Mười ngàn năm trước trong tất cả các nền văn hóa, các shaman - pháp sư đã khai mở con đường tâm linh đến quần chúng. Ở Ấn Độ, các truyền thống pháp sư đã tiến hóa thành những hình thức thực hành yoga cùng các triết lý mà chúng ta đang nghiên cứu. Nhưng cuộc tiến hóa này không giới hạn ở thung lũng sông Ấn, dòng sông cổ Saraswati (nay đã không còn) và sông Hằng. Ở châu Âu (đặc biệt là Hy Lạp), Trung Đông, và Trung Hoa, những cuộc khám phá tương tự cũng đã diễn ra. Qua hàng thế kỉ, mặc cho khoảng cách địa lý và trở ngại trong việc đi lại, tri thức vẫn được chắt lọc và chia sẻ giữa các nền văn hóa. Không có gì bất ngờ khi chúng ta tìm thấy những hình thái tương đồng được thảo luận trong các phương pháp thực hành tâm linh và triết lý ở mỗi vùng. Tuy nhiên, mô hình kiểu mẫu và các ẩn dụ được điều chỉnh để thích nghi với văn hóa địa phương mỗi nơi.
Khái niệm linh hồn (linh khí) ở thế giới châu Âu có khái niệm tương ứng là prana (hơi thở) ở Ấn Độ. Ở Trung Hoa, năng lượng tương tự cũng được biết đến với cái tên Khí. Khí chỉ là một trong nhiều khái niệm trung tâm của nền y học Trung Hoa. Những khái niệm này tiến hóa từ những thực hành tâm linh bản xứ, được nhóm lại dưới cái tên Đạo giáo.
Có rất nhiều hình thái của Đạo giáo và nhiều cách để thực tập giáo lý. Đạo đôi khi được nhân cách hóa thành một vị chúa trời. Nhưng thông thường, Đạo được loại bỏ tính chất con người và được nhìn nhận như một quyền năng đức độ nhưng chí công vô tư: đạo của vũ trụ. Sống thuận theo đạo của trời đất, bạn sẽ được hưởng lợi. Sống nghịch với đạo, bạn sẽ phải trả giá.
Đạo được người phương Tây biết đến chủ yếu qua quyển sách Đạo Đức Kinh - Đạo Của Người Quân Tử28 của Lão Tử. Trong Đạo Đức Kinh, chúng ta được dạy Đạo là nguồn gốc của vạn vật. Không thể gọi tên khái niệm này bởi vì bất cứ khi nào bạn cố gắng gói gọn bản chất của vũ trụ trong một khái niệm, bạn sẽ mất đi cái nhìn toàn cảnh về thứ mà bạn đang cố gọi tên. Đạo là vô tận, vô thủy vô chung. Chỉ có Đạo là bất biến và vĩnh cửu.
Vì vạn vật đều là một phần của Đạo, nên đất, trời, sông, núi, các vì sao và con người đều là một phần của Đạo. Con người không nằm ngoài Đạo mà là một phần của nó29. Thông điệp của Đạo Đức Kinh là hãy hòa mình vào! Hãy cứ giúp đỡ, nhưng đừng theo cách bừa bãi, miễn cưỡng. Khi xong việc, hãy rời đi. Yang là hoạt động. Yin là nghỉ ngơi. Đạo là sự cân bằng của cả hai điều trên.
Trong Đạo giáo của Lão Tử, hiền nhân là người ươm mầm sự sống. Hiền nhân học các kĩ thuật thể chất để điều chỉnh hơi thở, mài giũa thân thể, bồi đắp sức khỏe và chế ngự năng lượng bên trong, kể cả nguồn năng lượng quan trọng là ái dục. Cùng với những kĩ thuật thể chất, hiền nhân còn tuân theo những chuẩn mực đạo đức và điều hòa tâm trí thông qua thiền định. Chế độ ăn uống cũng là một phần quan trọng để xây dựng và duy trì sức khỏe. Thông qua tất cả những sự rèn luyện này, hiền nhân hướng tới sự thay đổi về thể xác và tâm trí để lấy lại tuổi trẻ, sinh khí và sống trong sự yên bình.
