Ở Ấn Độ, pháp môn yoga đã phát triển qua hàng ngàn năm. Mục đích thực hành từng loại yoga cũng rất khác nhau, chưa bao giờ có một loại yoga duy nhất. Chưa từng có một “cây” yoga đồng nhất nào thể hiện được sự tiến hóa của tất cả các dạng yoga khác nhau mà chúng ta biết đến ngày nay. Thay vào đó, có một khu rừng được gọi là yoga, trong đó có nhiều hình thức thực hành tuyệt diệu cũng như đáng sợ đã tồn tại. Từ yoga có tới hàng chục định nghĩa. Từng có lúc, yoga có nghĩa là nắm chặt dây cương trên cỗ xe của bạn, băng qua cái chết trên chiến trường, tiến lên, xuyên qua chiếc đĩa mặt trời và trở nên bất tử. Nhiều yogi được kính sợ như những pháp sư có thể khống chế thi thể người chết và hồi sinh họ. Những trường phái yoga khác giúp cho yogi bay trong không trung, phân thân, nhập vào một cơ thể sống khác và điều khiển họ. Cha mẹ sẽ dọa nạt để ép con cái vào khuôn phép bằng cách cảnh báo chúng rằng các yogi sẽ đến và ăn chúng nếu chúng không chịu cư xử cho phải phép: đây không phải lời dọa nạt vu vơ vì một số yogi thực sự đã giết và ăn thịt người. Một số yogi là lính đánh thuê, những chiến binh đáng sợ với vũ khí chưa từng được biết đến ở phương Tây, chẳng hạn như chiếc đĩa xoay chết chóc. Một yogi có thể ngang nhiên tiến vào nhà của một người đàn ông, ăn uống bất cứ thứ gì yogi đó muốn, vui vẻ với vợ của người đàn ông đó và bỏ đi với tiền hoặc đồ trang sức mà không phải chịu bất kì nề hà hoặc ngăn cản nào từ chủ nhân của ngôi nhà.
Những pháp môn yoga này rõ ràng là hoàn toàn khác với những gì chúng ta nghĩ về yoga đương đại. Ngày nay, yoga được cho là ngọt ngào, thuần khiết và được thực hành với mục đích cải thiện sức khỏe cũng như đời sống tâm linh. Và những hình thức yoga này thực sự đã và đang tồn tại trong khu rừng yoga, nhưng đây không phải là những cây duy nhất tồn tại trong vùng đất bí ẩn đó.
Khoảng năm 200 TCN, một hình thức yoga cổ điển đã phát triển nở rộ, được tóm tắt cô đọng trong một văn bản tên là Yoga Sutra.2 Trong trường phái yoga này, yogi thực hành để làm chủ tâm trí và làm tĩnh lặng những suy nghĩ xáo động không ngừng nghỉ. Một khi tâm trí đã được thuần hóa, yogi sẽ có thể bước vào trạng thái nhập định sâu, được gọi là samadhi. Mục đích của pháp môn đặc thù này là để giải thoát khỏi sự phụ thuộc vào vật chất và sau khi rời bỏ thể xác, thì được giải thoát (hoàn toàn). Chỉ sau cái chết, ta mới đạt được sự giải thoát.3 Cơ thể và tâm trí chính là kẻ thù của chúng ta, được hình thành từ prakriti – vật chất và năng lượng hiện hữu, nó đánh bẫy và lừa chúng ta rằng ta chính là cơ thể hoặc tâm trí của mình.4 Bản chất thật của chúng ta, được gọi là purusha, là ý thức thuần khiết: người chứng kiến. Tự nhiên giam hãm ý thức, vì vậy, tự nhiên là kẻ thù của chúng ta. Hình thức yoga khốc liệt với lối tu khổ hạnh và thiền định nghiêm mật này không dành cho tất cả mọi người và không phải ai cũng đồng ý rằng tâm trí và cơ thể là kẻ thù của mỗi người.
