• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Yin Yoga
  3. Trang 72

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 71
  • 72
  • 73
  • More pages
  • 75
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 71
  • 72
  • 73
  • More pages
  • 75
  • Sau

Góc nhìn của phương Tây

Ở Ấn Độ, các nhà hiền triết yoga quan sát mười dạng prana thông qua trải nghiệm chủ quan. Ở Trung Hoa, tín đồ Đạo giáo đã lập bản đồ ba mươi hai hình thức của Khí. Một số nhà tiên tri biết qua trực giác số lượng thậm chí còn nhiều hơn số này. Đối với cách tư duy ở phương Tây, những tuyên bố chủ quan này nghe có vẻ kỳ lạ và không được chứng minh bởi những nghiên cứu khách quan. Khi được hỏi, hầu hết người phương Tây sẽ nói rằng cơ thể chúng ta sử dụng hai loại năng lượng: hóa học và điện. Đúng là vậy! Nhưng đó có thực sự là tất cả?

Năng lượng hóa học được truyền qua hệ thống mạch máu. Năng lượng điện được truyền qua hệ thần kinh. Đây là hai hệ thống trao đổi tuyệt vời mà chúng ta biết, nhưng hãy xem xét một con amip nguyên sinh: nó không có hệ thống mạch máu bên trong nhưng nếu nó bị thương, nó sẽ tự chữa lành. Một loại động vật nguyên sinh, giống như bọt biển (hải miên), sẽ tự chữa lành mặc dù nó không có hệ thần kinh trung ương. Rõ ràng, rất lâu trước khi có hệ thống mạch máu và hệ thần kinh, việc trao đổi và chữa lành đã có thể xảy ra trong cơ thể. Có nhiều thứ xảy ra trong cơ thể chúng ta hơn là những gì được thể hiện trong các mô hình phương Tây. May mắn thay, nhiều nhà nghiên cứu đang làm việc cần mẫn để mở rộng tấm bản đồ này, để bao hàm cả các tính năng năng lượng mà các yogi ở phương Đông có thể đã mô tả.

Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét một số phát hiện mới trong một lĩnh vực được gọi là Y học Năng lượng. Chúng ta sẽ bắt đầu với một lớp vỡ lòng ngắn gọn về điện và từ tính.

Mô hình mới

Tình trạng viên mãn về sức khỏe đòi hỏi trao đổi nội bộ và khả năng lưu chuyển các chất. Các tế bào của cơ thể cần phải giao tiếp với nhau. Khi quá trình liên lạc này gặp trục trặc, chúng ta không thể giữ được sự toàn vẹn. Điều tương tự cũng được áp dụng với việc vận chuyển năng lượng và vật chất trong cơ thể. Hãy xem xét ví dụ về một thành phố khi bị mất điện. Khi điện bị ngắt, giao thông sẽ đình trệ, truyền thông bị nghẽn lại và thành phố ngừng hoạt động. Thân thể cũng tương tự như thế; chúng ta cần thông tin và năng lượng tuôn chảy, cho dù đây là thông tin hóa học dưới dạng các chất di chuyển từ vùng này sang vùng khác hay các thông tin xung điện thông báo cho một khu vực những gì đang xảy ra ở một khu vực khác. Theo mô hình này, sức khỏe yếu có thể được xem là một sự thất bại trong mạng lưới thông tin và vận chuyển của cơ thể.

Trong hơn năm trăm triệu năm, sự sống phức tạp đã tiến hóa và tìm cách để cải thiện khả năng giao tiếp, vận chuyển thông tin cũng như năng lượng trong cơ thể. Sau những phép thử và sai sót, sự sống đã tìm ra các cách để làm điều này ngày một tốt hơn - có nghĩa là nhanh hơn, chính xác hơn, với các hệ thống dự phòng trong trường hợp bất trắc. Mẹ Thiên Nhiên và các định luật vật lý của bà cung cấp nhiều phương pháp để có thể lựa chọn. Các hình thức thành công nhất của sự sống sẽ tự nhiên áp dụng những lựa chọn này nhiều nhất có thể.

Các dạng sống đa bào sớm nhất sử dụng các phương tiện hóa học để giao tiếp. Vật chất đã được chuyển một cách vật lý từ tế bào này sang tế bào khác. Sau đó, ống dẫn được tạo ra, mà ở đó những chất này có thể đi xa hơn, nhanh hơn và chắc chắn hơn. Những ống dẫn này phát triển thành hệ thống mạch máu của chúng ta. Hệ thần kinh phát triển theo cách tương tự.