Năm hệ thống chính
Đạo giáo gồm năm hệ thống chính. Những hệ thống này đôi khi trái ngược và không rõ ràng, đặc biệt là với người đến từ những nền văn hóa khác. Rất nhiều pháp môn thực hành được sử dụng đồng thời ở nhiều hệ thống. Vì vậy, lằn ranh giữa những hệ thống này là khá mờ nhạt và không cố định. Năm hệ thống đó là:
1. Đạo giáo Bí thuật: Dạng cổ nhất của Đạo giáo vẫn được thực hành ngày nay. Trong cách thực tập này, sức mạnh của các yếu tố tự nhiên và tâm linh được đánh thức và chuyển vào người tập để họ có được sức khỏe, tiền tài và con cái.
2. Đạo giáo Bói toán: Dựa trên hiểu biết về cách vận hành của vũ trụ và nhìn thấy những mô thức bao trùm cả sự sống. Việc biết được cách thức vũ trụ vận hành cho phép chúng ta sống hòa hợp với những quyền lực vũ trụ này. Ở thiên đàng cũng giống như trên mặt đất. Đạo giáo Bói toán tối ưu hiểu biết về các vì sao và những mô thức trên trái đất để giúp chúng ta sống một cách hài hòa. Kinh Dịch chính là một bộ sách về bói toán.
3. Đạo giáo Nghi lễ: Đạo giáo vốn là một hình thức thực hành tâm linh. Không như yoga, vẫn còn là một dạng thực hành tâm linh cá nhân, nhánh này của Đạo giáo đã phát triển thành một dạng tôn giáo.
4. Đạo giáo Nhân quả: Mỗi việc làm đúng đắn đều tích lũy công đức. Sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, đạo đức chiếm vai trò lớn hơn trong việc thực hành tâm linh. Nhưng không phải tới lúc đó chuyện này mới được đề cập, bởi trước đó Khổng Tử cũng đã dạy về giá trị của hành vi đúng đắn và đạo đức. Gieo nhân tốt sẽ tạo ra quả ngọt, cả trong kiếp này lẫn kiếp sau.
5. Đạo giáo Giả kim thuật nội tại: Trường sinh bất tử chính là đích đến của pháp môn này. Người cầu đạo tìm cách để thay đổi tâm trí và cơ thể để được trường sinh bất tử. Trong pháp môn này, khí trở thành mấu chốt của sự trường thọ và khỏe mạnh. Khí được tập hợp, nuôi dưỡng và điều chuyển một cách nghiêm ngặt. Việc luyện tập sai sẽ rất nguy hiểm, do đó pháp môn này yêu cầu người tập cần có một vị sư phụ tuyệt kĩ hướng dẫn. Y thuật Trung Hoa được hình thành chủ yếu dựa trên hệ thống này.
Tuy việc nghiên cứu tất cả các hệ thống này nằm ngoài phạm vi của quyển sách, chúng ta vẫn có thể đi sâu hơn vào phân nhánh khá thú vị là Đạo giáo Giả kim thuật.30
Đạo giáo Giả kim thuật
Những yogi Ấn Độ đi tìm sự bất tử nơi tâm linh: giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử trùng trùng không dứt. Những yogi Đạo giáo, những người thực hành theo Đạo giáo Giả kim thuật, lại đi tìm sự bất tử nơi thể xác: họ chỉ muốn sống mãi trong thân xác này. Thuật giả kim mà chúng ta nói tới ở đây không phải loại biến đá thành vàng, mà biến cơ thể con người từ bình thường thành hoàn hảo. Việc chuyển hóa thành vàng chỉ là phép ẩn dụ cho mục tiêu thực sự. Đã từng có thời điểm, những nhà giả kim thử dùng giả kim thuật ngoại sinh, cuối cùng tạo ra những thành phần độc tố như thủy ngân, nhưng sau hàng trăm năm, phương pháp này chỉ làm người cầu đạo nhiễm độc đến chết. Loại giả kim thuật này sau đó đã bị thay thế bởi một phương pháp nội tại khác - thay đổi từ bên trong.
