Trong chương đầu tiên, chúng ta đã bắt đầu nhìn vào tấm bản đồ Đạo giáo mô tả trải nghiệm của các hành giả Trung Hoa cổ đại. Chúng ta đã thấy, trong năm cách chính để thực hành Đạo giáo, giả kim thuật nội tại đã trở thành pháp môn được các hành giả lựa chọn hòng tìm kiếm sự bất tử về mặt thể chất.20 Một phần chính của thực hành Đạo giáo là kiểm soát năng lượng, tương tự như ở Ấn Độ. Dù mục đích là tương đồng, song quá trình lại khác nhau và các bản đồ do các môn sinh Đạo giáo tạo ra thể hiện các khái niệm cùng cách thực hành khác nhau. Theo thời gian, các bản đồ được các Đạo sĩ phát triển từ xưa trở nên hữu ích đối với các thầy thuốc trong việc điều trị cho bệnh nhân và một nhánh của y học mà ngày nay chúng ta gọi là Y học cổ truyền Trung Hoa đã phát triển cực thịnh.21 Bí quyết để hiểu về y học Trung Hoa và thực hành giả kim thuật nội tại của những Đạo sĩ (cũng như để hiểu những lợi ích dành cho người tập Yin Yoga hiện đại chúng ta) là làm quen với các khái niệm quan trọng được tìm thấy trong các bản đồ của Đạo giáo.
Khí
Trong y học Trung Hoa, có một mô hình cơ thể được sử dụng dựa trên năng lượng và các đường dẫn mà qua đó năng lượng lưu thông để nuôi dưỡng các cơ quan. Giống như prana có nhiều hình thức khác nhau, năng lượng cũng chia làm ba loại chính trong mô hình Trung Hoa: Chi - Khí (còn được gọi là Qi), Jing - Tinh (còn được gọi là Ching) và Shen – Thần. Những đường dẫn này, tương tự như những nadi trong yoga, được gọi là kinh lạc.22 Nếu trong các mô hình của yogi có những trung tâm tâm linh - năng lượng, các luân xa, thì ở các mô hình ở Trung Hoa, các cơ quan là những trung tâm quan trọng để lưu giữ và phân phối năng lượng. Trong các mô hình Trung Hoa, các cơ quan chức năng không nằm giới hạn trong vị trí thể chất như chúng ta vẫn biết ở phương Tây - chúng vận hành trong mọi tế bào của cơ thể.
Khí bắt nguồn từ chữ “hơi thở”, giống như prana hoặc spirit, dùng để chỉ nguồn sinh lực thiết yếu này. Không giống như prana, Khí là một khái niệm rộng hơn nhiều. Nó không chỉ là nguồn sinh lực: Khí là nguồn lực vi tế, bí ẩn dời chuyển cả vũ trụ. Một ý nghĩa của từ này là “thời tiết”. Một ý nghĩa khác là “hơi thở của thiên đường.” Khí là sự rung động của tự thân vũ trụ. Nó được tìm thấy ở khắp mọi nơi, trong tất cả mọi vật dù hữu tri hay vô tri. Nó không hoàn toàn là năng lượng hay vật chất, thay vào đó, nó có thể được coi là năng lượng khi sắp sửa trở thành vật chất hoặc vật chất khi sắp sửa trở thành năng lượng. Khí luôn biến đổi và hiện hữu. Khí không khiến sự vật nảy sinh, vì Khí luôn luôn hiện diện trước, trong và sau bất kỳ thay đổi hay sự kiện nào.23 Khí là thật hay chỉ là một phép ẩn dụ, điều đó không quan trọng: hàng nghìn năm áp dụng y học thành công cho thấy bản đồ này hữu ích như thế nào.
Khi chúng ta nhìn vào quan điểm của Ấn Độ về năng lượng, chúng ta nhận thấy rằng có năm loại prana chính trong cơ thể. Tương tự như thế, các hành giả và thầy thuốc trong Đạo giáo đã phân chia ra năm loại Khí, được biết đến như những thành tố cơ bản. Đó là:
Khí
Huyết
Tinh
Thần
Dịch
Huyết
Huyết chính là thứ ở phương Tây thường xem là máu, nhưng nhiều hơn thế. Huyết di chuyển liên tục khắp cơ thể, chảy trong những mạch máu chúng ta đã quen thuộc ở phương Tây và cả các kinh mạch nữa. Huyết nuôi dưỡng, ấp ủ và cấp ẩm. Huyết là sự bổ sung mang tính Yin cho Khí mang tính Yang. Nơi Khí phấn khích, Huyết vẫn ôn hòa. Nơi Khí xông pha, Huyết vẫn vững chãi.
Tinh
Có rất nhiều lý giải về việc chính xác thì Tinh là gì và đảm nhận chức năng gì. Đôi khi được nhắc đến như chất cốt lõi, Tinh có thể được xem là nền tảng vật chất của cơ thể chúng ta, nuôi dưỡng và thúc đẩy các tế bào của chúng ta. Tinh cũng làm mát cơ thể và do đó, về bản chất mang tính Yin. Tinh kiểm soát chu trình lâu dài của cuộc đời, hơn là những nhịp điệu dồn dập mỗi ngày. Với nguồn cung Tinh dồi dào, càng lớn tuổi chúng ta càng khôn ngoan: không đủ Tinh, quá trình già đi của chúng ta sẽ ít viên mãn hơn và chúng ta giận dữ, phẫn nộ chống lại những thay đổi trong cơ thể của mình.
Trong một định nghĩa của Tinh, người ta lưu ý rằng nó là một dạng của Khí được tìm thấy trong các dịch liên quan đến sinh dục. Một định nghĩa đáng cân nhắc khác: Tinh là nơi chứa bản chất vật lý nguyên sơ của chúng ta. Nó nằm trong DNA, nơi các tế bào được tạo ra. Tinh được lưu trữ trong thận, có trong tinh dịch và dịch kinh nguyệt. Từ Thận, Tinh được phân phối đến tất cả các cơ quan khác để giúp chúng hoạt động bình thường, khỏe mạnh.
Có hai loại Tinh: “tiên thiên” - là Tinh được trao cho chúng ta trước khi sinh ra đời - và “hậu thiên” – là Tinh mà chúng ta hấp thụ được thông qua quá trình sống, ăn uống và tập luyện. Không may là lượng Tinh tiên thiên có sẵn thường cố định và không thể bổ sung thêm. Một khi đã sử dụng hết, cuộc sống sẽ kết thúc. Chỉ việc duy trì sự sống thôi cũng khiến Tinh bị tiêu hao liên tục; tuy nhiên, còn có một số hoạt động tiêu thụ Tinh đặc biệt nhanh: căng thẳng, bệnh tật, quan hệ tình dục quá nhiều hoặc không đúng cách, lạm dụng các chất kích thích. Có một số hoạt động giúp chúng ta phục hồi Tinh, nhưng chỉ Tinh hậu thiên mà thôi.