Một mô hình mới đang phát triển ở phương Tây, mô hình này mở rộng phạm vi của các cơ chế vận chuyển thông tin cũng như năng lượng vượt xa các mô hình hóa học và điện đơn giản. Mô hình mới này bao gồm nhiều dạng thức trao đổi và di chuyển năng lượng khác, được đề xướng bởi các bác sĩ ở nhiều thế kỉ trước.35 Với các công cụ hiện đại, nhạy bén, có khả năng phát hiện các mức năng lượng rất nhỏ, chúng ta có thể kiểm tra các mô hình mới này. Chúng ta sẽ khám phá chỉ một vài trong số những mô hình mới, và hãy bắt đầu với điện sinh học - điện của cơ thể.

Điện sinh học

Bạn có để ý những đôi giày của trẻ em sáng lên khi chúng chạy không? Bọn trẻ thích những ánh sáng nhấp nháy trên giày và cha mẹ chúng lại thích thực tế là mấy cái đèn này sáng mà không cần pin. Điện phát ra từ đâu để làm sáng đèn? Câu trả lời là áp điện - điện được tạo ra bởi áp lực. Từ này xuất phát từ từ piezein của Hy Lạp, có nghĩa là ép hoặc nén. Có điện mà không cần đến pin.36

a121

Một số loại tinh thể nhất định, khi bị ép buộc chịu một áp lực làm biến dạng, sẽ tạo ra các điện trường hoặc gây ra dòng điện. Điều ngược lại cũng có thể xảy ra: Khi một trường điện được áp dụng cho các tinh thể này, chúng sẽ uốn cong để phản ứng lại - trường điện càng mạnh thì sự biến dạng càng lớn, áp lực càng lớn thì điện trường càng mạnh.

Những tinh thể áp điện không cần sạc điện. Khi chúng quay về hình dạng gốc của chúng, năng lượng tiềm năng kết thúc, và khi chúng bị biến dạng một lần nữa, điện trường được tái sinh. Khả năng tuyệt vời này của một số tinh thể đã được khai thác trong nhiều công nghệ hiện nay. Từ những ánh sáng trong giày đến những bật lửa dùng trong các bữa tiệc nướng ngoài trời, micro điện và hệ thống năng lượng mặt trời – áp điện, đều đã trở nên phổ biến.

Tinh thể là một chuỗi các phân tử được cấu trúc lặp đi lặp lại xuyên suốt vật chất đó. Điều thường bị bỏ qua là các mô trong cơ thể của chúng ta cũng được sắp xếp theo những mô hình được cấu trúc, lặp đi lặp lại. Các phân tử của cơ bắp, xương, mắt, màng tế bào, collagen, elastin, thậm chí cả DNA, tất cả đều có cấu trúc giống như tinh thể.

Trong những cuốn sách tuyệt vời tóm tắt các nghiên cứu khoa học và y học năng lượng của James Oschman, ông cho rằng các mô sống của cơ thể chúng ta giống các tinh thể lỏng, vật liệu có dạng trung gian giữa chất rắn và chất lỏng, biểu hiện những thuộc tính của cả hai.37 Ông giải thích rằng, cơ thể hầu hết là các vật chất được sắp xếp theo dạng tinh thể lỏng và trích dẫn một số nghiên cứu xác nhận mô hình này.

Khi các mô tinh thể lỏng của chúng ta chịu căng thẳng biến dạng, chúng tạo ra năng lượng áp điện và các dòng điện nhỏ. Giống như trong những đôi giày cho trẻ em, mọi động tác chúng ta thực hiện, mỗi hơi thở chúng ta thực hiện (chế theo lời bài hát của Sting), tạo ra những dòng năng lượng nhỏ.