Một hình thức yoga mới đã phát triển trong khu rừng yoga, như một cách phản ứng lại hoặc đối lập tương hỗ với cách thực hành chối bỏ cuộc đời của Yoga cổ điển: Tantra. Tantra Yoga tôn vinh sự sống: một người chỉ có thể được trở nên giải thoát khi người đó có thân thể. Để trở nên giải thoát khi vẫn còn đang sống, để trở thành một jivan- mukta, chúng ta cần biến đổi cơ thể và truyền dẫn năng lượng bên trong mình. Tantra sáng tạo ra một mô hình tinh vi gồm những năng lượng bên trong này, còn được gọi là năng lượng vi tế bởi vì nhận diện được chúng đã khó, chưa nói đến việc làm chủ chúng. Một nhánh sau này của Tantra Yoga, được gọi là Hatha Yoga (mà chúng ta đã thảo luận sơ qua trong chương 1), giữ nguyên mô hình cơ thể tinh vi được tạo ra bởi các Tantrika nhưng đã lược giảm đi nhiều thực hành Tantra bí truyền và cả những phần không được xã hội chấp nhận. Với Tantra và Hatha, các yogi giờ đây thực hành để tăng cường sức khỏe và làm cho cơ thể mạnh mẽ hơn, chứ không phải để khiến cho cơ thể đói khát và chết dần chết mòn trong nỗi thống khổ. Chìa khóa để quản lý năng lượng vi tế là thực hành pranayama; việc kiểm soát nguồn sống, được gọi là prana.
Prana
Khoa học tâm lý - tâm linh5 của pranayama được phát triển dựa trên các khái niệm về năng lượng (prana) những con sông nhỏ tuôn chảy bên trong cơ thể mỗi người (các nadi), và các mạng lưới năng lượng chính (các luân xa). Người phương Tây định nghĩa năng lượng là khả năng làm việc. Cách kiến giải ở phương Đông cũng không khác nhiều: năng lượng cho phép chúng ta hiện diện, sống và hoạt động trong thế giới. Giống như cách chúng ta sử dụng thuật ngữ năng lượng để biểu thị nhiều loại năng lượng đang tồn tại, trong các mô hình yoga, một thuật ngữ đã được sử dụng để gói gọn tất cả các loại năng lượng khác nhau: đó là prana.
Prana là sự sống và cũng thường được xem như là hơi thở của chúng ta. Nó có nghĩa đen là “thở ra”. Cách hiểu này không phải chỉ có ở Ấn Độ. Nhiều nền văn hóa cổ đại đồng nhất sự sống và hơi thở. Trong tiếng Latin, từ spiritus cũng có nghĩa là hơi thở. Trong Kinh Vệ Đà, văn bản Hindu lâu đời nhất, prana được cho là hơi thở của vũ trụ purusha.6 Prana là một thuật ngữ bao quát với nhiều phân loại nhỏ hơn.
Hiểu biết về prana rất quan trọng đối với yogi. Việc kiểm soát năng lượng hay prana cho phép chúng ta duy trì hoặc cải thiện sức khỏe của mình, cung cấp năng lượng cần thiết để tiến sâu hơn vào những bí ẩn về bản chất của sự tồn tại và làm dịu cơn gió nội tâm cuốn chúng ta qua hết suy nghĩ này đến suy nghĩ khác. Yin Yoga giúp chúng ta quản lý năng lượng liên quan đến prana của chúng ta theo nhiều cách, như đã được mô tả trong chương 2.
Hiểu được cách prana hoạt động và cách giải phóng năng lượng này là một phần của pháp thực hành tâm lý - tâm linh, được gọi là pranayama. Từ pranayama thực ra gồm hai từ tiếng Phạn: prana và ayama. Điều này thường gây nhầm lẫn và nhiều học viên nghĩ rằng đó là hai từ prana và yama. Yama có nghĩa là kiềm chế hoặc kiểm soát, ayama lại có nghĩa là không kiểm soát. Vì thế, trong pháp thực hành pranayama, chúng ta đang cố gắng giải phóng năng lượng của prana, chứ không không phải kiềm chế nó. Điều này có thể gây nhầm lẫn, vì nhiều giáo viên và tác giả giải thích pranayama theo hướng kiểm soát hơi thở. Có lẽ một cách tốt hơn để nghĩ về pranayama là xem nó như một sự điều hòa hơi thở, nhưng theo cách để prana thực sự được giải phóng hoặc mở rộng một cách có kiểm soát.
