Khoảng đầu thế kỉ thứ XIX, một tù nhân bị tuyên án 8 năm biệt giam vì giết người đã dành thời gian để nghiên cứu những con khỉ mà anh ta nhìn thấy từ buồng giam40. Anh ta nghiên cứu các bước chuyển động hàng năm trời và kết hợp chúng với môn võ mà anh ta học được khi còn nhỏ. Sau khi được trả tự do, anh ta dạy loại võ mới này, được gọi là Tai Shing Men(1)41. Môn phái này sau đó du nhập vào Hồng Kông và tại đây, một môn sinh tên Cho Chat Ling đã học được môn võ từ chú mình. Vào những năm 1970, Cho Chat Ling chuyển sang sinh sống ở California.
(1) Kungfu Khỉ - hay còn có tên hầu quyền (ND).
Paulie Zink
Trong khi lướt qua các kênh truyền hình vào năm 1987, Paul Grilley đã chú ý đến một người đàn ông được phỏng vấn trên đài truyền hình cáp cộng đồng là Paulie Zink. Paul đã dạy yoga từ năm 1980 và đã quá quen với việc nhìn thấy những cơ thể linh hoạt, nhưng ông chưa từng thấy bất kì ai linh hoạt và uyển chuyển trong từng bước di chuyển như Paulie42. Paul quyết tâm tìm gặp người này và ông đã tìm được địa chỉ của người đàn ông đó thông qua đài truyền hình địa phương. Lúc đó Paulie đang dạy hầu quyền trong nhà xe của mình, đây cũng là nơi ông kiếm sống bằng nghề thợ cơ khí. Chính ở nhà xe đó, Paulie đã dạy cho Paul bài học đầu tiên của Yoga Đạo giáo43. Điều thu hút Paul chính là phương diện Yin của Yoga Đạo giáo, những tư thế phải giữ lâu mà Paulie cực kì tận hưởng, mặc dù học trò của ông sẽ dùng từ “chịu đựng”. Paul tham gia vào một nhóm học viên học với Paulie và vào năm kế tiếp thì học với ông hằng tuần.
Sau khi Cho Chat Ling đến định cư ở Mỹ, ông bắt đầu tìm kiếm một truyền nhân để truyền lại những gì ông đã học được từ chú mình. Truyền lại môn phái là nghĩa vụ của mỗi võ sinh: khi vị thầy đã truyền dạy xong cho bạn, việc của bạn là huấn luyện cho thế hệ học trò tiếp theo. Cho Chat Ling đã nhận thấy Paulie chính là truyền nhân của mình. Paulie học võ từ tuổi thiếu niên, nhưng khi gặp được Sư phụ Ling trong những năm đại học, ông đã quyết định theo đuổi môn phái này. Sư phụ Ling đã đến nhà Paulie để dạy khoảng từ sáu đến tám tiếng mỗi ngày trong vòng bảy năm! Một nửa của quá trình huấn luyện là Yoga Đạo giáo và nửa còn lại là võ thuật. Sau năm thứ bảy, Sư phụ Ling ít đến hơn, và sau 10 năm, Sư phụ Ling tuyên bố Paulie là người kế vị ông. Sau đó, sư phụ Ling trở về châu Á, để Paulie tự mình tiếp tục truyền dạy tri thức. Sư phụ Ling chưa bao giờ lấy một xu nào cho việc dạy học.
Paulie đã truyền lại những gì mà ông học được, và ông truyền dạy theo cách tương tự như cách ông đã được dạy. Các lớp học của ông kéo dài, thường bắt đầu từ 8 giờ tối đến 1 hoặc 2 giờ sáng hôm sau.