Nếu trước đây chúng ta cho rằng những năng lượng áp điện mà chúng ta đang nói đến sẽ giúp di chuyển vật chất trong cơ thể hoặc ảnh hưởng to lớn đến chúng ta, thì chúng ta hoàn toàn đúng khi nghĩ rằng chúng không có cơ hội ảnh hưởng đến ta. Nhưng hãy xem xét phép ẩn dụ này: Bạn đang nấu một con gà-tây lớn cho Lễ Tạ Ơn (hoặc đối với yogi ăn chay là một phần Đậu-hủ-tây). Bạn cần làm nóng lò nướng trước, nhưng bạn không biết nên đặt nhiệt độ cao bao nhiêu. Bạn gọi điện thoại cho mẹ và bà bảo bạn thử 400 độ Fahrenheit. Điện thoại di động tiêu thụ một lượng điện rất nhỏ, có thể cỡ 50 milliwatts. Lò tạo ra rất nhiều nhiệt và cần 1000 watt điện năng để hoạt động bình thường.38 Và trước khi dòng điện nhỏ trong điện thoại di động cung cấp cho bạn thông tin bạn cần, tất cả sức mạnh trong lò đều nằm im. Chắc chắn điện thoại di động không có khả năng cấp điện cho lò nướng. Nhưng nếu không có trí thông minh của điện thoại di động, sức mạnh trong lò sẽ không bao giờ được kích hoạt. Một lượng nhỏ thông tin có thể tạo ra những thay đổi lớn. Và lượng thông tin nhỏ này đòi hỏi rất ít năng lượng so với hiệu ứng lớn mà nó kích thích.

Nếu cơ thể của chúng ta có thể được coi là tinh thể lỏng, và nếu ngay cả những chuyển động nhỏ tạo ra điện trường và dòng điện, điều này có thể tạo cơ sở cho các mô hình khoa học về vận chuyển thông tin và năng lượng ngoài cơ chế hóa học hoặc điện thuần túy, vốn chỉ phụ thuộc vào hệ thần kinh và hệ tuần hoàn. Với những mô hình như vậy, chúng ta có thể bắt đầu xem xét cách mà các phương thức vận động cơ thể như yoga và mát-xa có thể ảnh hưởng đến hoạt động cơ thể và sức khỏe của chúng ta.

Điện sinh học và xương

Chúng ta đã thấy rằng Yin Yoga có thể chống lại thoái hóa xương. Mô xương là một trong nhiều mô được cấu trúc theo dạng chuỗi tinh thể. Khi chúng ta tạo áp lực lên xương, chúng ta tạo ra các dòng điện áp nhỏ lên bản thân chiếc xương đó. Dòng điện này báo hiệu cho các tế bào bên trong xương và ảnh hưởng đến hành vi của chúng. Có những tế bào trong xương có nhiệm vụ tạo ra xương mới, được gọi là nguyên bào xương, và có những tế bào có công việc là làm sạch xương cũ, được gọi là hủy cốt bào. Nếu chúng ta chủ động tạo áp lực lên xương, thông qua yoga, đi bộ, hoặc các bài tập chịu lực khác, chúng ta đang lệnh cho các hủy cốt bào làm chậm quá trình hủy xương lại, cho phép các nguyên bào xương tiếp tục tạo xương mới, làm cho xương của chúng ta dày hơn và khỏe hơn. Nếu không có áp lực tác động lên, chúng sẽ trở nên mục rỗng bởi hoạt động liên tục của các hủy cốt bào. Chúng ta cần phải tạo áp lực lên xương để tạo ra dòng điện làm chậm quá trình thoái hóa xương.

Điều này không chỉ xảy ra bên trong xương của chúng ta: những dòng áp điện này xảy ra khắp cơ thể, điều phối các tế bào để chúng trở nên bận rộn hoặc chậm lại. Một dạng tín hiệu điện khác, một lần nữa xảy ra bên ngoài hệ thần kinh trung ương của chúng ta, là hiện tượng dòng điện chữa lành. Đây là một dòng điện nhỏ được tạo ra trong các mô của chúng ta khi chúng bị hỏng và được sử dụng để báo hiệu cho các tế bào khác rằng mô đó đang cần giúp đỡ. Dòng điện này không truyền qua hệ thần kinh nhưng nó có thể thu hút các tế bào miễn dịch, nguyên bào sợi và các tế bào khác cần thiết để chữa lành vết thương. Khi việc chữa lành hoàn tất, dòng điện chấm dứt.

Điện từ

Có hai loại nam châm cơ bản: nam châm vĩnh cửu và nam châm điện. Nam châm vĩnh cửu đã rất quen thuộc với mọi người bởi đó chính là kiểu nam châm gắn vào cửa tủ lạnh. Nam châm điện chỉ có từ trường khi có dòng điện. Khi chúng ta truyền dòng điện qua một dây dẫn, từ trường được tạo ra xung quanh dây. Nếu chúng ta đảo ngược hướng của dòng điện, hướng của từ trường cũng sẽ đảo ngược.