Tại sao chúng ta lại muốn điều hòa hơi thở? Nếu bạn đã từng cố gắng thiền định và làm tĩnh lặng những dao động trong tâm trí, bạn sẽ biết được điều này khó đến nhường nào. Thiền là một hình thức rèn luyện mà trong đó, chúng ta cố gắng bình lặng tâm trí thông qua ý chí tuyệt đối. Đây là pháp thực hành rất khó và không có gì bất ngờ khi Thiền là con đường của các samurai. Yogi tìm một con đường dễ dàng hơn để hướng tới cùng một mục tiêu, thông qua việc điều hòa hơi thở. Nếu hơi thở yên lặng, tâm trí sẽ tĩnh lặng.
Bên trong cơ thể có năm loại chính và năm loại phụ của prana.7
Chúng ta sẽ chỉ xem xét các dạng chính:
1. Prana: năng lượng nâng lên. Thuật ngữ prana mang ý nghĩa tổng quát chỉ tất cả các dạng năng lượng.8 Vayu prana chịu trách nhiệm về năng lượng của trái tim và hơi thở. Khi chúng ta thấy cành cây vươn lên phía mặt trời, đó là cách năng lượng prana biểu hiện. Khi chúng ta cảm nhận hơi thở hít vào giúp nâng cao tinh thần lên, cùng với vai, đó là prana. Hãy thử điều này: đứng trong tư thế Ngọn Núi – hòa vào prana của bạn khi bạn hít vào và nâng tay qua đầu: cảm nhận năng lượng dâng lên khi cánh tay của bạn giơ lên.
2. Apana: năng lượng đi xuống, cắm rễ. Vayu apana chịu trách nhiệm cho sự loại bỏ, cả qua phổi (khí CO2) và qua đường tiêu hóa. Rễ của một cái cây đi sâu xuống đất tìm kiếm sự cân bằng là biểu hiện của apana. Sự cắm rễ sâu xuống phía dưới của hơi thở ra tác động cùng một năng lượng như trên. Chúng ta có thể hòa vào apana trong khi ở tư thế Ngọn Núi và sau khi chúng ta đã giơ cánh tay lên trên: bây giờ bắt đầu đưa tay xuống ngực, cảm nhận năng lượng cắm rễ xuống khi cánh tay của bạn hạ xuống.
3.Samana: năng lượng cân bằng. Các vayu samana chịu trách nhiệm cho việc tiêu hóa và trao đổi chất của các tế bào. Nó hướng vào bên trong. Chúng ta có thể hòa vào trong samana khi chúng ta kéo tay vào trong: đứng trong tư thế Chiến Binh 2 với hai cánh tay để ra xa nhau - khi thở ra hãy kéo tay bạn về phía trái tim và cảm nhận năng lượng của việc siết cơ bắp ở phần trung tâm của cơ thể (core).
4. Vyana: năng lượng di chuyển ra ngoài. Vayu vyana chịu trách nhiệm cho sự chuyển động của cơ bắp và sự cân bằng dòng chảy năng lượng trên khắp cơ thể. Chúng ta có thể hòa vào vyana khi mở rộng cánh tay ra trong tư thế Chiến Binh 2: hãy cảm nhận năng lượng hướng ra ngoài khi bạn mở rộng tứ chi của mình.9
5. Udana: “hơi thở lên” hoặc năng lượng đi lên. Vayu udana chịu trách nhiệm tạo ra âm thanh và là năng lượng của năm giác quan. Một số lý thuyết cho rằng vayu này chỉ có trong cổ họng nhưng các lý thuyết khác nói rằng nó lưu thông trong tất cả các chi và các khớp.
Không có năng lượng nào ở trên tồn tại riêng rẽ. Bản thân việc cảm nhận những luồng năng lượng đã là một pháp thực hành thiền định. Chỉ ngồi trong vài phút để theo dõi prana và apana đã đòi hỏi sự tập trung. Khi chúng ta giữ tư thế Yin Yoga của mình trong năm phút hoặc lâu hơn, chúng ta có cơ hội thực hành thiền định trên năng lượng. Thiền định được như vậy là suy nghĩ của chúng ta sẽ chậm lại, giống như cách mà những lời kinh đã hứa hẹn.