Để được bất tử về thể xác, con người phải trở nên cực kì tráng kiện, đòi hỏi quá trình luyện tập chăm chỉ và cật lực. Ta hoàn toàn có thể làm được điều này! Hay ít nhất, đã có vài cá nhân xuất chúng đạt được sự bất tử ấy, song những người bất tử theo Đạo giáo này không hề dễ tìm và chúng ta có thể giả định rằng họ là những sinh vật huyền bí, không phải những con người mà chúng ta có thể gửi email và hỏi họ đã làm như thế nào được. Chắc chắn có rất nhiều người tin rằng, sự bất tử mà Đạo giáo Giả kim thuật tìm kiếm chính là sự bất tử về tâm linh, một khi thân thể đã nằm xuống. Trong trường hợp nào đi nữa, dù là bất tử tâm linh hay bất tử thể xác, thì việc thực hành Đạo giáo Giả kim thuật nội tại cũng đầy thách thức tương tự việc thực hành yoga Ấn Độ.
Ưu tiên số một của một nhà giả kim nội sinh là bảo tồn năng lượng của mình. Khi sinh ra, chúng ta được ban tặng một lượng nhất định ba loại năng lượng chính: năng lượng sinh sản (được gọi là Tinh) - nuôi dưỡng ham muốn tình dục của chúng ta; năng lượng sống (thường được biết đến là năng lượng Khí), và năng lượng tâm linh (được gọi là Thần). Trong khi những năng lượng này lấp đầy chúng ta trong quá trình lớn lên ở tử cung của người mẹ, thì tâm trí và thân thể đã bắt đầu phân định. Khi được sinh ra, chúng ta dần khiến cho ba loại năng lượng này hao mòn mà không hề hay biết. Chúng ta mất đi tinh lực của mình bất cứ khi nào chúng ta nghĩ về tình dục. Khí của chúng ta bị rò rỉ dần qua cảm xúc, còn Thần của chúng ta mất đi khi ý nghĩ của chúng ta tuôn chảy. Những sự tiêu hao như vậy khiến chúng ta yếu dần đi, sinh bệnh và cuối cùng dẫn đến cái chết.31 Thông qua thực hành giả kim thuật, thông qua chuyển hóa nội tại, năng lượng bên trong sẽ được tái tạo, từ đó, chúng ta có thể lấy lại sức khỏe và tuổi thọ.
Đạo giáo Giả kim thuật chú trọng kích thích và cân bằng năng lượng ở cả khía cạnh Yin và Yang. Năng lượng Yin là rồng, năng lượng Yang là hổ. Để hợp nhất cả Yin và Yang, chúng ta phải loại bỏ mọi tắc nghẽn tồn tại bên trong cơ thể để những năng lượng này có thể hợp nhất ở ba vạc, gọi là đan điền.32 Quá trình kích thích những năng lượng này có sự tham gia của hơi thở. Thở nhanh sẽ hướng ngọn lửa Yang vào vạc chính giữa và phía trên, trong khi thở chậm và nhẹ hơn sẽ kích thích năng lượng Yin nuôi dưỡng năng lượng bên trong của chúng ta.
Sự chuyển đổi cũng cần các bài tập về thể chất và tinh thần để thay đổi cấu trúc xương và tinh thần của chúng ta. Trước khi thay đổi tinh thần, chúng ta phải thực hành thành thạo thay đổi thể chất. Các công cụ ở đây bao gồm nhiều bài tập được thiết kế để rèn luyện cơ thể: bài tập cho gân, mát-xa, võ thuật, và một số bài tập được biết đến rộng rãi hơn như thái cực quyền và khí công. Một khi luyện thành công những bài tập cơ bản này, nhà giả kim tiến đến việc biến đổi năng lượng bên trong của mình. Để thanh lọc và chuyển hóa tinh lực được chứa ở thận thành năng lượng sống, nhà giả kim cần tác động tới phần bụng, hạn chế ham muốn tình dục về mặt thể xác cũng như về mặt tinh thần. Phải lưu tâm để không làm năng lượng sống bị tiêu hao qua những cảm xúc tiêu cực như giận dữ, sợ hãi, lo lắng, hay buồn đau. Giờ đây, nhà giả kim đã sẵn sàng cho giai đoạn cuối cùng: biến đổi năng lượng sống thành năng lượng tâm linh. Để làm việc này, thiền định là bắt buộc. Tâm trí phải thanh tịnh không tạp niệm, và tất cả biểu hiện của nhị nguyên phải bị cắt đứt. Không còn chủ thể hay đối tượng: không có người suy nghĩ và không có suy nghĩ.