Một electron chuyển động tạo ra cả điện trường và từ trường. Do đó, ta nên xem xét các điện trường và từ trường là các khía cạnh của một loại trường tổng quát hơn, được gọi là điện từ trường. Khi chúng ta sử dụng thuật ngữ này, chúng ta đang đề cập đến một trong hai hoặc cả hai: điện và từ trường. Có các điện từ trường tự nhiên và các điện từ trường nhân tạo. Trái đất có một điện từ trường rất lớn so với các trường bên trong cơ thể chúng ta. Các trường của trái đất phát sinh từ nhiều nguồn bao gồm sét, tạo ra trường điện từ thậm chí còn mạnh hơn cả trái đất nhưng chỉ kéo dài trong một thời gian rất ngắn. Các dây điện bên ngoài và bên trong nhà của bạn đều có các trường điện từ riêng của chúng. Điện từ trường cũng phát sinh từ nam châm tủ lạnh và loa của chiếc máy hát. Những trường trong các hộ gia đình này mạnh hơn nhiều so với điện từ trường của trái đất, nhưng không lan tỏa rộng khắp như Trái Đất.

Tim của chúng ta có một dòng điện để điều hòa chúng, cũng như một trường điện từ. Độ lớn của từ trường ở trái tim chúng ta nhỏ hơn một triệu lần so với từ trường của trái đất và nó cũng có thể thay đổi từ người sang người cũng như thay đổi theo thời gian ở cùng một người. Mặc dù yếu nhưng trường điện từ của tim có thể đo lường được. Điện tâm đồ (ECG) được sử dụng để đo lực điện tại các vị trí khác nhau trên khắp cơ thể.39 Não của chúng ta cũng là một nguồn hoạt động điện và có thể đo lường được. Từ trường của não yếu hơn khoảng một nghìn lần so với trái tim và sau khi phát hiện ra trường ở tim, rất lâu sau người ta mới phát hiện ra nó.

Bất kỳ electron nào đang chuyển động sẽ làm phát sinh điện từ trường. Vậy còn những trường điện áp nhỏ được thảo luận trong phần trước thì sao? Chúng có tạo ra trường điện từ không, và nếu có, chúng có thể đo được không? Những trường vi mô này, cho đến gần đây, dù quá nhỏ để có thể được phát hiện có thực sự tồn tại hay không và các trường điện từ liên quan của chúng đã được đo lường, nhờ sự phát minh của một thiết bị nghe tên rất thú vị là SQUID.40 Được John Zimmerman phát minh ra vào đầu những năm 1970, một SQUID cho phép những từ kế phát hiện các trường điện từ rất nhỏ. Zimmerman, và những người khác sau ông, đã có thể phát hiện sự gia tăng trong trường điện từ khi tiếp xúc trị liệu với bàn tay của một chuyên gia. Việc nghiên cứu về các trường điện từ được phát sinh này được gọi là điện từ sinh học.

Điện từ sinh học

Máu của chúng ta chủ yếu là nước với rất nhiều muối và khoáng chất hòa tan trong đó. Nước bão hòa như thế hóa ra lại là một chất dẫn tuyệt vời cho điện. Vậy nên không có gì phải ngạc nhiên khi một điện tâm đồ sẽ nhận tín hiệu từ trái tim qua khắp cơ thể: Điện trường được dẫn truyền qua hệ thống máu. Điện trường của trái tim chạm vào mọi phần của chúng ta và từ trường của nó cũng lan tỏa rộng khắp như vậy. Các tín hiệu từ trái tim được suy đoán là đã gửi thông tin xuyên suốt ma trận của chúng ta. Tim không chỉ là một cái bơm: Nó là trung tâm của một hệ thống truyền tin, có thể cho toàn bộ cơ thể biết điều gì đang xảy ra.

Thật không may, trong các mô hình y tế tiêu chuẩn trước đó, sự hiện diện của các điện trường trong cơ thể chỉ hữu dụng như một công cụ chẩn đoán. Những mô hình này không thể dự đoán bất kỳ quá trình điều trị nào mà có thể sử dụng các điện trường hoặc từ trường của cơ thể. Như chúng ta sẽ thấy, các y bác sĩ sau này đã sử dụng kiến thức trên để giúp ích cho việc điều trị.