Hãy nghĩ về Tinh như hai tài khoản ngân hàng: một là một tài khoản tiết kiệm mà bạn không bao giờ có thể bỏ thêm tiền vào được. Tài khoản này được nạp vào khi bạn sinh ra. Tài khoản thứ hai là một tài khoản thanh toán, nơi tiền có thể được rút ra và gửi đi. Khi tài khoản thanh toán bị thấu chi, tiền được chuyển sang tự động từ tài khoản tiết kiệm. Và rồi đến lúc số dư tài khoản tiết kiệm của bạn đạt đến số không! Trò chơi kết thúc.
Bí quyết trường thọ là sử dụng càng ít Tinh tiên thiên càng tốt trong khi tích lũy Tinh hậu thiên thông qua các pháp thực hành Đạo giáo như Khí công, Thái Cực quyền hoặc Yin Yoga. Ngoài những thực hành này, chỉ sống trong chánh niệm thôi cũng sẽ giúp bạn kéo dài tuổi thọ và phát triển trí tuệ: ăn uống lành mạnh, ngủ đủ giấc, gặp gỡ những người truyền cảm hứng và tránh những hoạt động, những cá nhân cùng những thói quen không lành mạnh.
Thần
Thần là một thuật ngữ mang ý nghĩa rộng. Bản dịch tiếng Anh nghèo nàn sẽ dịch là soul (linh hồn). Đôi khi Thần được các Kitô hữu Trung Hoa sử dụng như một từ dành cho Đức Chúa Trời. Thần tương quan ngược lại với Tinh. Thần là hình thức thanh khiết và vi tế nhất của Khí. Thần là sức mạnh bên trong ẩn dưới Khí và Tinh, Thần gắn liền với ý thức. Thần là nhận thức. Nó cũng gắn liền với sáng tạo. Nếu Thần bị suy yếu, một người sẽ phải chịu đựng theo nhiều cách: hay quên, suy nghĩ mơ hồ, mất ngủ hoặc những hành vi thất thường có thể phát sinh.
Dịch
Dịch là tất cả các chất lỏng khác mà chúng ta vẫn chưa bàn đến. Chúng gồm nước bọt, nước tiểu, mồ hôi và tất cả các dịch tiêu hóa. Một số Dịch tối và nặng, trong khi những dịch khác thì nhẹ và trong. Dịch bôi trơn, nuôi dưỡng, bồi bổ cho da, tóc, cơ, khớp, não, các cơ quan, xương và tủy. Dù có liên hệ với Huyết, nhưng các chất Dịch khác không sâu bằng hoặc không quan trọng bằng Huyết.
Các hình thức khác của Khí
Cách thức phân loại trên của Khí không phải là mô hình duy nhất được áp dụng. Một số môn đồ Trung Hoa có cách phân chia khác cho Khí. Cũng như các yogi ở Ấn Độ phát hiện ra 10 loại prana, một số yogi Đạo giáo đã phát hiện ra 32 loại khác nhau của Khí. Khí đã được phân loại là:
Nguyên Khí - Khí căn nguyên được ban cho ta trước khi sinh ra, thúc đẩy các cơ quan Tạng/Phủ của chúng ta.
Cốc Khí - Khí từ thực phẩm, còn gọi là Khí Ngũ cốc.
Không Khí - Khí từ không khí.
Tông Khí - Khí được gom lại, được tạo ra bằng cách kết hợp Cốc Khí và Không Khí. Tông Khí giúp máu tuần hoàn.
Chân Khí - Khí thật được tạo ra từ Tông Khí, khi được kích thích bởi Nguyên Khí. Đây là Khí thường được nhắc tới nhất trong các văn bản.
Dinh Khí - Khí nuôi dưỡng, bồi bổ các cơ quan và tạo máu.
Vệ Khí - Khí bảo hộ, bảo vệ và làm ấm cơ thể.
Khí ở các Cơ quan - mỗi cơ quan đều có dạng Khí riêng của nó.
Địa Khí - Dạng này thường là mối quan tâm chính của Phong Thủy, nghệ thuật sắp đặt nhà cửa theo dòng chảy của Khí trong tự nhiên.
Nhật Khí hoặc Thiên Khí - nguồn năng lượng ta nhận được từ trên cao.
Danh sách này chưa phải là tất cả. Nhiều hình thức ở trên kết hợp với nhau để tạo ra các loại Khí khác. Giống như Tinh, một số lượng Khí nhất định được trao cho chúng ta trước khi ra đời nhưng chúng ta cũng có thể có được nhiều Khí hơn nhờ vào chế độ ăn uống, hơi thở, tập thể dục và thiền định.
Chức năng của Khí
Một nhiệm vụ tối quan trọng của Khí là hỗ trợ chức năng của các cơ quan. Khí giúp tiêu hóa thức ăn, sau đó biến nó thành máu và năng lượng. Khí bảo vệ cơ thể khỏi nhiễm trùng và các mầm bệnh. Khí cũng duy trì nhiệt độ và sự lưu thông của cơ thể; giữ cho các cơ quan ở đúng chỗ, giữ máu trong mạch máu, và kiểm soát việc loại bỏ các chất dư thừa. Khí giúp cho tất cả sự chuyển động và tăng trưởng diễn ra thuận lợi. Khi bị mất cân bằng, nó có thể trở nên thiếu hụt hoặc đình trệ; đây chính là cơ hội cho bệnh tật và đau ốm phát sinh.
Có bốn tình trạng bệnh lý chính của Khí:
Thiếu khí: biểu hiện như khó thở, chóng mặt, mệt mỏi, xanh xao.
Khí chìm: biểu hiện như các cơ quan bị xệ xuống hoặc bị lệch khỏi vị trí.
Khí ứ: biểu hiện dưới nhiều hình thức đau đớn khác nhau.
Khí loạn: biểu hiện như ho, ợ hơi, nôn mửa, hoặc nấc cụt.
Rõ ràng Khí rất quan trọng đối với sức khỏe của chúng ta. Chỉ xét trên lợi ích hoàn toàn đơn thuần, việc học cách thu nạp và tối ưu hóa Khí đúng cách, giữ cho nó mạnh khỏe và linh động sẽ hỗ trợ kéo dài cuộc sống của một người. Nhưng chất lượng của cuộc sống đó phụ thuộc vào các khía cạnh khác của Khí, cũng như sức mạnh của năng lượng Thần (tâm linh) và sức khỏe của các cơ quan.
Để trình bày cặn kẽ những bản đồ năng lượng mà các Đạo sĩ đã tạo ra chắc phải mất vài quyển sách. Chúng ta sẽ tạm ngưng công trình nghiên cứu về các khái niệm trong Đạo giáo về năng lượng và chuyển sang xem xét khái niệm quan trọng tiếp theo, các Cơ quan. Không giống như khái niệm luân xa được phát triển bởi các yogi Ấn Độ và được cho là thuộc về cơ thể vi tế, các Cơ quan là vật chất hữu hình.