Cách dạy của Cho Chat Ling, và sau đó là Paulie, không phải cách truyền thống mà họ thêm vào đó những phần cá tính riêng của mình. Quá trình luyện tập không còn cứng nhắc mà giờ đây, nó là nghệ thuật, nghệ thuật của vũ trụ, không thể đạt được chỉ sau một lớp học ngắn cuối tuần nhưng có thể thực hiện được trong một thời gian dài thân cận với người thầy. Sư phụ Ling đã chỉ dạy Paulie lý thuyết Đạo giáo Giả kim thuật cơ bản nhưng sự dẻo dai bẩm sinh đã giúp Paulie tiếp tục tiến xa hơn. Paulie chính là người đã khám phá ra những công dụng sâu sắc, đa dạng khi giữ một tư thế cố định trong thời gian rất, rất lâu. Cuối cùng, Paulie đã xây dựng chương trình huấn luyện võ thuật của mình trở thành giai đoạn “giờ chúng ta sẽ thực hành một vài tư thế yoga”, sau đó mới là giai đoạn học võ. Đôi khi Paulie xem yoga như là “việc thực hành nội tại” hoặc “khí công”.
Yoga của Paulie hoàn toàn không giống yoga mà bất kì vị sư phụ Ấn Độ nào truyền dạy. Có một vài động tác giống với các yogi Ấn Độ, như động tác xoạc (hanumanasana và upavistakonasana) và những tư thế ngồi khoanh chân gập người, được giữ rất lâu, nhưng Paulie cũng thêm vào các bước di chuyển của năm yếu tố. Đây là lời dạy chính thức duy nhất của ông về thiền định: di chuyển y như từng yếu tố. Những chuyển động cơ bản sẽ kết hợp các chu kì sinh và các chu kì kiểm soát. Paulie cũng kết hợp các bước di chuyển của những loài động vật như gấu, thằn lằn và tất nhiên là khỉ chỉ chiếm một vài trong số đó. Về bản chất, lời dạy của Paulie bao gồm cả yếu tố Yin và Yang, đúng với hiểu biết đầy đủ về Yoga Đạo giáo mà ông thể hiện.
Ông chưa bao giờ dạy một nhóm môn sinh đông đảo và hầu như không lấy học phí cho thời gian mình đã bỏ ra, nhưng Paulie cảm thấy chán nản vì chất lượng của những môn sinh theo học mình. Đa số các môn sinh đều có sẵn nền tảng võ thuật, nhưng chỉ quan tâm tới những bí quyết gây sát thương hoặc thậm chí giết chết đối thủ. Paulie không bao giờ muốn chia sẻ những bí quyết đó nên cuối cùng ông chọn cuộc sống điền viên ở một nông trại thuộc vùng ngoại ô Billings, Montana. Sau những cố gắng dạy Yoga ở một studio nhỏ tại Billings, Paulie đã ngừng dạy học hoàn toàn. May mắn thay, ông đã không nghỉ lâu. Những năm gần đây, Paulie đã quay lại để chia sẻ những kiến thức uyên bác của mình.
Các buổi hội thảo và khóa học ngắn của Paulie tương đối khác với Yin Yoga mà Paul Grilley và Sarah Powers dạy. Paulie tiếp tục truyền dạy Yoga Đạo giáo toàn phần, bao gồm khám phá năm yếu tố trong chuyển động và tư thế. Tham gia một khóa học ngắn của Paulie chỉ là bước đi đầu tiên để hiểu được những tri thức uyên thâm mà ông đã kế thừa và phát huy. Bạn có thể tìm hiểu thêm về Paulie trên website của ông.44
Paul Grilley
Nhiều năm trước khi Paul Grilley tìm ra Paulie Zink, ông đã được truyền cảm hứng nghiên cứu sâu về yoga sau khi đọc quyển Tự truyện của một Yogi của Yogananada vào năm 1979. Lúc đó Paul đang sống và học giải phẫu học với Tiến sĩ Garry Parker ở Montana. Paul quyết định chuyển đến Los Angles và tiếp tục học giải phẫu học ở UCLA. Trong thời gian ở đó, Paul cũng bắt đầu nghiên cứu về yoga, đồng thời bắt đầu dạy yoga, cuối cùng ông còn quản lý một studio. Trong thời gian này, những bài thực hành yoga chính của Paul gồm Ashtanga và Bikram còn mang tính chất Yang rất mạnh.