Đến giờ, chúng ta đã thảo luận việc một điện tử chuyển động có thể làm phát sinh từ trường như thế nào. Điều ngược lại cũng đúng. Một từ trường chuyển động có thể tạo ra dòng điện. Đây là cách một máy phát điện hoạt động: Một nam châm được đặt trong một cuộn dây dẫn. Khi nam châm quay, điện được tạo ra. Ngược lại, nếu điện chạy qua cuộn dây thì nam châm quay, đó là cơ sở cho động cơ điện. Cơ thể chúng ta không chỉ có thể tạo ra từ trường, chúng cũng có thể bị ảnh hưởng bởi từ trường.

Sau khi phát minh ra SQUID, John Zimmerman đã bắt đầu một số nghiên cứu thú vị về từ trường của các nhà trị liệu cảm ứng. Một nghiên cứu tương tự nhưng chi tiết hơn sau này được thực hiện ở Nhật Bản.42 Nghiên cứu của Nhật Bản bao gồm không chỉ các nhà trị liệu mà còn cả những bậc thầy về Khí công, thiền sư, hành giả và thiền sinh. Kết quả của những nghiên cứu này cho thấy một chuyên gia điều trị cảm ứng có thể tỏa ra từ hai bàn tay của cô ấy một từ trường mạnh gấp 100 đến 1000 lần so với trường của trái tim chúng ta. Các nghiên cứu cũng cho thấy các từ trường đang dao động ở các tần số thấp, dao động từ 0,3–30 Hz. Hầu hết các tần số của từ trường tập trung vào khoảng 7-8 Hz nhưng các trường liên tục kéo dài dải tần số. Tất nhiên, các nhà trị liệu không biết họ đang làm gì, họ chỉ đang làm việc của mình.44

Chữa bệnh với điện từ trường sinh học

Tất cả những thứ này thật hấp dẫn, nhưng tại sao nó lại quan trọng đến vậy? Kể từ đầu những năm 1800, các nhà khoa học và các bác sĩ đã thử nghiệm các lợi ích có thể có của từ trường cho việc điều trị. Vào cuối những năm 1800, khi y học được tiêu chuẩn hóa, những nghiên cứu này đã bị ngừng lại. Tuy nhiên, gần đây, chúng đã được tiến hành lại. Các phát hiện của những nhà nghiên cứu hiện đại đã chứng minh được niềm tin trước đây rằng, từ tính có thể giúp mọi người hồi phục trong những trường hợp nhất định. Một liệu pháp được gọi là liệu pháp bắt mạch theo điện từ trường (Pulsed electromagnetic field - PEMF).

Nó hoạt động như thế này: Thỉnh thoảng, khi ai đó bị gãy xương, xương không tự lành lại được. Các bác sĩ cố định xương, có lẽ dùng đến bó bột, nhưng sau vài tháng, xương vẫn bị rạn. Sau vài năm, nó lại gãy! Điều này được gọi là gãy xương không liền lại được. Cơ chế sửa chữa trong cơ thể đã gặp vấn đề nào đó. Các thông tin cần thiết để chữa lành vết rạn xương không đến được các mô chịu trách nhiệm sửa chữa những vết rạn này. Ngày nay, nhiều bác sĩ biết rằng PEMF có thể giúp ích. Một máy phát điện từ trường được đặt xung quanh xương gãy và một từ trường dao động được áp dụng trong tám đến mười giờ mỗi ngày. Các xét nghiệm lâm sàng đã chỉ ra rằng ngay cả đối với những xương bị gãy trong bốn mươi năm mà vẫn chưa được chữa lành, vẫn có thể được chữa lành bằng kỹ thuật này.45

Tần số của từ trường áp dụng cho xương bị gãy là 7 Hz. Tần số chữa bệnh này được gọi là “Tần số cửa sổ đặc trưng” (frequency window of specificity - FWS). Sisken và Walker vào năm 1995 báo cáo rằng các FWS khác nhau ảnh hưởng đến các vấn đề khác nhau.

a122

Trong khi các nghiên cứu của Zimmerman về từ trường phát ra từ các nhà trị liệu cảm ứng không chứng minh được rằng việc chữa lành thực sự xảy ra, ông đã khám phá ra rằng các nhà trị liệu đã phát ra các từ trường trải rộng ở tần số mà các nhà khoa học khác tìm ra yếu tố kích thích quá trình chữa lành. Cần nhiều nghiên cứu sâu thêm để chứng minh rằng việc chạm tay để chữa bệnh thực sự có thể có tác dụng, nhưng những kết quả này đã thực sự mở ra một vùng trời đầy hứa hẹn.