Năng lượng không chỉ đơn thuần tồn tại mà nó còn tuôn chảy. Cũng giống như ống nước trong vườn truyền tải nước, giống như dây thần kinh truyền xung điện và giống như mạch máu truyền tải năng lượng hóa học, tương tự như vậy, prana cũng được lưu chuyển trong cơ thể chúng ta. Và các kênh truyền tải prana được gọi là các nadi.
Các Nadi
Nước cần bờ để trở thành sông và prana cũng cần một đường dẫn để tuôn chảy. Những đường dẫn này chính là các nadi, có nghĩa là “những con sông nhỏ”. Một số văn bản cổ xưa, như Shiva-Samhita, khẳng định có 350000 nadi. Nhiều văn bản lại cho rằng con số phải là 72000. Tri-Shikhi-Braha-mana Upanishad lại cho rằng số lượng nadi là vô hạn.
Mặc dù các bậc thầy yogi đã phát hiện ra một lượng lớn nadi, nhưng chỉ có mười một Những Nadi như được minh họa bởi nhà hiền triết Tây Tạng, Ratnasara hay mười hai cái được đặt tên và chỉ có ba trong số đó thực sự được mang ra thảo luận. Tuy nhiên, ngay cả ở đây, các văn bản cũng biến thiên đáng kể trong các mô tả của mỗi nadi.10
Ba nadi quan trọng nhất là:
Nadi sushumna
Nadi ida
Nadi pingala
Sushumna Nadi
Đây là nadi quan trọng nhất. Hầu hết các văn bản đều đồng ý rằng kênh này bắt đầu trong luân xa muladhara, nằm ở đáy cột sống. Kênh này tương ứng với mạch Đốc theo quan điểm Đạo giáo về dòng chảy năng lượng. Các sushumna chảy trong lõi của cột sống, nhưng nó không phải là cột sống, nó vi tế hơn thế. Chức năng của sushumna được xác định tùy thuộc vào trường phái yoga mà môn sinh đang theo học.
Trong Tantra, Kundalini Yoga và trong nhiều trường phái Hatha Yoga, sushumna là kênh chính, ở đó có dòng năng lượng kundalini tuôn chảy. Kundalini được cho là một dạng năng lượng đặc biệt hoặc dạng prana cao nhất. Thuật ngữ này mang ý nghĩa sức mạnh của một con rắn, được hình dung nằm cuộn mình ở đáy cột sống, im lìm và chờ được đánh thức. Trong một số trường phái, năng lượng kundalini được gọi là shakti.
Georg Feuerstein ví prana như năng lượng trong một quả bom nguyên tử, còn kundalini lại giống như năng lượng của một quả bom hydro.11 Năng lượng shakti hướng lên từ chỗ trú của nó ở ngay dưới luân xa muladhara và hướng về luân xa ajna (theo Tiến sĩ Motoyama) hoặc sahasrara (theo Georg Feuerstein). Mục đích là để dẫn kundalini lên sushumna rồi tới đỉnh đầu nơi Shiva đang chờ để đoàn tụ với Shakti.
Một khi kundalini đã được đánh thức và đi lên theo sushumna lên đỉnh đầu, nhiều hiện tượng tâm linh có thể xảy ra. Âm thanh vang vọng bên trong, khả năng thấy được những điều đặc biệt và những hiểu biết sâu sắc là có thể xảy ra. Những vibhutis12 như nhìn thấy cõi siêu hình, siêu năng lực điều khiển vật thể, cảm giác đắm chìm trong một thế giới ảo và thần giao cách cảm cũng có thể xuất hiện. Jivan- mukti (trạng thái giải thoát khi vẫn đang ở trong cơ thể) có thể đạt được bằng cách này.
Nadi Ida và Pingala
Song hành với sushumna nadi, ở hai bên của cột sống, là nadi ida và pingala. Ida là năng lượng chandra (Yin) của mặt trăng, trong khi pingala là năng lượng surya (Yang) của mặt trời.13
Dòng chảy của hai kênh này thường là chủ đề gây tranh cãi. Các giáo viên hiện đại thường dạy rằng ida bắt đầu trong muladhara ở đáy cột sống và chạy lên phía bên trái của cột sống cho đến khi nó đến một luân xa. Nó đổi hướng tại mỗi luân xa cho đến khi đến được phần gáy. Băng qua đầu, nó đi xuống trán cho đến khi kết thúc trong lỗ mũi bên trái. Pingala chạy tương tự nhưng bắt đầu ở phía bên phải và kết thúc trong lỗ mũi phải. Chúng cùng nhau tạo thành một y hiệu, hai con rắn cuộn xoắn theo hình trôn ốc quanh nadi sushumna.
