng tôi vẫn sung sướng khởi động, vì Arsenal là câu lạc bộ xuất sắc. Họ đứng đầu bảng xếp hạng và trải qua chuỗi 30 trận bất bại tại Premier League. Tôi muốn chứng tỏ bản thân trước một tập thể ưu tú như thế. Và rồi, khi đồng hồ điểm qua phút 90, tôi đã ghi bàn thắng quyết định.
Bóng được phất lên và Thomas Gravesen chạm vào nó. Quả bóng hướng đến vị trí của tôi và tôi khống chế nó. Bất thình lình, tôi ở ngay trong vùng không gian giữa hàng thủ và hàng tiền vệ đối phương, đã đến lúc tôi thực hiện lời hứa với bản thân. Sol Campbell đã lùi xuống, tôi sẽ sút.
Tôi chạm bóng một nhịp và vuốt bóng mạnh nhất có thể, đưa nó hướng về góc gần. Quả bóng rời khỏi mũi giày và bay như đạn xé, vượt qua tầm với của Seaman, người đang đứng ngay trên vạch vôi. Quả bóng đập vào mép dưới xà ngang khiến anh ta bó tay. Thế là tôi đã ghi bàn!
Tôi bấn loạn, chạy đến chỗ cổ động viên, cảm giác đó thật phi thường, không thể tin nổi. Tôi có thể nhìn thấy gương mặt của các cổ động viên và tôi biết bản thân vừa tạo nên điều gì đó thật đặc biệt trong mắt họ. Còn về phần bố tôi, có Chúa mới biết ông nghĩ gì.
Khi trận đấu kết thúc, tôi ngồi nán lại ở trong phòng thay đồ. 20 phút sau thời điểm tiếng còi mãn cuộc vang lên, tôi vẫn nghe thấy đám đông hát vang tên mình ở bên ngoài Goodison Park.
Sau trận đấu, tôi lại cùng bố bước vào quán rượu. Mọi người xúm quanh tôi. Và rồi tôi đến nhà Coleen để chơi bóng với mấy đứa bạn ở garage đằng sau nhà cô ấy, điều mà tôi thường làm vào thứ Bảy.
Trời chuyển tối. Ánh đèn đường chiếu xuống nơi chúng tôi đang chơi. Tôi vừa ghi bàn thắng quyết định giúp Everton đánh bại Arsenal nhưng tôi vẫn đá bóng với các bạn ở nhà như thể cuộc chơi ấy quan trọng không khác nào trận đấu tại Premier League.
Đó là cách tôi ăn mừng chiến thắng. Nghe có vẻ điên rồ, tôi biết chứ, nhưng chơi bóng là tất cả những gì tôi muốn vào thời điểm đó.