Các Cơ Quan
Trong khái niệm của Đạo giáo về các Cơ quan, chúng không chỉ đơn thuần là các thực thể vật lý mà còn là các chức năng. Những chức năng này trải rộng khắp cơ thể, không phải chỉ ở một nơi. Cũng giống như toàn cơ thể cần các chức năng này để duy trì sức khỏe, mỗi tế bào cũng đòi hỏi các chức năng tương tự. Chúng ta không thể nói rằng chỉ có cơ thể cần oxy và loại bỏ chất thải. Chức năng hô hấp (qua Phổi) và loại bỏ (qua Thận) tỏa khắp: Mỗi tế bào trong cơ thể chúng ta đều cần được cho ăn, nuôi dưỡng và loại bỏ chất thải.
Như chúng ta đã thấy, các mô hình y học Trung Hoa thường nhắc đến các Cơ quan bằng cách viết hoa chữ cái đầu để phân biệt mô hình của họ với góc nhìn phương Tây về các cơ quan, được biểu thị bằng chữ thường. Khi bạn thấy từ Trái tim, tức là đang nói đến chức năng của Cơ quan Tim, chứ không phải là cơ quan tim về mặt vật lý, như chúng ta biết ở phương Tây.
Các chức năng của cơ thể được dựa trên năm Cơ quan có cấu tạo rắn, được gọi là tạng. Đó là Trái Tim, Lá lách, Phổi, Thận và Gan. Mọi thứ trong cuộc sống đều cần âm và dương để dung hòa; do đó những Cơ quan tạng có thể rắn và mang tính Yin này có những bản sao nhưng dạng rỗng và mang tính Yang gọi là phủ rỗng, gồm Bàng quang, Túi mật, Ruột non, Dạ dày và Ruột già. Mỗi cặp của các Cơ quan được kết nối thông qua các kinh mạch. Mỗi Cơ quan tạng cũng liên kết với một trong năm yếu tố của vũ trụ Đạo giáo và thông qua những yếu tố này, liên kết với cảm xúc của chúng ta.

Cơ quan Tạng
Đây là những nội tạng của cơ thể, các cơ quan thể rắn lưu trữ năng lượng và dịch lỏng. Những cơ quan này có thể được coi là gần Yin hơn so với các Cơ quan phủ tương ứng do tính rắn của chúng. Các cơ quan Tạng chịu trách nhiệm điều hòa.
Trái tim (và màng ngoài tim)
Trái tim chi phối tất cả các Cơ quan Tạng khác. Tim kiểm soát các hoạt động tinh thần và sự tuần hoàn máu. Nếu Tim có vấn đề thì các dấu hiệu sẽ xuất hiện ở mặt, da và lưỡi. Trong mô hình này, bộ não không phải là thứ điều khiển suy nghĩ của chúng ta. Não đơn giản là nơi mà những suy nghĩ được tiếp nhận và lưu trữ. Sức khỏe tinh thần, khả năng tư duy và khí lực của máu có liên quan trực tiếp đến sức mạnh của Khí ở Tim. Khí yếu ở đây có thể dẫn đến chứng mất ngủ và khó ngủ, gặp ác mộng, tiếp thu chậm và tim đập nhanh. Nếu Tim yếu, chúng ta có thể dễ bị giật mình hoặc hoảng sợ; ngược lại nếu Tim khỏe mạnh, chúng ta có thể dễ dàng cảm nhận được tình yêu thương. Cảm giác yêu thương và được yêu thương có thể tăng cường sức khỏe cho Tim.
Lá lách
Trong y học Trung Hoa, Lá lách là nhân tố thiết yếu cho quá trình tiêu hóa và phân phối dinh dưỡng. Nếu Khí trong Lá lách mạnh thì các chất bổ dưỡng từ thức ăn sẽ được lan rộng khắp cơ thể. Nếu Khí yếu, cơ thể sẽ bị thiếu dinh dưỡng và yếu ớt. Cách phân bố tương tự cũng xảy ra với nước; Lá lách đảm bảo tế bào được hydrat hóa phù hợp và sự giảm thiểu của nước qua thận. Vì thành phần chủ yếu của máu là nước, Lá lách ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của máu. Lá lách cũng điều khiển để đảm bảo các chi hoạt động ổn định và bảo trì các cơ xương. Lá lách ảnh hưởng đến chức năng thần kinh của chúng ta, đặc biệt là ý định, ý chí và nhận thức về khả năng thay đổi.
Lá lách yếu thường có thể biểu hiện ra môi và miệng. Nếu việc nếm thức ăn vẫn ổn thì Lá lách đang hoạt động tốt. Nếu Khí Lá lách yếu, cảm giác lo lắng có thể luôn thường trực trong ta. Lo lắng có thể làm suy yếu Lá lách (và cũng gây ra các vấn đề về Dạ dày).26 Nếu Lá lách mạnh khỏe, chúng ta sẽ có được nguồn lực tuyệt vời cho sự sáng tạo.
Phổi
Phổi kiểm soát Khí (hơi thở), và bởi vì đây là nơi tiếp xúc đầu tiên với những luồng khí từ bên ngoài vào, Phổi phải rất cẩn trọng. Chúng kết hợp với Vệ Khí để đảm bảo không có gì độc hại xâm nhập được vào cơ thể. Phổi giúp kiểm soát nước và dịch. Phù nề (do ngậm nước) có thể xảy ra do Phổi suy yếu.
Chất lượng Khí ở Phổi thường biểu hiện ra da và tóc. Nỗi buồn dai dẳng có thể là dấu hiệu của Phổi suy yếu. Quá đau khổ và u sầu có thể làm suy yếu Phổi: chỉ cần lưu ý chuyện gì xảy ra khi chúng ta buồn và khóc là biết - Phổi đột ngột co thắt lại. Khả năng nhìn nhận và trân trọng vẻ đẹp cho thấy sức khỏe của Phổi. Lưu tâm và thưởng thức cái đẹp giúp Phổi khỏe hơn.
Thận
Thận lưu trữ Tinh. Tại đây tinh túy của cơ thể có thể được chuyển đổi thành Khí Thận, được sử dụng để giúp thận kiểm soát nước. Thận gửi nước sạch, khỏe lên trên để lưu thông trong cơ thể và để cơ thể sử dụng gửi những nước đục bẩn xuống dưới để loại bỏ. Thận cũng điều phối để tối ưu hóa việc sử dụng nước. Bởi vì máu và xương được kết nối mật thiết với nước, nên Thận cũng chịu trách nhiệm về chức năng hoạt động ổn định của chúng. Người ta cho rằng sự quyết tâm được lưu trữ ở Thận, cũng kết nối trực tiếp với sức khỏe và chức năng sinh sản.