Chúng ta hãy suy nghĩ một chút về ý nghĩa của điều này với việc thực hành yoga. Tất cả các bài tập yoga đều tạo áp lực lên các mô và áp lực này tạo ra những dòng điện áp. Những dòng điện này gửi thông tin qua các mô và truyền đạt những gì đang xảy ra sao cho tế bào có thể phản hồi hợp lý. Những dòng điện này cũng tạo ra từ trường, thứ có thể kích hoạt các phản ứng chữa lành. Khi chúng ta kéo giãn, vặn xoắn và nén ép các cơ bắp cùng các mô liên kết, chúng ta đang xoay chuyển cơ thể mình về mặt năng lượng theo đúng nghĩa đen.

Những đường dẫn năng lượng

Khi vùng bị thương hoặc bị bệnh của cơ thể không nhận được thông tin nó cần, cơ thể sẽ không huy động được nguồn lực để trả lời, hoặc sẽ phản ứng không hiệu quả hay thậm chí không thích hợp. Các phương pháp chữa bệnh thay thế như yoga, Thái Cực Quyền, xoa bóp, những trị liệu áp dụng năng lượng và nhiều phương pháp khác có thể là cách đưa vào thông tin còn thiếu thông qua quá trình tạo điện từ trường yếu, tần số thấp. Chúng ta hãy xây dựng một mô hình khả dụng về phương pháp truyền thông tin bằng cách xem xét kỹ hơn ở cấp độ tế bào.

Điện trường đi theo dòng điện. Như chúng ta đã thấy, các dây thần kinh không phải là dây dẫn điện duy nhất trong cơ thể. Máy điện tâm đồ có thể đo hoạt động điện của tim ở những nơi cách xa ngực. Những tín hiệu này khả dĩ là vì chính hệ thống máu đang truyền dẫn thông tin điện từ. Vì vậy, hệ tuần hoàn là một trong những kênh khả dĩ cho năng lượng điện từ, chứ không chỉ năng lượng hóa học. Điều thú vị là, những Đạo sĩ từ lâu đã xác định hệ thống Huyết như là đường dẫn của Khí. Nếu Khí không chỉ đơn giản là năng lượng hóa học, có lẽ họ đã cảm nhận được sự truyền dẫn năng lượng điện từ qua các mạch máu. Hoặc có lẽ, định nghĩa của Khí cần phải được mở rộng để bao gồm tất cả các dạng năng lượng khác: hóa học, điện và điện từ.

Có phải đến đây là hết? Hệ tuần hoàn của chúng ta có cung cấp thông tin cho tất cả các phần của cơ thể không? Còn bên trong các tế bào thì sao? Làm thế nào thông tin có thể được truyền đến bên trong các tế bào? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xem xét các mô hình hiện tại và các mô hình tiến hóa của tế bào.

Cái túi đựng mô hình súp

Trong hầu hết các cuốn sách mô tả về giải phẫu của tế bào, bạn sẽ tìm thấy các biểu đồ thể hiện tất cả các bào quan, các thành phần chính của một tế bào, trôi nổi trong một bể chất lỏng. Những mô hình này rất tao nhã và chi tiết, nhưng chất giống như nước bên trong tế bào là gì? Súp! Trong một mô hình phổ biến ngay từ đầu của tế bào, tất cả các bộ máy bên trong nổi lềnh bềnh trên hỗn hợp súp này. Vật chất từ bên ngoài tế bào dễ dàng thấm qua màng tế bào, sau đó trôi nổi xung quanh trong hỗn hợp súp này, cho đến khi chúng chạm được một cái gì đó quan trọng. Mô hình năng lượng hóa học của việc truyền tin đòi hỏi sự di chuyển ngẫu nhiên các hóa chất này cho đến khi chúng tìm thấy và bám vào điểm đến của chúng.