Yoga và giải phẫu học có mối liên hệ khăng khít với nhau. Nghiên cứu của Paul trong hai lĩnh vực này bổ trợ cho nhau rất nhiều. Ngoại trừ việc nổi danh với tư cách là người truyền bá Yin Yoga, ông cũng đã có đóng góp to lớn trong việc am hiểu cơ cấu giải phẫu riêng biệt của mỗi người có ảnh hưởng như thế nào đến phạm vi di chuyển. Về bản chất, không phải ai cũng có thể tập mọi động tác yoga; với vài người, cố tập một động tác mang tính thẩm mỹ cao có thể khiến cơ thể bị chấn thương nghiêm trọng.45
Khi Paul đã biết đến phương diện Yin của yoga thông qua Paulie, ông bắt đầu kết hợp triết lý này vào bài dạy của riêng mình. Paul mở lớp, giữ nguyên tên gọi Yoga Đạo giáo để tôn trọng tên mà Paulie dùng cho pháp môn này. Lớp học này chỉ chú trọng phương diện Yin: những tư thế giữ thật yên và thật lâu.
Năm 1990, Paul gặp Tiến sĩ Hiroshi Motoyama đến từ Nhật Bản.46 Tiến sĩ Motoyama có bằng Tiến sĩ về triết học và tâm lý học, đồng thời là một người thông hiểu yoga. Hơn thế nữa, ông đã nghiên cứu Y học Cổ truyền Trung Hoa và là một mục sư đạo Shinto rất được kính trọng. Khi còn rất nhỏ, Motoyama đã được người thầy của mẹ bảo hộ và nhận làm con nuôi.47 Khả năng đi lại tự do giữa thế giới tâm linh và vật chất đã cho phép ông nghiên cứu khả năng của riêng mình thông qua sử dụng khoa học và y học phương Tây. Với mục đích khiến cho những điều vi tế trở nên đo đếm được, ông đã tạo ra những công cụ mà ông và những người khác cùng học cách sử dụng để xác định và định lượng luồng năng lượng đi qua cơ thể vi tế.
Để nghiên cứu sâu hơn và truyền bá những gì đã khám phá được, tiến sĩ Motoyama đã thành lập các viện nghiên cứu ở cả Nhật Bản và Mỹ.48 Những gì tiến sĩ Motoyama tiết lộ đã truyền cảm hứng cho Paul nên ông quyết định cùng vị tiến sĩ này sang Nhật để tìm hiểu thêm.
Kiến thức mà Paul học được giải thích vì sao việc thực hành yoga lại có giá trị về mặt năng lượng. Từ nền tảng giải phẫu học đã có, Paul đã kết hợp những lợi ích sinh lý của yoga nói chung và Yin Yoga nói riêng vào với nhau. Từ đó, ông bắt đầu hiểu nền tảng của những lợi ích về năng lượng mà chúng ta nhận được từ việc tập yoga. Lý thuyết của tiến sĩ Motoyama về kinh mạch (cách mà cấu trúc vật lý và năng lượng của cơ thể chúng ta liên kết qua hệ thống luân xa) và các thí nghiệm khoa học của ông đã cho thấy tác động của yoga lên toàn cơ thể.
Sự kết hợp những kiến thức mà Paul đã có về giải phẫu học, Yoga Đạo giáo và lý thuyết kinh mạch trở thành phần cốt lõi trong giáo lý Yin Yoga của ông. Cách thức này đã tạo ra tiếng vang đến những người nhận thấy lợi ích của việc thực tập và kết hợp với mô thức thân thể/tâm trí/linh hồn.
Từ năm 1998 đến 2000, Paul dành một năm nghỉ ngơi và chuyển đến Santa Fe, nơi ông lấy bằng Thạc sĩ từ trường St. John’s College trong việc nghiên cứu bộ sách The Great Books of the Western World (tạm dịch: Những quyển sách vĩ đại của thế giới phương Tây). Càng về sau, cách dạy của Paul càng hướng về Yin hơn. Ông không bao giờ loại bỏ hoàn toàn phần Yang của yoga, vì sau tất cả, chúng ta luôn cần sự cân bằng trong cuộc sống. Để chia sẻ rộng rãi hơn những gì đã học được từ Paulie và tiến sĩ Motoyama, năm 2001, Paul quyết định tự xuất bản một quyển sách có tên Yoga Đạo giáo. Sau này nó trở thành quyển Yin Yoga. Quyển sách liên tục được nhiều người tìm đọc và được tái bản nhiều lần.