Những vấn đề ở Thận có thể biểu hiện ở tai và bộ phận sinh dục. Vấn đề có thể dẫn đến lo âu hoặc cảm xúc sợ hãi phát sinh vào những thời điểm không thích hợp.27 Lo sợ quá độ có thể làm Thận suy yếu, nhưng chúng cũng có thể là nguồn gốc của trí tuệ sâu sắc: Khi Thận hoạt động tốt, chúng ta trưởng thành một cách hết sức dễ chịu.
Gan
Gan là ngôi nhà của Thần – linh hồn. Khi Thần bình ổn thì Gan hoạt động tốt và chúng ta có thể quan sát thế giới xảy ra trong bình thản. Gan có nhiều chức năng sinh lý, nhưng phần lớn là điều chỉnh lượng máu lưu thông. Trong khi Tim có thể quản lý dòng máu, Gan lưu trữ và giải phóng chúng. Vì vậy, Khí Gan quan trọng đối với sức sống của tất cả các bộ phận trên cơ thể.
Sự suy yếu ở gan có thể biểu hiện ở mắt và gân. Đau đầu gối là một dấu hiệu của sự suy yếu, bệnh vàng da là một dấu hiệu khác. Khi Khí Gan yếu, có thể là do chúng ta đang quá giận dữ hoặc khó chịu hoặc phải kìm nén sự giận dữ.28 Vấn đề trong việc quản lý cơn giận có thể dẫn đến các vấn đề ở Gan. Nhưng khi Gan khỏe mạnh, chúng ta cảm thấy dễ dàng đối xử tử tế với người khác và bằng việc tử tế với người khác, chúng ta có thể giúp chữa lành Gan của mình.
Các Cơ quan Phủ
Các Cơ quan Phủ là các Cơ quan thụ thể. Những cơ quan rỗng, mang tính Yang này nhận được dịch và năng lượng từ các đối tác Tạng của chúng. Chúng bài tiết chất thải và nhận, tiêu hóa, hấp thu, truyền dẫn các chất dinh dưỡng. Chúng ta có thể khái quát hóa rằng: Các Cơ quan phủ là cơ quan chuyển hóa và truyền dẫn.
Ruột Non
Bắt cặp với Tim, Ruột non nhận và lưu trữ nước cùng thực phẩm. Như chúng ta đã hiểu ở phương Tây, Ruột non được cho là làm nhiệm vụ tiêu hóa thức ăn, chuyển hóa thành dinh dưỡng và gửi các thành phần không sử dụng được xuống dưới để bài tiết. Một thầy thuốc Trung Hoa sẽ gọi các phân tử để bài tiết là “đục” và các phân tử dinh dưỡng là “sạch”. Nếu chúng ta đang chịu quá nhiều nhiệt hoặc ẩm ướt quá mức, các vấn đề có thể phát sinh trong hệ thống tiết niệu và độ đục sẽ tăng lên.
Dạ Dày
Bắt cặp với Lá lách, Dạ dày nhận và tiêu hóa thức ăn. Nó cũng lưu trữ thức ăn và nước. Nếu Khí yếu, thức ăn ứ đọng và đủ loại vấn đề của tiêu hóa sẽ phát sinh.
Ruột Già
Kết hợp với Phổi, Ruột già cô đặc các chất thải rắn. Cũng giống như Khí ở Phổi kiểm soát nước, Ruột già cũng ảnh hưởng đến nước thông qua khả năng hấp thụ nước. Hấp thụ quá ít thì chúng ta bị tiêu chảy, quá nhiều thì chúng ta bị táo bón.
Bàng Quang
Bắt cặp với Thận, Bàng quang dự trữ và bài tiết nước tiểu. Nếu Khí Thận có vấn đề, có thể biểu hiện thành các triệu chứng như đi tiểu thường xuyên hoặc tiểu đêm nhiều lần.
Túi Mật
Kết hợp với Gan, Túi mật lưu trữ và tiết mật. (Trong y học Trung Hoa, mật được coi là Khí Gan, không phải là sản phẩm phụ trong việc tiêu hóa chất béo của gan như cách hiểu ở phương Tây). Cùng với Gan, Túi mật xây dựng và kiểm soát máu và mức Khí tổng thể. Khi bị suy yếu, Túi mật có thể khiến chúng ta thiếu quyết đoán hoặc chần chừ. Khi khỏe mạnh, Túi mật khiến chúng ta trở nên dứt khoát và kiên quyết.
Phủ Tam Tiêu
Cơ quan này không có khái niệm tương ứng ở phương Tây. Đôi khi được gọi là “Bộ ba Đốt cháy”, chức năng của cơ quan này liên quan đến tiêu hóa và bài tiết nói chung. Có nhiều quan điểm về việc Tam Tiêu là gì và thực hiện chức năng gì, nhưng nó thường được biết đến là có ba chức năng và vị trí tách biệt:
Thượng Tiêu, nằm phía trên cơ hoành, phân phối nước ở dạng sương mù khắp cơ thể, hỗ trợ cho Tim và Phổi;
Trung Tiêu, nằm giữa cơ hoành và rốn, hỗ trợ Dạ dày và Lá lách trong việc tiêu hóa và vận chuyển các chất dinh dưỡng;
Hạ Tiêu, nằm dưới rốn, hỗ trợ Thận và Bàng quang trong vai trò bài tiết.
Ngoài các Tạng và Phủ được liệt kê ở đây, còn có sáu cơ quan hỗn tạp khác trong các mô hình Trung Hoa. Các cơ quan của ý thức này được kết hợp với năng lượng Tinh và bao gồm Não, Tủy Xương, Mạch Máu, Tử Cung, Túi mật (lại nữa!) và các Kinh Mạch, được mô tả ở dưới đây.
Kinh mạch
Meridian (kinh mạch) là để chỉ các kênh truyền năng lượng khắp cơ thể. Các ống dẫn này tạo thành một mạng lưới. Nếu mạng lưới bị gián đoạn, nếu tắc nghẽn xảy ra, cơ thể sẽ không hoạt động đúng cách: nếu Khí, Tinh và Thần không chảy theo đúng yêu cầu, các Cơ quan sẽ không thực hiện được chức năng của chúng và gây ra sự mất cân bằng. Khi các kinh mạch thông suốt và rộng mở, năng lượng chảy tự do và mọi thứ hoạt động ổn thỏa.
Khi chúng ta nhìn vào các đường cao tốc trong cơ thể vi tế từ góc nhìn của yoga, chúng ta khám phá ra rằng những yogi cổ đại đã nhận biết được hàng ngàn của hàng ngàn các đường dẫn riêng lẻ mà họ gọi là nadi. Cả bản đồ của người Ấn và các Đạo sĩ đều cho thấy cơ thể chúng ta đầy rẫy ống dẫn cho các nguồn năng lượng vi tế chảy trong ta.30
Cũng như ở Ấn Độ, các nhà tâm lý Trung Hoa nhận ra rằng không phải tất cả các kênh đều quan trọng như nhau. Ở Trung Hoa, với một mối quan tâm lớn hơn về hạnh phúc thể chất và tuổi thọ, bảy mươi mốt kinh mạch được đặt tên và trong số này, có mười bốn cái là quan trọng nhất.