Khi đã thuần thục điêu luyện, nhà giả kim đã sẵn sàng để bắt đầu điều chuyển năng lượng qua một pháp môn được biết đến là tiểu châu thiên.33 Anh ta sẽ không thể thành công nếu anh ta không đả thông mọi tắc nghẽn của dòng chảy năng lượng trước tiên, hoặc nếu không, tâm trí hay giác quan của anh ta sẽ bị kích thích. Vào những năm 1930, Richard Wilheim34 đã mô tả lợi ích của những vòng tròn ánh sáng trong bản dịch The Secret of the Golden Flower, a Chinese Book of Life (tạm dịch: Bí mật của bông hoa vàng, cuốn sách Trung Hoa về sự sống). Ghi chép cổ xưa này đã được truyền miệng qua nhiều thế kỉ trước khi được chép lại vào thế kỉ thứ 8. Wilheim, một người bạn của Carl Jung đã viết:
Nếu nguồn sống dịch chuyển xuống dưới mà không có trở lực nào ngăn cản nó đi ra thế giới bên ngoài, linh nữ sẽ chiến thắng linh nam; không có “thân thể tâm linh” hay “bông hoa vàng” nào phát triển, và khi cái chết đến, bản ngã biến mất. Nếu nguồn sống được dẫn dắt qua quá trình “dịch-chuyển-ngược-lại”, tức là, được giữ gìn, và được “trỗi dậy” thay vì tiêu tan dần, linh nam sẽ chiến thắng, và bản ngã vẫn tồn tại sau cái chết. Sau đó nó sẽ có được thần, phần tâm linh cũng hiển lộ. Một người biết cách giữ lại trong suốt cuộc đời có thể đạt được giai đoạn “bông hoa vàng,” thứ sau đó sẽ giải phóng bản ngã khỏi xung đột của những mặt đối lập, và nó lại trở thành một phần của Đạo, cái vĩ đại, hợp nhất, không chia tách.
Cuối cùng cũng thành công! Sự bất tử đạt được thông qua thực tập giả kim thuật nội tại gồm thay đổi thân xác, điều khiển năng lượng, và thiền định. Trong quá trình thực tập còn đòi hỏi nhiều loại thảo dược và chế độ ăn uống bắt buộc phải tuân theo. Lối sống cũng phải thay đổi. Đây không phải con đường dễ dàng.
Nuôi dưỡng cơ thể
Nắn gân ư? Cái quái gì vậy? Chúng ta phải làm sao để thay đổi gân mình và tại sao chuyện đó lại quan trọng cơ chứ? Những câu hỏi rất hay. Đạo giáo sử dụng những khái niệm nghe rất quen tai đối với người phương Tây, nhưng chúng không hẳn mang ý nghĩa như chúng ta vẫn nghĩ. Ví dụ, từ cơ quan, trong tiềm thức của người phương Tây, có nghĩa là những mô riêng biệt cùng thực hiện những chức năng nhất định, ở một vị trí nhất định trong cơ thể. Tuy nhiên, với Đạo giáo, cơ quan35 không chỉ mang nghĩa cơ quan vật lý riêng biệt như chúng ta đã biết và thường dùng ở phương Tây, mà còn có nghĩa là một chức năng ảnh hưởng đến cả cơ thể. Tương tự vậy, với những người theo Đạo giáo, máu không chỉ chảy trong huyết mạch của chúng ta, nó còn chảy qua khắp các kinh mạch và nuôi dưỡng gân. So với quan điểm của người phương Tây vốn cho rằng gân đơn giản chỉ là những mô liên kết để nối cơ và xương thì gân có ý nghĩa rộng hơn. Trong Đạo giáo, gân36 gồm có dây chằng và cơ, màng cơ và dây thần kinh, cũng như những mô mềm khác của cơ thể.