Cùng với vợ mình là Suzee, Paul đi khắp thế giới dẫn dắt các khóa học ngắn và các buổi đào tạo, không chỉ về Yin Yoga, mà còn về giải phẫu học và cơ thể vi tế, cơ thể năng lượng. Paul đã làm rất nhiều video thú vị mô tả ảnh hưởng của cơ chế giải phẫu học độc đáo đến việc thực hành yoga. Một trong những phần thú vị nhất trên website của ông là những mục đăng tải rất nhiều mẫu xương người do chính ông lựa chọn để giải thích sự đa dạng trong cơ thể và phạm vi di chuyển tối đa của chúng ta.49
Sarah Powers
Một trong số học trò cực kì yêu thích những gì Paul dạy về Yoga Đạo giáo là Sarah Powers. Cô cũng là giáo viên làm việc ở studio mà Paul dạy và thường đến lớp của ông sau khi hoàn thành giờ dạy của mình. Khi Paul rời đi, họ đã mất liên lạc, nhưng may mắn thay, chuyện này chỉ diễn ra trong thời gian ngắn.
Hành trình đến với thế giới yoga của Sarah nằm ngoài dự kiến. Mục tiêu ban đầu của cô là hiểu cách mà tâm trí vận hành. Trong thời gian Sarah đang học thạc sỹ tâm lý thì một bước ngoặt đã xảy đến với cuộc đời cô: Cô chọn đề tài nghiên cứu dựa trên quyển sách đã có sẵn trong nhà mình nhiều năm. Đó là một quyển sách về yoga, và Sarah đã phải lòng yoga như thế.
May mắn thay, vào thời điểm hướng đi mới đột nhiên xuất hiện trong cuộc đời thì Sarah kết hôn. Được chồng mình là Ty ủng hộ, cô đã có thể tìm tòi nghiên cứu sâu vào việc thực hành yoga. Cô theo học lớp đào tạo giáo viên và bắt đầu dạy ở Malibu. Cách tập của cô theo hướng Yang nhiều hơn, nhưng do lúc đó cô chưa hề nhận thức được rằng yoga có thể Yin hoặc Yang.
Một ngày kia, sau một giờ học Ashtanga dễ chịu nhưng cũng nhễ nhại mồ hôi, Sarah đã thử tham gia lớp Yoga Đạo giáo mà Paul Grilley đang dạy. Đó là lần đầu cô được trải nghiệm Yin, và cảm nhận rất tuyệt. Sarah thích việc hoàn toàn chìm đắm vào tư thế. Tuy nhiên, lớp của Paul thời điểm đó đa phần diễn ra trong im lặng, ông không hề giải thích những lợi ích sâu xa đa dạng của Yin Yoga với cơ thể. Cuối cùng cuộc sống đã đưa Sarah và Paul rẽ về hai lối khác nhau. Sarah không gặp Paul nhiều năm sau đó.
Sau nhiều năm thực hành yoga thể chất, Sarah quyết định đã đến lúc đối mặt với tâm trí mình. Cô quyết định đi thiền Vipassana 10 ngày ở châu Á. Dù việc thực tập Yang Yoga đã giúp các cơ trở nên dẻo dai và có được khả năng di chuyển linh động, nhưng Sarah vẫn cảm thấy việc phải ngồi hàng giờ mỗi ngày là một cực hình. Cô hoàn toàn ngỡ ngàng với sự thật rằng thể chất của mình chưa sẵn sàng cho việc thực tập thiền. Thật khó để hướng về tâm trí khi mà tất cả những gì bạn nghe được là một cơ thể đau nhức đang kêu gào.
May mắn thay, con đường của Sarah lại tìm thấy nút giao với Paul một lần nữa. Cô quay về với những bài tập Yin mà cô đã bỏ bẫng vài năm trước. Lúc này, Paul đã bắt đầu giải thích lợi ích có được qua những bài tập của mình. Những hiểu biết về lợi ích cho năng lượng và thể chất này đã thuyết phục Sarah rằng cô nên kết hợp cả phong cách Yin và Yang khi thực hành asana. Trải nghiệm Vipassana lần tiếp theo hoàn toàn khác biệt: cô có thể ngồi bình tâm và đi sâu vào chánh niệm mà không bị ngắt giữa chừng bởi những gì mà cô phải chịu đựng lần trước.