Mỗi một loại trong mười cơ quan chính đều có kinh mạch liên quan và các kinh mạch có thể là Yin hay Yang tùy thuộc vào bản chất Tạng hoặc Phủ của các cơ quan. Màng tim và Tam Tiêu cũng có kinh mạch liên quan của chúng, cùng với những cái khác, tạo nên mười hai kinh mạch lớn được gọi là Jing Mai. Chúng ta sẽ khám phá thêm hai kênh đáng kể nữa, và nâng tổng số kinh mạch chính lên con số mười bốn.
Chúng ta sẽ giới hạn việc tìm hiểu đối với những kinh mạch lớn này. Có sáu cái bắt đầu hoặc kết thúc ở bàn chân. Tương ứng với vị trí của chúng trong cơ thể, chúng có thể được coi là âm kinh, so với sáu cái khác bắt đầu hoặc kết thúc trong hai bàn tay, có thể được coi là dương kinh. Là âm kinh, nên các bài tập Yin Yoga sẽ ảnh hưởng những phần này nhiều hơn, vốn nằm ở vùng thấp của cơ thể, so với các dương kinh đang nằm ở cao hơn. Chúng ta sẽ bắt đầu việc tìm hiểu từ sáu kinh mạch thấp hơn này.31 Chúng ta sẽ mô tả mỗi kinh mạch như một dòng duy nhất, dù thông thường có hai kinh mạch - một cho mỗi bên cơ thể.
Kinh mạch vùng thân dưới
Sáu kinh mạch này là những kinh mạch được tác động nhiều nhất bởi Yin asana. Điều này chắc chắn không có nghĩa là chúng ta không thể nhấn mạnh vào các kinh mạch khác trong việc luyện tập Yin Yoga; chúng ta có thể và chúng ta đang làm điều đó, nhưng vì Yin Yoga chủ yếu ảnh hưởng đến khu vực từ rốn đến đầu gối, nên sáu kinh mạch ở dưới thường xuyên được nhắm đến hơn.
Kinh mạch ở Gan
Kinh mạch ở Gan bắt đầu bên trong móng ngón chân cái và chạy dọc theo mu bàn chân. Nó leo lên phía trước của mắt cá chân và sau đó chạy lên dọc theo phía trong cẳng chân cho đến khi chạm đến vùng đáy chậu. Từ đây nó tạo thành một đường cong xung quanh cơ quan sinh dục ngoài và đi vào vùng bụng dưới32, nơi nó đi vào gan và Túi mật. Khi dâng cao hơn, nó phân nhánh theo nhiều hướng, với một nhánh kết nối với kinh mạch Phổi. Dâng lên cao hơn nữa, nó theo cổ họng và kết nối với mắt trước khi phân nhánh lần nữa. Một nhánh vươn xuống ngang qua hai má và khoanh tròn quanh môi, trong khi một nhánh cao hơn đi qua trán đến đỉnh đầu, nơi nó liên kết với mạch Đốc.
Cơn đau ở vùng lưng dưới, đau bụng hoặc rối loạn tâm thần có thể là dấu hiệu của sự mất hài hòa ở Gan. Tức giận vô cớ hoặc thường xuyên cũng có thể là dấu hiệu của rối loạn chức năng ở đây.
Kinh mạch ở Túi mật
Kinh mạch ở Túi mật bắt đầu ở đuôi mắt và ngay lập tức chẻ thành hai nhánh. Nhánh chính vẫn còn trên bề mặt và luồn lách qua lại ở một bên đầu và phía trên tai, trước khi quay xuống đi dọc theo cổ. Sau khi đi qua bờ trên vai, nó đi xuống cánh tay và dích dắc dọc theo một bên sườn xuống tới hông. Nhánh kia đi vào trong má và hạ xuống phía gan và Túi mật. Từ đó nó xuống xa hơn và nhập với nhánh đầu tiên ở trước hông. Kinh mạch này sau khi hợp lại tiếp tục đi xuống, chạy dọc theo phía ngoài đùi và đầu gối cho đến khi chạm đến mắt cá chân. Nó chạy qua phần đầu bàn chân cho đến khi chạm đến ngón chân thứ tư. Một nhánh khác rời mắt cá chân để chạy qua mu bàn chân và nhập vào với kinh mạch của Gan ở ngón chân cái.
Đau đầu, mờ mắt và đau dọc cạnh bên của cơ thể bao gồm cả mắt, tai và cổ họng có thể là dấu hiệu của các vấn đề với kinh mạch ở Túi mật.
Kinh mạch Thận
Kinh mạch Thận bắt đầu ở mặt ngoài ngón chân út và ngay lập tức đi xuống dưới lòng bàn chân. Nó theo vòm chân, tạo ra một vòng tròn quanh mắt cá chân trong, chạy xuyên qua gót chân, đi lên dọc theo phần tận trong của chân và vào xương cụt. Nó theo sau cột sống đến thận và sau đó chia nhánh. Một nhánh đi đến Bàng quang, nơi nó trở lại bề mặt của bụng và hướng tới ngực, kết thúc ở xương đòn. Nhánh kia chạm vào gan và cơ hoành, di chuyển qua phổi và cổ họng cho đến khi nó kết thúc bên cạnh gốc lưỡi.
Mất hài hòa ở đây sẽ thể hiện ra vấn đề phụ khoa, rối loạn sinh dục và các vấn đề ở thận, phổi cũng như cổ họng. Những ví dụ có thể bao gồm liệt dương, đi tiểu thường xuyên và suy nhược ở chi dưới. Lo lắng và sợ hãi cũng có thể xảy ra.
Kinh mạch Bàng quang
Kinh mạch Bàng quang bắt đầu từ bên trong mắt và sau đó đi lên qua trán và đến đỉnh đầu. Một nhánh tách ra ở đây, đi vào não và sau đó xuất hiện lại ở xương bả vai, rồi lại chạy ngay bên trong đường thẳng dọc theo cột sống từ xương bả vai xuống mông, nơi nó lại đi vào trong cơ thể và chạy đến Bàng quang và thận. Nhánh thứ hai từ đỉnh đầu chảy xuống sau cổ và vai, đồng thời chạy ngay bên ngoài, song song với nhánh đầu tiên. Nhánh này tiếp tục chạy xuống phía sau của mông và chân, khoanh tròn mắt cá chân ngoài, chạy dọc theo mặt ngoài của bàn chân, kết thúc ở ngón chân út.