Nghiên cứu của Tiến sĩ Motoyama cho thấy không có văn bản yoga nào thực sự mô tả chi tiết các đường dẫn của ida và pingala. Chắc chắn không có thảo luận nào về việc các nadi đi ngang qua các luân xa. Có ngụ ý rằng các nadi chảy lên dọc theo cột sống giống như các kinh mạch Bàng quang trong y học Trung Hoa.
Một điều thú vị xảy ra với dòng năng lượng trong các kênh ida và pingala: Khoảng mỗi chín mươi phút một lần, hơi thở của chúng ta đổi bên. Hãy xem thử bạn có thể biết bây giờ lỗ mũi nào đang mở ra nhiều hơn không. Khi chúng ta đang khỏe mạnh, hơi thở chuyển lỗ mũi khoảng mỗi 90 phút. Khi chúng ta bị bệnh, điều này có thể xảy ra vài giờ một lần. Người ta bảo rằng khi cái chết gần kề, hơi thở không hề chuyển đổi giữa hai lỗ mũi.
Khi hơi thở thoát ra từ lỗ mũi surya (bên phải), chúng ta đang ở trong trạng thái Yang, tràn trề năng lượng. Khi hơi thở thoát ra từ lỗ mũi chandra (trái), chúng ta đang ở trong một trạng thái Yin, thụ động. Có nhiều hình thức pranayama giúp cân bằng năng lượng surya và chandra, chẳng hạn như Nadi Shodana (mô tả trong chương 2). Những bài tập này thường được thực hiện sau các bài tập asana, nhưng chúng cũng có thể được thêm vào các tư thế Yin Yoga ngồi.
Theo nhiều giáo viên, có một số hoạt động nhất định phải hạn chế nếu đang mở sai lỗ mũi. Ví dụ, Pattabhi Jois, trong cuốn sách Yoga Mala, cảnh báo rằng một người không được quan hệ tình dục khi mặt trời vẫn đang chiếu sáng hoặc khi lỗ mũi phải đang mở. Khi lỗ mũi phải mở, tình huống cũng giống như mặt trời đang chiếu sáng.14
Chakra
Trong cơ thể người có gần 100 đám rối thần kinh. Đám rối thần kinh là nơi các dây thần kinh hợp lại (trái ngược với việc chẻ nhánh ra ngoài) hình thành một mạng lưới thần kinh. Nổi tiếng nhất là đám rối dương, một cụm tế bào thần kinh tự trị đằng sau Dạ dày và bên dưới cơ hoành. Một số nhà khoa học gọi đám rối dương là bộ não thứ hai của chúng ta. Các mạch máu có thể tạo thành các đám rối chẳng hạn như đám rối màng mạch trong não. Và các nhà hiền triết yoga dạy rằng các nadi cũng hình thành một mạng lưới tạo ra các đám rối, gọi là “luân xa”. Luân xa là các bánh xe hoặc các hình tròn và những mô hình mà theo đó nguồn năng lượng tinh tế trong cơ thể chúng ta có thể được đan xen tạo các điểm tập trung, tương tự như cách năng lượng thần kinh nối thành mạng lưới trong đám rối dương.