Giờ đây, đến lượt Sarah chia sẻ những gì mình học được. Cô trở thành một giáo viên giàu kinh nghiệm và truyền đạt dễ hiểu có tiếng, nhưng cô chỉ mới dạy phần Yang của yoga. Cô quyết định chia sẻ thêm những gì mình biết về Yin. Sarah bắt đầu gọi những tư thế trên sàn, giữ lâu là “Yin” và thực hành vinyasa là “Yang”. Khi Paul tìm nhà xuất bản cho quyển sách hướng dẫn của mình qua lời gợi ý của Sarah, ông đặt tên cho quyển sách là Yin Yoga. Như chúng ta đã biết, đây hoàn toàn không phải sự ra đời của Yin Yoga mà chỉ là sự ra đời của một cái tên.50
Trong suốt quãng thời gian khám phá phần Yin của yoga, Sarah và chồng cũng nghiên cứu về chánh niệm trong Phật giáo51. Sarah bắt đầu kết hợp phương diện này với những hoạt động nhiều năng lượng và thiên về thể chất của yoga. Những gì Sarah dạy khác với Paul, cô đan xen giá trị cốt lõi và phần thực hành của yoga cùng với Phật giáo thành một cách tập luyện toàn diện để thân, tâm, trí được bừng sáng. Trang web của Sarah52 mô tả phương pháp giảng dạy của cô:
Phong cách yoga của cô đan xen cả tiến trình Yin với các tư thế cần giữ lâu để tăng cường cho các hệ thống kinh mạch và cơ quan, kết hợp với một chuỗi các thực hành Yang có ảnh hưởng từ Viniyoga, Ashtanga, và Iyengar. Sarah cảm thấy việc giúp cơ thể vật lý và cơ thể năng lượng được bừng tỉnh, cũng như học cách cởi mở với những tổn thương cảm xúc là tối quan trọng để một người được chuẩn bị sẵn sàng cho việc đào sâu và nuôi dưỡng những nhìn nhận thấu đáo về bản chất tự nhiên căn bản của mình - trạng thái thức tỉnh tự nhiên.
Sarah tiếp tục cùng chồng, Ty, mang Insight Yoga đi toàn thế giới. Phương pháp Insight Yoga đan xen hòa quyện chặt chẽ giữa Yin/Yang Yoga, với Phật giáo và triết lý tâm linh. Sarah cũng là đồng sáng lập của Hành trình Metta, một tổ chức dịch vụ chuyên cung cấp các khóa thiền yoga nhằm giúp đỡ phụ nữ và trẻ em ở các nước đang phát triển. Năm 2010, Sarah và Ty đã thành lập một học viện để học viên có thể nghiên cứu sâu hơn những triết lý và thực hành của Insight Yoga. Học viện Insight Yoga của Sarah cung cấp hai khóa thiền 10 ngày trong chương trình học kéo dài hai năm ở cả Mỹ và châu Á. Đây cũng là chương trình huấn luyện chứng chỉ yoga hơn 500 giờ được cấp giấy chứng nhận của Yoga Alliance.
CHÚ THÍCH:
1. Khái niệm về Đạo không chỉ có ở Trung Quốc mà còn được tìm thấy ở nhiều nền văn hóa trong suốt tiến trình lịch sử. Ở Ấn Độ, Dharma(1) là quy luật giữ cho vũ trụ tồn tại. Ở Ai Cập cổ đại, người ta thường biết đến Ma’at, bà sẽ phán xét linh hồn của một người vào cuối đời để duy trì cân bằng và trật tự của vũ trụ; không có Ma’at, mọi thứ chỉ là hỗn độn. Logos cũng giữ vai trò tương tự ở Hy Lạp: trật tự ẩn tàng của vũ trụ.