Dấu hiệu mất hài hòa trong Bàng quang có thể bao gồm đau lưng, nhức đầu, không có khả năng đi tiểu, các vấn đề về tâm thần và bệnh của chi dưới.
Kinh mạch ở Lá lách
Bắt đầu trong ngón chân cái, kinh mạch Lá Lách chạy dọc theo phía trong bàn chân, sau đó chuyển hướng chạy lên phần trong của mắt cá chân và cẳng chân. Lên đến đầu gối, nó chạy ngay trên kinh mạch Gan, sau đó nó chạy dọc theo đỉnh đùi và đi vào khoang bụng, ngay phía trên xương mu.
Nó kết nối với Lá lách và sau đó là Dạ dày, nơi nó phân nhánh. Nhánh chính lên đến bề mặt, chạy lên ngực đến cổ họng, nơi nó lại đi vào cơ thể, đến gốc lưỡi và tỏa ra. Nhánh thứ hai vẫn chạy bên trong và chạm tới tim, kết nối với kinh mạch Tim.
Dấu hiệu của sự bất ổn ở Lá lách bao gồm các vấn đề về Dạ dày, chướng bụng, nôn mửa và đầy hơi. Lo lắng vô cớ cũng có thể xảy ra.
Kinh mạch ở Dạ dày
Bắt đầu từ cánh mũi, kinh mạch Dạ dày dâng lên đến hốc mắt trước khi hạ dần dọc theo cánh mũi. Nhập vào nướu trên, nó theo sau môi ngoài đến hàm dưới, về phía khớp hàm. Ở đây, một nhánh tiến lên dọc theo mặt trước của tai đến trán. Một nhánh khác đi xuống qua cơ thể đến cơ hoành và chạy đến Dạ dày và Lá lách. Nhánh thứ ba xuất hiện từ hàm dưới và chạy ngang qua phía ngoài cơ thể, băng qua ngực và bụng, cho đến khi nó chấm dứt trong khớp háng. Kinh mạch chạy qua Dạ dày kết nối lại với nhánh thứ ba này và chạy xuống dọc theo mặt trước của chân, đến mu bàn chân. Ở đây nó rẽ nhánh một lần nữa, với nhánh chính kết thúc ở đầu bên ngoài của ngón thứ hai. Nhánh còn lại tới bên trong ngón chân cái. Ngay dưới đầu gối, một nhánh phụ tách ra và chạy tới cạnh bên của ngón chân giữa.
Vấn đề với kinh mạch Dạ dày có thể thể hiện qua các triệu chứng đầy hơi, ói mửa, đau ở bất kỳ khu vực nào mà kinh mạch đi qua (miệng, mũi, răng…) và các vấn đề về tinh thần.
Kinh mạch ở vùng thân trên
Có sáu kinh mạch bắt đầu hoặc kết thúc tại các ngón tay. Tất cả đều đi qua vai hoặc nách. Việc thực hành Yin Yoga thông thường không hướng đến những kinh mạch này một cách cụ thể, nhưng ta có thể tác động đến tất cả các kinh mạch trong một buổi tập Yin Yoga.33
Kinh mạch ở Tim
Ba nhánh của kinh mạch Tim bắt đầu tại trái tim. Một nhánh chạy xuống qua màng ngăn để gặp Ruột non. Một nhánh khác nâng lên dọc theo cổ họng và kết thúc trong mắt. Nhánh thứ ba chạy ngang qua ngực, xuyên qua phổi và đi ra qua nách. Nó chạy dọc theo đường giữa của phần trong phía trên cánh tay, đi qua khuỷu tay bên trong, dọc theo đường giữa của phần trong dưới cánh tay, cho đến khi nó qua cổ tay và lòng bàn tay rồi kết thúc bên trong đầu ngón tay út, nơi nó kết nối với kinh mạch Ruột non.
Những triệu chứng rối loạn của tim và ngực như tim đập nhanh, đau, mất ngủ, đổ mồ hôi ban đêm và các vấn đề về tinh thần có thể báo hiệu những trục trặc ở kinh mạch này.
Kinh mạch Ruột non
Kinh mạch Ruột non bắt đầu ở phía ngoài đầu ngón tay út. Nó chạy dọc theo cạnh sau của bàn tay, qua cổ tay, lên trên dọc theo cẳng tay, phía ngoài tay và cánh tay, đến vai. Sau khi đi vòng quanh đằng sau vai, nó gặp mạch Đốc. Ở đây nó chia nhánh, với một nhánh đi vào bên trong cơ thể và hạ dần xuống qua tim, cơ hoành và Dạ dày trước khi kết thúc trong Ruột non. Một nhánh khác nâng lên dọc theo bên cổ đến má và đuôi mắt, rồi sau đó đi vào tai. Một nhánh nhỏ rời má để chạy đến bên trong mắt, nơi nó gặp kinh mạch Bàng quang.
Sự mất ổn định ở kinh mạch này có thể biểu hiện qua tai, mắt hoặc Dạ dày, đau vùng bụng dưới hoặc đau ở vai hay cổ.
Kinh mạch Phổi
Kinh mạch Phổi bắt đầu bên trong bụng ngay phía trên rốn và kéo dài xuống vùng Ruột già. Từ đây nó đi ngược trở lại thông qua cơ hoành và nối với Dạ dày. Nó đi lên qua phổi, đi theo cổ họng và qua xương đòn trước khi đến mặt trước của vai. Từ đây nó chạy dọc theo mặt trong của bắp tay và mặt trước của cẳng tay. Nó đi qua cổ tay và kết thúc ở đầu ngoài ngón tay cái. Một nhánh nhỏ đi từ cổ tay đến đầu ngón trỏ, nơi nó nối với kinh mạch ở Ruột già.
Các vấn đề về đường hô hấp như ho, hen suyễn và đau ngực có thể là biểu hiện của rối loạn chức năng tại kinh mạch Ruột non. Nỗi buồn hay nỗi đau dai dẳng, cực độ cũng có thể là dấu hiện cho thấy vấn đề ở đây.
Kinh mạch Ruột già
Bắt đầu từ đầu ngón tay trỏ, kinh mạch Ruột Già chạy giữa ngón tay cái và ngón trỏ, dọc theo bên ngoài cánh tay. Nó đi qua mỏm cùng vai và dọc theo mặt sau bả vai để đến cột sống. Ở đây, một nhánh đi qua phổi, cơ hoành và Ruột già. Nhánh thứ hai nâng lên dọc theo cổ, má dưới và đi vào nướu dưới, vòng quanh những chiếc răng dưới. Ở mặt ngoài, kinh mạch này cũng vòng quanh môi trên, chạy qua dưới mũi và nâng lên để gia nhập vào kinh mạch Dạ dày.
Các vấn đề trong miệng, răng, mũi và cổ họng như đau răng và đau họng, cũng như các vấn đề với cổ và vai, có thể cho thấy sự bất ổn tại đây.