Những hành giả Phật giáo đã phát triển một trong những mô hình đầu tiên của luân xa cách đây 1500 năm. Họ đã giúp phát triển trường phái Tantra Yoga. Bản đồ của họ cho thấy có năm luân xa, mỗi luân xa tượng trưng cho một vị Phật đang ngồi thiền. Trong trường phái Tantra của yoga, như được thực hành ở Ấn Độ bởi những hành giả Ấn giáo, bảy đám rối chính đã được phát hiện, mỗi cái đại diện cho một thiên diện của sự tồn tại (hoặc những lokah), từ trái đất đến tầng trời cao nhất.15
Các lý thuyết về luân xa rất khác biệt và đa dạng. Không có sự đồng thuận tuyệt đối về số lượng luân xa mà chúng ta có (một số văn bản mô tả mười hai hay nhiều hơn), vị trí, đặc điểm hoặc thậm chí là mục đích hay chức năng của chúng. Thường thì luân xa được mô tả trong các sơ đồ là có một số cánh hoa sen nhất định với một màu sắc, âm thanh và biểu tượng cụ thể. Nhưng ở đây cũng thế, các ý kiến cũng đa dạng phong phú. Có một điểm chung cùng nhận được sự đồng thuận đó là các luân xa được xem như trung tâm năng lượng của cơ thể vi tế.
Luân xa không phải là một thuật ngữ khác chỉ các đám rối thần kinh hoặc các tuyến nội tiết của cơ thể vật chất, mặc dù chúng có thể cư trú ở cùng một vị trí chung. Tương tự, các luân xa không phải là những cơ quan thể chất của cơ thể. Rất nhiều người nói về vị trí gần nhau và sự tương đồng trong chức năng của các luân xa và cơ quan nội tiết. Tuy nhiên, các văn bản yoga không đưa ra các tuyên bố như vậy và nó chỉ mới xuất hiện trong vài thập kỷ qua khi một số giáo viên đã tạo ra mối liên hệ này.
Có rất nhiều quyển sách hiện nay mô tả cực kì chi tiết về luân xa.16 Rất khó để tìm ra lời giải thích tường tận rằng những luân xa này làm gì, nhưng có thể nói rằng luân xa là trung tâm năng lượng vi tế (prana hay kundalini) cần được vận động để đạt được sức khỏe cả về thể chất và tâm linh toàn diện, cũng như sự giác ngộ tối cao. Trong những cá nhân bình thường, các luân xa không phát triển hoặc thậm chí không hoạt động. Thực hành yoga giúp bạn đánh thức các luân xa, cho phép prana chảy qua chúng. Cuối cùng, khi tất cả sáu luân xa thấp nhất đã được mở ra, năng lượng được tự do (ayama) để chạm tới luân xa cao nhất và sự giải thoát là khả dĩ.
Quan điểm của Tiến sĩ Motoyama
Một trong những mục đích của Tantra và Hatha Yoga là dần làm sạch và mở từng luân xa. Một khi các xoáy năng lượng này được mở ra, dòng chảy của kundalini hoặc năng lượng shakti có thể được chảy lên kênh trung tâm và tâm thức có thể hợp nhất với Thượng Đế. Ta dễ có ấn tượng là các luân xa này phải được mở tuần tự, bắt đầu với mức thấp nhất và di chuyển lên trên. Điều này không thực sự được nêu trong bất kỳ văn bản cổ xưa nào về yoga. Nhiều người có thể có một hoặc hai luân xa đã mở nhưng những cái nằm thấp hơn lại bị chặn.
Theo kinh nghiệm của Tiến sĩ Motoyama, các luân xa nên được mở ra theo một trình tự nhất định nhưng không phải bắt đầu từ cái dưới cùng, muladhara.17 Ông đặc biệt khuyên các học viên nên bắt đầu với ajna, nằm giữa hai mắt. Ông nói, “... nếu ajna được đánh thức đầu tiên thì nguồn nghiệp lực áp đảo và tiềm tàng hiểm hoạ đã tích tụ ẩn tàng trong các luân xa thấp hơn có thể được kiểm soát một cách an toàn.” Sau khi đánh thức ajna, yogi sau đó mở muladhara và tiếp đó là luân xa thứ hai, svadhisthana, và rồi cứ thế đi lên trên.
Thông qua tầm nhìn thấu suốt của mình, Tiến sĩ Motoyama cho biết luân xa ít giống hình bánh xe mà giống hình nón hơn, với chóp nón ở cột sống và đầu, phần vành nón nằm trên mặt trước của cơ thể. Ông gọi mặt trước của các luân xa là thụ thể.
Có một sự khác biệt lớn giữa quan điểm của Tiến sĩ Motoyama với hầu hết các tác giả yoga khác về chức năng của các luân xa: Tiến sĩ Motoyama đã xác định rằng luân xa là cầu nối giữa ba cơ thể mà chúng ta có. Ba cơ thể này là:
Thể xác và tâm trí của nó: tâm thức liên kết với vật chất.