(1) Dịch là Pháp. Pháp có ba nghĩa: Phương pháp để tu luyện tương thích với một người; phương pháp để tiến tới giác ngộ của toàn quá khứ, hiện tại, tương lai; pháp giới, tức chỉ toàn vũ trụ bao gồm các quy luật của nó (HĐ).
2. Vinyasa là một chuỗi tư thế hoặc asana liền mạch có thể chuyển từ động tác này sang động tác khác một cách nhịp nhàng. Nó có nghĩa đen là “xếp đặt theo cách đặc biệt”.
3. Cụm từ “yogi” nghĩa là “người thực hành yoga” và không mang hàm nghĩa chỉ giới tính. Khi muốn đề cập cụ thể đến người tập nam, có thể dùng cụm từ “yogin”, và người tập nữ là “yogini”.
4. Các yogi cũng có từ tương tự cho Yin và Yang, tha và ha, kết hợp lại thành chữ hatha, cũng là tên được đặt cho một trường phái yoga nổi tiếng.
5. Cá nhân hóa (Inpiduation) là quá trình giúp một người trở nên toàn vẹn về mặt tâm lý. Phương diện này cũng tương tự như nhiều khái niệm yoga, nhưng cá nhân hóa áp dụng trong lĩnh vực tâm lý, trong khi yoga áp dụng trong lĩnh vực tâm linh. Chúng ta cần cả hai, như Georg Feuerstein từng nói, “giác ngộ không thay thế cho việc hợp nhất tính cách của một người.”
6. Robert Johnson là một nhà phân tích học thuyết Jung, là giảng viên, đồng thời cũng là tác giả của nhiều quyển sách minh hoạ các khái niệm và mối quan hệ trong học thuyết của Jung, như He, She, và We. Ông từng học ở Học viện Jung ở Thụy Sĩ và tu viện Sri Aurobindo ở Ấn Độ.
7. Trích từ Owning Your Own Shadow (tạm dịch: Sở hữu cái bóng của chính bạn), của Robert Johnson, trang 78.
8. Vật liệu đàn hồi quay trở về hình dạng ban đầu sau khi tác dụng lực không còn. Vật liệu cố định giữ nguyên hình dạng mới.
9. Nói cách khác, trẻ em không cần phải tập Yin Yoga vì lý do sinh lý. Tuy nhiên, một số trẻ có thể hưởng lợi nhờ phần định tâm hoặc năng lượng của việc thực hành yoga, nhưng việc này cũng không được khuyến cáo với trẻ nhỏ. Thời thơ ấu là để vui chơi, chứ không phải để ngồi yên và thiền định.
10. Ngắn có thể là 5 hoặc 8 hơi thở hoặc lên đến một, hai phút.
11. Co cơ là cơn chuột rút do vô ý. Thử nhớ lại lần cuối cùng bạn bị chuột rút xem: không vui xíu nào hết! Chúng tôi thực sự không muốn cơ bắp của bạn bị chuột rút vì co lại quá lâu.
12. Lý thuyết này được áp dụng rộng hơn, không chỉ với mô trong cơ thể. Chúng ta phải có áp lực, rồi nghỉ ngơi, trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống để được khỏe mạnh, kể cả trong các mối quan hệ, khả năng tinh thần, thậm chí là với hệ miễn dịch. Ví dụ, bệnh nhân ung thư ít khi bị cảm lạnh trước khi mắc bệnh. Hệ miễn dịch của họ không được tập luyện với cảm lạnh, vì vậy trở nên yếu ớt hơn những người thường bị cảm lạnh. Chúng ta phải gây áp lực phù hợp lên hệ miễn dịch để chúng được mạnh mẽ. Nhưng đồng thời chúng ta cũng cần nghỉ ngơi.
13. Nếu bạn tò mò về những ví dụ ở trên, bạn có thể thoải mái thảo luận ở diễn đàn trực tuyến của www.YinYoga.com.
14. Tìm đọc The Science of Flexibity (tạm dịch: Khoa học của sự linh hoạt) của Michael Alter (Champaign, IL: Human Kinetics, 2004).
15. Được cho là tầm 200 năm trước công nguyên và do hiền triết Patanjali viết.