Kinh mạch Ngoại Tâm Mạc (màng ngoài tim)
Màng ngoài tim bao phủ trái tim và trong y học Trung Hoa nó được xem là một cơ quan riêng. Kinh mạch Ngoại Tâm Mạc bắt đầu trong ngực và kết nối với màng ngoài tim. Từ đây nó đi xuống ngực, nối ba phần của kinh mạch Tam Tiêu. Một nhánh khác di chuyển theo chiều ngang băng qua ngực, đến bề mặt của xương sườn, đi lên, vòng quanh nách và xuống phần trước của bắp tay hay cẳng tay vào lòng bàn tay, kết thúc ở đầu ngón tay giữa. Một nhánh nhỏ dẫn từ lòng bàn tay đến đầu ngón đeo nhẫn, nơi nó nối với kinh mạch Tam Tiêu.
Đau ở vùng tim, lưu thông máu kém, các vấn đề về Dạ dày và các vấn đề về tâm thần có thể biểu thị sự không hòa hợp ở kinh mạch màng ngoài tim.
Kinh mạch Tam Tiêu
Kinh mạch Tam Tiêu thường được gọi là Bộ ba Đốt cháy hoặc Bộ ba Tiếp lực. Nó bắt đầu ở ngón đeo nhẫn, nơi mà kinh mạch Ngoại Tâm Mạc kết thúc. Nó chạy qua mu bàn tay, cổ tay và cẳng tay. Nó đi qua điểm ngoài của khuỷu tay và mặt sau cánh tay trên tới vai sau. Từ đây nó đi qua vai đến mặt trước của cơ thể và đi vào ngực nằm bên dưới xương ức. Nó chia nhánh, với nhánh chính chạy tới màng ngoài tim và tiếp tục đi qua cơ hoành đến tam tiêu: thượng, trung và hạ. Nhánh thứ hai nâng lên dọc theo bên cổ, vòng quanh mặt sau tai và sau đó vòng quanh cạnh bên của mặt. Một nhánh nhỏ khác xuất hiện từ phía sau tai và nối với kinh mạch Túi mật ở đuôi mắt.
Các vấn đề liên quan đến kinh tuyến này có thể xảy ra ở phần bên của mặt, cổ hay cổ họng, hoặc ở vùng bụng. Những ví dụ bao gồm điếc, âm thanh trong màng nhĩ, đầy hơi và những khó khăn trong vấn đề tiết niệu.
Những kinh mạch bổ sung
Hệ thống kinh mạch được tạo thành từ các đường nối năm cơ quan Yin và sáu cơ quan Yang, cộng với màng ngoài tim. Ngoài mười hai kinh mạch đó, có tám kinh mạch bổ sung mà một thầy thuốc Trung Hoa phải biết. Chúng ta sẽ xem qua hai kinh mạch quan trọng nhất: mạch Đốc và mạch Nhâm. Chúng được cho là quan trọng vì có các huyệt đạo riêng tách biệt với những điểm của cả mười hai kinh mạch chính. Tất cả các kinh mạch phụ khác đều có những huyệt chung với các kinh mạch chính.
Mạch Đốc
Mạch Đốc bắt đầu trong bụng dưới và chia thành ba nhánh. Hai nhánh nhỏ hơn nâng lên để kết nối với mỗi quả thận. Nhánh thứ ba và cũng là nhánh chính hạ xuống đáy chậu, nơi nó đi vào đầu của dây cột sống và đi lên đến não. Nhánh này đi qua đỉnh của hộp sọ, xuống giữa trán và mũi rồi chấm dứt trong nướu trên. Tiến sĩ Motoyama khuyên ta nên dùng thực hành Nadi Shodhana để thanh lọc kinh mạch này.34
Mạch Nhâm
Kinh mạch này cũng bắt đầu ở bụng dưới, bên cạnh mạch Đốc. Nó chỉ có một nhánh và cũng đi xuống đáy chậu. Nổi lên từ luân xa muladhara, nó chạy dọc theo đường giữa, nằm phía trước của cơ thể, qua cổ và cằm vào miệng. Tại miệng nó chia nhánh và đi quanh môi trước khi chạm vào hai mắt dưới.
Mạch Đốc và mạch Nhâm chạy dọc theo mặt trước và mặt sau của thân người. Những kinh mạch này cũng chứa mặt trước và mặt sau của mỗi luân xa. Khi chúng ta thở và rút năng lượng lên dọc theo mạch Đốc và xuống dọc theo mạch Nhâm, chúng ta đang hoàn thành quỹ đạo vi mô.
Châm cứu và bấm huyệt
Các đường kinh mạch mà chúng ta vừa nghiên cứu đi dọc theo bề mặt của cơ thể và cũng đi sâu vào bên trong. Các đường nằm bên trong quan trọng hơn so với các đường bên ngoài, nhưng dọc theo các đường bên ngoài cũng có những vị trí đặc biệt, được gọi là các huyệt vị, nơi nếu nhận được kích thích sẽ gia tăng hoặc tăng cường dòng chảy của các kết cấu khác nhau thông qua kinh mạch. Có hai cách chúng ta có thể kích thích những điểm này, đó là châm cứu và bấm huyệt.
Việc thực hành châm cứu có nguồn gốc hơn 2000 năm trước. Trong khi nhiều nền văn hóa lớn sử dụng mát-xa, động tác thở, tập thể dục, thảo dược đặc biệt và phương pháp ăn uống để tăng cường sức khỏe cũng như tuổi thọ, các môn sinh Đạo giáo là những người duy nhất sử dụng kim châm. Những chiếc kim châm đầu tiên có thể làm bằng xương hoặc tre, nhưng không mất quá lâu để kim loại trở nên thịnh hành, với bạc và vàng là những chất liệu được yêu thích nhất. Trong thời hiện đại, người ta thường sử dụng thép không gỉ dùng một lần.
Độ sâu mà kim châm được cắm vào phụ thuộc vào vị trí mà chúng đang được sử dụng: Một vài mm có thể là đủ đối với tay, nhưng có thể sâu 5 đến 8 cm đối với vùng mông. Thường thì trong một lần châm cứu phải sử dụng khoảng hơn 12 chiếc kim. Đôi khi kim chỉ được cắm vào một cách nhẹ nhàng và những lúc khác chúng được lắc nhẹ hoặc hơ nóng. Thông thường người được châm cứu sẽ cảm thấy đau âm ỉ: Việc này cho thấy rằng các kim châm đang thực sự phát huy tác dụng. Điều chúng đang làm là giúp cân bằng lại năng lượng: Cái gì đang trì trệ thì sẽ được lưu thông, cái gì bị thiếu hụt thì sẽ được bổ sung thêm, cái gì đang lạnh thì sẽ được sưởi ấm. Khí và Huyết sẽ được tác động và từ đó tất cả các kết cấu của cơ thể sẽ được tác động. Mỗi kinh mạch có các huyệt vị sẽ liên quan đến một cặp Cơ quan cụ thể, vì vậy các Cơ quan này cũng sẽ được hưởng lợi từ quá trình châm cứu.