Thể phách (cơ thể tinh thần) và tâm trí của nó: tâm thức liên kết với cảm xúc. Đây là nơi cư ngụ của prana hoặc Khí. Thật thú vị khi nhận thấy Khí tuân theo định luật vật lý, bởi vì nó kết nối với cả thể xác và thể phách. Giống như chùm ánh sáng của đèn pin, Khí yếu dần qua không gian và thời gian.
Thể nhân quả và tâm trí của nó: ý thức gắn liền với trí tuệ và trí khôn. Đây là nơi trú ngụ của một năng lượng tâm linh cao hơn mà Tiến sĩ Motoyama gọi là “Psi”. Cũng rất thú vị khi nhận thấy rằng các định luật vật lý không ràng buộc Psi vì Psi không chạm vào thể xác. Nó không bị suy yếu qua không gian và thời gian, thay vào đó, nó giống như một tia la-ze hơn, mạnh mẽ ở bất cứ nơi nào nó chiếu tới.
Tiến sĩ Motoyama cho rằng thể xác là Yang so với bản chất Yin của thể phách và thể nhân quả. Chính các luân xa đã liên kết các cơ thể này với nhau và cho phép thông tin cùng năng lượng luân chuyển giữa chúng. Nhờ mối liên kết này mà các yogi qua nhiều thời đại đã có thể làm được những kì tích phi thường. Ví dụ, một vị thầy bị chôn sống nhiều tuần mà không có không khí, thức ăn hay nước uống vẫn có thể tồn tại được nhờ khả năng biến đổi năng lượng của tinh thần thành năng lượng thể chất.
Lợi ích của Pranayama
Các yogi ở Ấn Độ ban đầu chủ yếu quan tâm đến việc giải thoát tâm linh, trong khi vẫn sống trong cơ thể này (Tantra Yoga) hoặc trong một trạng thái không có cơ thể sau khi chết (Yoga cổ điển). Để đạt được sự giải thoát này, phương pháp Tantra hoặc Hatha Yoga đòi hỏi người tập phải thanh lọc và mở những đường dẫn, những nadi và kích thích dòng chảy của prana. Hơi thở là công cụ chính được sử dụng để kích thích dòng chảy năng lượng, trong khi các bài tập thể chất của Hatha Yoga trở thành công cụ chính để loại bỏ bất kỳ vật cản nào trên dòng chảy prana.
Có hai lý do chính để luyện tập yoga từ góc nhìn năng lượng: thứ nhất là kích thích hay kích hoạt dòng chảy năng lượng và thứ hai là loại bỏ những chướng ngại. Điều này tương tự như một vòi nước trong vườn bị bỏ lại ở sân sau trong nhiều năm. Theo thời gian, những khối bùn nhỏ và côn trùng làm tắc nghẽn ống nước. Khi chúng ta sử dụng vòi lại và lần đầu tiên bật nước (tương tự như kích thích dòng chảy của prana) thì không có gì xảy ra. Chúng ta phải tập yoga cho cái ống: chúng ta uốn cong, vặn vẹo để nới lỏng và đẩy các vật cản ra, bật nước, và bây giờ năng lượng đã có thể tự do tuôn chảy. Đây chính xác là những gì chúng ta làm trong thực hành yoga: chúng ta di chuyển cơ thể thông qua thực hành asana và kích hoạt năng lượng thông qua hơi thở của chúng ta.
Các bậc thầy yoga dạy nhiều dạng pranayama khác nhau, và chúng có thể rất nguy hiểm nếu ai đó định tự ý tập thử cho biết.19 Như bất kỳ công cụ nào khác, pranayama có thể bị sử dụng sai: sự hướng dẫn của một bậc thầy có kinh nghiệm là điều cần thiết nếu chúng ta muốn khám phá những pranayama bí truyền hơn, đặc biệt là các phiên bản mang nhiều tính Yang. Tuy nhiên, những bài tập với hơi thở mang tính Yin như được mô tả trong chương 2 có thể đem lại lợi ích to lớn mà các yogi luôn tìm kiếm: một tâm trí an lạc.