Luyện tập thay đổi gân nhắm đến nhiều mô, gồm việc tạo áp lực, tăng cường và mát-xa cho các mô này. Điều làm chúng ta hào hứng trong quá trình tìm hiểu đó là việc thay đổi gân không chỉ nhắm vào cơ, mà còn nhắm vào các khớp và dây chằng; mục đích là để phục hồi lại trạng thái tự nhiên, linh hoạt của chúng ta, khả năng vận động tối ưu hoặc nguyên gốc mà chúng ta vốn có. Cách luyện tập để nuôi dưỡng cơ thể của Đạo giáo bao gồm cả các bài tập Yin và Yang, giống như Hatha Yoga nguyên thủy đã làm.
Các bài tập cho xương bao gồm kĩ thuật gọi là “Marrow washing” (rửa tủy). May mắn là chúng ta không phải thực sự rút tủy khỏi xương và giặt rửa chúng trước khi bỏ lại vào trong. Đây là Marrow, không phải marrow(1). “Marrow washing” kết hợp chặt chẽ việc tạo áp lực chậm và mượt mà lên xương và khớp. Đây là một cách hướng Yin để tạo áp lực lên xương và khớp; có một cách Yang hơn, gồm đánh và nghiền xương(2), nhưng kĩ thuật này khá bí truyền.
(1) Tác giả chơi chữ, dùng từ đồng âm khác nghĩa ở đây, marrow nghĩa là tủy (ND).
(2) Xương và khớp được cọ xát và được đập vào một bề mặt cứng sao cho chúng được đẩy vào vị trí và hình dạng thích hợp (ND).
Bài tập thở cũng rất quan trọng để thực sự nuôi dưỡng cơ thể, gồm hít thở sâu vào bụng một cách tự nhiên và không gượng ép, thở bằng miệng, bằng mũi, bằng cả miệng và mũi, thở qua đáy chậu, và một số phương pháp bí truyền khác. Cách thở của rùa rất đáng để chúng ta chú ý: bởi vì rùa sống rất lâu, nhất định là có một bí quyết gì đó. Chúng thở rất nhẹ khi trốn trong mai. Thật ra thì chúng rất ít khi thở.37
Chắc bạn đã quen với một vài bài tập cổ truyền của Đạo giáo như thái cực quyền và khí công. Những bài tập này mới nhìn có vẻ giống thể dục mềm dẻo ở chế độ quay chậm, nhưng trên thực tế, chúng được thiết kế để lưu chuyển năng lượng bên trong. Chúng kết hợp căng giãn, thở và thiền. Những bài tập này có thể được thực hiện trong lúc ngồi, đứng và kể cả khi đang đi bộ. Chúng cũng có thể được thực hành trong lúc ngủ, nhưng không phải tư thế shavasana(1) mà chúng ta đều ưa thích vào cuối mỗi buổi tập Hatha Yoga. Nếu gân của chúng ta khỏe và mềm, nếu kênh năng lượng của chúng ta được mở ra, thì những bài tập này sẽ hỗ trợ luồng chuyển dịch của năng lượng bên trong.
(1) Tư thế xác chết (ND).
Những bài tập đầu tiên của Đạo giáo được phát triển sau khi quan sát kĩ càng các loài vật trong môi trường tự nhiên. Các loài động vật đều di chuyển tự nhiên, thanh thoát và hài hòa với Đạo.38 Nếu chúng ta bắt chước chuyển động của động vật, chúng ta cũng có thể có được sự liên kết với Đạo giống như chúng. Năm loài động vật có cách di chuyển rất được xem trọng đó là: hổ, rồng – những loài tượng trưng cho Yang và sếu, báo, rắn – tượng trưng cho Yin. Như Eva Wong nói:39
Hổ được xem trọng nhờ xương cốt chắc khỏe, báo thì nhờ vào bộ gân linh hoạt, rồng lại có khả năng căng giãn cột sống, rắn rất linh hoạt khi điều khiển cột sống, và sếu giỏi giữ năng lượng bên trong.
Tất nhiên, đó không phải những loài duy nhất được quan sát kĩ lưỡng. Một sinh vật khác cũng rất thú vị đó là loài khỉ.