Đây không phải mô hình thỏa đáng cho lắm, nếu xét trên thời điểm ngẫu nhiên để việc truyền tin diễn ra. James Oschman lưu ý rằng nhiều hoạt động ở tế bào diễn ra nhanh hơn nhiều so với những gì mà di chuyển ngẫu nhiên mang lại. Trong mô hình này vẫn thiếu một yếu tố nào đó.46

Khi nhìn vào hầu hết các sách giải phẫu và xem cách cơ thể được mô tả, chúng ta cũng thấy “cái yếu tố thiêu thiếu” tương tự. Những hình ảnh có thể mô tả chi tiết tuyệt vời về hệ tuần hoàn, cũng như có thể vạch ra rõ ràng hệ xương hoặc hệ cơ bắp hoặc hệ thần kinh. Nhưng tất cả các mô hình này đều bỏ qua loại vật chất bao bọc các hệ thống này. Yếu tố còn thiếu là mô liên kết. Các mô liên kết kết nối hệ tuần hoàn đến hệ thần kinh, hệ cơ bắp, v.v. Mô liên kết có mặt khắp mọi nơi và như chúng ta đã thấy, được hình thành từ các sợi collagen, sợi elastin cùng nhiều thành phần khác được sắp xếp trong các ma trận tinh thể. Những ma trận này tạo thành các tinh thể áp điện, các tinh thể áp điện lại tạo ra và dẫn truyền năng lượng điện mà chúng ta đã thảo luận trong phần trước.

Những ma trận này chính xác là những gì còn thiếu trong túi của các “súp”. Chúng ta cần một mô hình mới lấp đầy những khoảng trống và giải thích tường tận hơn về quy trình của tế bào.

a123

Xương của tế bào

Các mô hình mới của việc phân tích thành phần tế bào nhận ra rằng tế bào không chỉ là một túi chất nhờn. Có một cấu trúc bên trong nó. Như minh họa dưới đây, các tế bào được làm đầy với sợi và tơ, ống và cấu trúc. Cấu trúc này được gọi chung là xương của tế bào hoặc ma trận tế bào chất. Cũng giống như bộ xương của cơ thể, nó cung cấp độ cứng và hỗ trợ cho toàn bộ tế bào. Hơn thế nữa, xương tế bào tạo ra các đường dẫn để thông tin lưu thông. Chúng ta không còn phải tưởng tượng cảnh những thông tin hóa học chỉ có thể trôi nổi lượn lờ trên biển súp để chờ đợi vận may ập đến. Bây giờ chúng ta đã thấy rằng thông tin hóa học có thể được dẫn đường đến đích bằng các enzym kết nối xương tế bào.

Chú ý rằng các đường tạo thành xương của tế bào mở rộng ra ngoài các thành tế bào. Các yếu tố liên kết này được gọi là integrin, chúng kết nối thế giới bên trong và bên ngoài của các tế bào. Chúng ta đã thấy rằng ma trận ngoại bào được nối thành mạng thông qua các cân mạc của chúng ta trên toàn bộ cơ thể. Với mỗi tế bào được kết nối bên trong và bên ngoài, với chất nền chảy khắp cơ thể, chúng ta thấy rằng mỗi tế bào đều có mối liên kết với mọi tế bào khác trong cơ thể. Không có chỗ nào không được kết nối với mọi chỗ khác.

Chúng ta đã nói rằng kết nối qua lại là có khả năng. Chúng ta cũng đã đề xuất rằng bệnh tật là do quá trình truyền tin bị gián đoạn, do cơ thể không có khả năng truyền tín hiệu chữa lành đến khu vực bị thương. Nếu vấn đề nào khiến một khu vực bị cô lập khỏi những khu vực khác, thông tin có thể không được truyền đến. Giống như một thành phố bị cúp điện, thông tin liên lạc có thể không hoạt động, hệ thống giao thông có thể bị lỗi. Thành phố có thể tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài, thành phố sẽ bị hủy diệt. Cơ thể chúng ta cũng giống như vậy. Sức khỏe nghĩa là sự toàn vẹn. Nếu một phần của cơ thể bị cắt đứt khỏi dòng chảy thông tin toàn cơ thể, bệnh tật sẽ phát sinh.

Nói thêm về kinh mạch

Các nhà khoa học phương Tây đã kiểm chứng các tuyên bố của phương Đông về kinh mạch và các nadi, họ đã xem lại bảng phẫu tích(1) để tìm kiếm sự tồn tại vật lý của các kênh này. Phẫu tích của họ đã bỏ qua các mô liên kết trơ. Họ bỏ qua những mô này để tìm kiếm một thứ khác vốn không tồn tại ở đây. Họ tìm kiếm các kênh và các ống dẫn tương tự như dây thần kinh và mạch máu, song không thể tìm thấy chúng. Kết luận của họ là không có kênh, và cũng không có kinh mạch. Trớ trêu thay, họ loại bỏ chính các mô hình thành các kênh mà họ đang tìm kiếm. Năng lượng chảy qua các mô liên kết, thông qua các sợi ngậm nước của chất nền.