16. Yoga Sutra, các trang II-29 và II-46.
17. Georg Feuerstein, The Shambhala Encyclopedia of Yoga (tạm dịch: Bách khoa toàn thư Shambhala về Yoga) (Boston: Shambhala, 2000), trang 121.
18. Pradipika thực tế còn mô tả những tư thế khác, được dùng cho pranayama hoặc mudra, nhưng không được liệt kê cụ thể như asana.
19. Hatha Yoga Pradipika, trang I-43.
20. Ibid, trang I-35.
21. Ibid, trang I-19.
22. Ibid, các trang II-7 và 8.
23. Feuerstein, Shambhala Encyclopedia, trang 105.
24. Các học trò xuất sắc của Krishnamacharya gồm có Iyengar, Pattabhi Jois, và con trai ông - T.K.V. Desikachar.
25. Trong Yin Yoga, Supta Virasana được gọi là tư thế Yên Ngựa.
26. B.K.S. Iyengar, Light on Yoga (Thắp sáng Yoga) (New York: Schocken Books, 1979), trang 125.
27. Đạo giáo thường được gọi là Lão giáo nhưng vì khi phát âm tiếng Anh thì âm “d” nhiều hơn âm “t” nên chúng tôi chọn cách đánh vần đầu tiên.
28. Đạo là đường. Đức nghĩa là “nhân cách”, tuy nhiên, nó thường được dịch là “sức mạnh” (power); Kinh là một quyển sách hoặc câu chuyện.
29. Triết lý này được lặp lại trong nhiều lời giáo huấn ở Đông Iran, nhưng ở phương Tây thì điều này bị xem là báng bổ. Ở phương Tây, con người là một phần của sự sáng tạo chứ không phải Đấng Sáng Tạo: chúng ta ở ngoài Đấng Sáng Tạo. Đây là góc nhìn nhị nguyên về sự sáng tạo. Ở phương Đông, triết lý góc nhìn bất nhị nguyên rằng Con Người là một phần của Đấng Sáng Tạo và Đấng Sáng Tạo ở trong mỗi chúng ta là triết lý phần lớn được tán thành.
30. Chúng ta sử dụng định nghĩa của Eva Wong cho năm hệ thống của Đạo giáo. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về lĩnh vực này, bạn có thể bắt đầu với quyển sách Taoism (Đạo giáo) của bà.
31. Eva Wong, Shambhala Guide to Taosim (tạm dịch: Hướng dẫn Shambhala về Đạo giáo) (Boston: Shambhala, 1996), trang 173.
32. Đan điền dưới được xác định ở vùng bụng, xung quanh rốn. Đó là nơi tập trung của năng lượng sinh sản. Nhờ vào lửa (năng lượng Yang) được xác định ở vùng Dạ dày, năng lượng sinh sản được chuyển hóa thành năng lượng sống. Đan điền giữa nằm ở vùng ngực. Đây là nơi năng lượng sống được chuyển hóa thành năng lượng tâm linh. Đan điền trên nằm tại nơi mà Yogi Ấn Độ gọi là luân xa thứ sáu, ở giữa hai lông mày. Đây là nơi năng lượng tâm linh được hội tụ, lưu giữ và cuối cùng hợp nhất với bản nguyên của Đạo.
33. Cách thức tập luyện được mô tả chi tiết ở cuối chương hai.
34. Được gọi là Marco Polo của thế giới bên trong của Trung Quốc.
35. Chú ý việc viết in hoa chữ cái đầu tiên ở đây. Để phân biệt với cách dùng từ ở phương Tây và những từ tương tự chứ không đồng nghĩa của Đạo giáo, chúng tôi sẽ viết hoa cụm từ Đạo giáo.
36. Wong, Shambhala Guide to Taoism, trang 212.
37. Có một giả thuyết trong yoga Ấn Độ cho rằng chúng ta được sinh ra với đủ hơi thở để sống đến 108 tuổi. Tuy nhiên, nếu chúng ta thở quá nhanh, chúng ta sẽ sớm sử dụng hết lượng hơi thở được trao, và sẽ không sống được lâu như vậy. Thở chậm lại đã được nhiều người thừa nhận là cách để được trường thọ - giống như rùa vậy. Chúng ta sẽ quay lại với chủ đề này ở chương hai khi chúng ta xem xét bài tập thở trong Yin Yoga.