Có nhiều cách khác để kích thích dòng chảy của năng lượng, như chúng ta đã thấy trong phần chuyển động năng lượng ở chương 2. Trong thực hành Yin Yoga, chúng ta kích thích dòng chảy của Khí thông qua bấm huyệt. Dù không chính xác là châm cứu, chỉ đơn giản là xoa bóp, nén hoặc kéo dài các mô nằm dọc theo đường kinh mạch, chúng ta cũng có thể kích thích dòng năng lượng và cân bằng lại toàn bộ hệ thống của mình. Ví dụ, nếu chúng ta cảm giác giật mạnh dọc theo vùng háng trong khi ở tư thế Giạng Chân, điều đó chứng tỏ ta đang kích thích kinh mạch Gan và Thận. Nếu chúng ta cảm nhận cơn giật dọc theo phần ngoài của hông trong Thiên Nga toàn phần và cảm giác nén dọc theo vùng lưng dưới do những động tác uốn người về phía sau, nghĩa là kinh mạch Bàng quang và Túi mật đang được kích thích.
Nhìn chung, mỗi khi chúng ta vào một tư thế Yin Yoga, chúng ta nên chú ý đến vị trí mà chúng ta đang cảm thấy căng. Kiểm tra lại ở trên để xem các đường kinh mạch nào đang chạy dọc theo các khu vực có áp lực đáng kể và bạn sẽ khám phá ra bạn đang kích thích những kinh mạch nào. Bạn sẽ thấy rằng chúng ta thường kích thích nhiều kinh mạch cùng một lúc. Cũng nên nhớ rằng các đường kinh mạch nuôi dưỡng nhiều hơn một Cơ quan: Kích thích Túi mật ở tư thế Thiên Nga cũng có lợi cho Gan. Và bất cứ lúc nào chúng ta kích thích Thận - nơi cư ngụ của Tinh, chúng ta sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các Cơ Quan khác.
Nếu bạn cảm nhận được có nghĩa là bạn đang luyện tập! Bây giờ, chỉ cần để ý đến nơi bạn đang cảm nhận được mà thôi.
Cảm xúc
Đôi khi những gì chúng ta cảm thấy không chỉ là cảm giác vật lý trong cơ thể, mà là những cảm xúc tinh thần mạnh mẽ. Những yogi Đạo giáo nhận thấy rằng cảm xúc biểu hiện trong cơ thể. Các yogi hiện đại đã nhận thấy điều tương tự và đặt ra thuật ngữ “các vấn đề trong mô”. Các Cơ Quan của chúng ta là ngôi nhà của cảm xúc: Trái Tim chứa đựng tình yêu và sự phấn khởi; Gan chứa đựng sự tử tế và giận dữ. Thận có thể là nguồn gốc của sợ hãi hoặc cội nguồn của trí tuệ. Mỗi Cơ quan không chỉ chứa những cảm xúc nhất định mà cảm xúc của chúng ta cũng có thể ảnh hưởng đến các cơ quan liên quan. Quá nhiều sự sợ hãi có thể làm cạn kiệt năng lượng trong Thận (Tinh). Ngược lại, nếu chúng ta có quá ít Tinh, chúng ta có thể trở nên dễ sợ hãi.
Các yogi Ấn Độ nhận thấy sự tương quan giữa cơ thể và trái tim. Đừng ngạc nhiên nếu trong lần tập Yin Yoga sâu, cảm xúc bắt đầu trỗi dậy. Đây là một phần của việc thực hành. Cũng giống như chúng ta có thể có các mô sẹo vật lý cần phải được phá vỡ, chúng ta cũng có thể có mô sẹo cảm xúc cần vượt qua. Những động tác mở rộng hông sẽ thường gợi ra cảm giác thất vọng, khó chịu và giận dữ. Những động tác mở rộng hông có khuynh hướng xoa bóp kinh mạch Túi mật và bạn đồng hành của nó là Gan - nơi chứa sự tức giận và thất vọng.
Những động tác uốn sâu lưng ngược về phía sau có thể tạo ra cảm giác sợ hãi hoặc lo lắng: Ở đây chúng ta đang tác động sâu vào Thận, ngôi nhà của sự sợ hãi và trí tuệ. Nếu bạn có thể thừa nhận nỗi sợ của mình, trí tuệ sẽ phát triển. Nếu bạn có thể sống chung với giận dữ, tử tế sẽ đơm hoa.
Nếu bạn đang phải trải qua một khoảng thời gian khó khăn về cảm xúc, bạn có thể muốn xây dựng việc thực hành yoga của mình để tác động lên các đường kinh mạch hỗ trợ các Cơ quan nuôi dưỡng cảm xúc đó. Sầu khổ và buồn rầu, nằm trong Phổi, có thể được hỗ trợ bằng cách tác động lên kinh mạch Phổi thông qua việc luyện tập phần trên cơ thể, đặc biệt là cánh tay và vai. Lo lắng có thể được kiểm soát bằng cách tác động lên các kinh mạch Dạ dày và Lá lách qua những động tác căng sâu ở đùi và mặt trước của thân.
Hãy nhớ nhẹ nhàng và thoải mái với các giới hạn của bạn: Đừng đẩy quá xa, quá nhanh. Nếu bạn chưa sẵn sàng cho việc giải tỏa cảm xúc, đừng ép buộc nó. Đợi trái tim mở ra từ từ theo thời gian. Nếu cảm xúc vẫn trong tầm kiểm soát, hãy cho phép nó thấm đẫm vào tâm hồn bạn. Chúng ta không cần phải phản ứng lại cảm xúc nảy sinh trong quá trình tập luyện, chúng ta chỉ cần nhận biết chúng. Thừa nhận những gì bạn đang cảm thấy và hãy tìm hiểu thêm về nó. Yin là sự cho phép: Cho phép những gì xuất hiện được phép tồn tại ở đó mà không cần chạy trốn khỏi nó hoặc cố gắng thay đổi nó - nếu đó là phản ứng phù hợp.
Nếu chúng ta chữa lành cơ thể, chúng ta cũng chữa lành cho trái tim. Mất cân bằng cảm xúc có thể được giải quyết thông qua tập luyện, từ đó có thể chữa trị một số tình trạng mất cân bằng về mặt sinh lý. Bản đồ Đạo giáo giải thích về điều này như sau: Cảm xúc của chúng ta bắt nguồn từ các cơ quan và các cơ quan của chúng ta ảnh hưởng đến cảm xúc. Những gì chúng ta làm cho cơ quan này cũng là làm cho cả những cơ quan khác. Yin Yoga tác động lên tổng thể của mỗi người: cơ thể, trái tim, tâm trí và linh hồn.