38. Paulie Zink thường nói: “Để hòa cùng dòng chảy với Đạo, hãy đi như một con bò!”
39. Wong, Shambhala Guide to Taoism, trang 223.
40. Theo Paulie Zink, tên của người tù là Kou Sze. Khi được trả tự do, ông trở thành vệ sĩ. Một trong những học trò của ông, Ken Tak Hoi rất tài giỏi đã phục vụ cho hoàng gia và sau này mở trường đào tạo vệ sĩ của riêng mình, cuối cùng chuyển đến sống ở Hong Kong. Truyền nhân của Ken Tak Hoi ở Hong Kong là Cho Chi Fung, cũng chính là chú của Cho Chat Ling.
41. Đây là lần đầu khỉ trở thành niềm cảm hứng của võ thuật. Nhiều loại hầu quyền khác được mô tả trên Wikipedia.
42. Tìm kiếm từ khóa “Paulie Zink” trên Youtube và xem cách ông di chuyển. Bạn cũng sẽ bất ngờ với sự uyển chuyển và linh hoạt của Paulie.
43. Đôi khi hình thức yoga này được gọi là “Yin Đạo giáo.” Có nhiều kiểu Yin Đạo giáo và mỗi loại đều có lịch sử lâu đời của nó, giống như Hatha Yoga có một lịch sử dài và đa dạng. Những truyền dạy của Paulie chỉ là một trong những nhánh của cái cây Yin Đạo giáo.
44. Tìm hiểu thêm về Paulie Zink tại www.pauliezink.com.
45. Chúng ta sẽ nói sâu hơn về những điều Paul đã nhận ra ở chương 6.
46. Thông tin về cuộc đời của Tiến sĩ Motoyama được đề cập rải rác trong quyển sách của ông. Độc giả có thể tìm hiểu chi tiết trong quyển sách Awakening of the Chakras and Emancipation (tạm dịch: Đánh thức các Luân xa và Tự do). Ở đó, bạn có thể tìm hiểu về cách Motoyama đã được đào tạo những năm đầu đời và sự bừng tỉnh của những vibhutis, hay năng lực: khả năng nhìn thấy trường năng lượng, khả năng ảnh hưởng và chỉnh sửa những năng lượng không tốt, khả năng chữa lành cho những người bên cạnh và những người ở xa đang cần. Để tìm hiểu tiểu sử trích ngang, truy cập: http://www.cihs.edu/cihs/ Dr_Motoyama_bio.htm
47. Tên của bà là Kinue Motoyam, bà là người sáng lập ra Tổ chức Tôn giáo Tamamistsu Jinja. Bà còn có tên khác là Myoko no Kamisama.
48. Học viện ở Mỹ có tên là Học viện Khoa học Nhân văn California (CIHS) và đặt ở Encinitas, California. Paul nhận bằng tiến sĩ danh dự của CIHS vào năm 2005.
49. Bạn có thể tìm hiểu thêm về Paul Grilley ở trang web: www. paulgrilley.com.
50. Ý tưởng giữ các tư thế thật lâu mà Paulie tái khám phá ra trong quá trình phát triển hình thức Yoga Đạo giáo của riêng mình, đã tồn tại từ trước khi các Hatha Yogi cổ đại bắt đầu tập asana. Những thực hành thể chất khác, như thể dục dụng cụ và nhảy, cũng sử dụng dùng một cách thức để mở cơ thể ra. Ví dụ, các vũ công ba-lê thường tập mở hông bằng cách ngồi ở tư thế xoạc chân rất lâu.
51. Sư phụ người Tây Tạng của họ, Tsoknyi Rinpoche, đã ảnh hưởng đến họ rất nhiều, cũng như Thiền sư, Toni Packer. Ngoài ra, Jennifer Welwood, Lạt ma Tsultrim Allione, Lạt ma Pema Dorje, và Stephen Batchelor cũng có ảnh hưởng lớn tới Sarah.
52. http://www.sarahpowers.com/approach.html