(1) Bảng khám nghiệm và phân tích tử thi (ND).

Các nhà hiền triết cổ đại nói với chúng ta rằng có 72000 nadi. Một số cho rằng có 300000, một số lại cho biết có 350000. Họ đã sai: Số lượng kết nối giữa hàng triệu triệu triệu tế bào trong cơ thể chúng ta nằm ngoài khả năng đo đếm.47 Các kết nối này có phải là nadi và kinh mạch mà các nhà hiền triết khám phá ra không? Chúng có phải là ống dẫn của năng lượng prana và Khí không? Liệu những năng lượng và những kênh này có phải là những gì mà các nhà tâm lý học đầu tiên đã cố gắng vẽ bản đồ, với các khái niệm văn hóa mà họ cho là đúng không?

Vậy còn về 32 dạng khác nhau của Khí mà các Đạo sĩ đã phát hiện ra thì sao? Trong các nghiên cứu của mình, tiến sĩ Oschman cũng nghiên cứu những thông tin liên quan tới lực hấp dẫn, tia hồng ngoại, lượng tử ánh sáng, sóng siêu âm và nhiều dạng năng lượng khác mà cơ thể dường như sử dụng để truyền đạt thông tin. Có vẻ như, trong hàng trăm triệu năm tiến hóa, cuộc sống trên trái đất đã thích nghi và kế thừa mọi thứ mà Mẹ Thiên Nhiên ban tặng sẵn cho chúng ta. Khi chúng ta thêm những dạng năng lượng này vào những cái chúng ta đã nói lúc trước (hóa học, điện, và từ) và vô số cách các tế bào phát tín hiệu cho nhau mà chúng ta khám phá ra, tất cả vượt quá số lượng mà các bậc thầy tuyên bố. Một lần nữa, thay vì cho rằng các yogi Ấn Độ và Đạo giáo đang phóng đại, chúng ta có thể suy đoán rằng họ đã khá thận trọng và dè dặt trong việc mô tả những gì đang xảy ra bên trong cơ thể con người.

Nói thêm về châm cứu

Năm 1997, Viện Sức khỏe Quốc gia (NIH) đã loại bỏ nhãn “thực nghiệm” ra khỏi phương pháp sử dụng châm cứu và lưu ý rằng châm cứu có thể có hiệu quả trong việc giảm đau sau hóa trị và buồn nôn trong thời kỳ thai nghén, đồng thời cho thấy có tác dụng giảm đau trong một số điều kiện nhất định. Viện NIH tiến hành một số nghiên cứu trong nhiều năm để kiểm chứng lợi ích châm cứu. Tuy nhiên, mặc dù có một số nghiên cứu khoa học được tiến hành với sự kiểm soát chặt chẽ, hầu hết các nghiên cứu đều thiếu kiểm soát và không đầy đủ. Mặc dù châm cứu đã được thừa nhận là có hiệu quả với các cơn đau và buồn nôn, nhưng phương pháp điều trị y học phương Tây thông thường như thuốc giảm đau cũng đã có thể xử lý những tình trạng này mà không cần bắt bệnh nhân chịu đựng những cơn đau và rắc rối từ việc “bị kim châm”.48

Trước năm 2009, một số nghiên cứu chặt chẽ đã được thực hiện và cho kết quả châm cứu thực sự có thể làm thay đổi nhận thức của não về cảm giác đau, và có một số dấu hiệu cho thấy châm cứu có thể hỗ trợ các chứng bệnh khác như hội chứng ruột kích thích hay trầm cảm.49

Một số nghiên cứu khác cho thấy châm cứu có thể có hiệu quả ngay cả khi không sử dụng kim châm!50 Tất cả những gì chúng ta cần làm là nhấn vào các huyệt vị, việc này chính là bấm huyệt. Trong một số trường hợp, người ta phát hiện ra rằng một cái véo nhẹ là tất cả những gì cần làm để kích thích sự giải phóng endorphin trong não.51

Rõ ràng là quan điểm phương Tây về châm cứu vẫn đang trong giai đoạn tiến hóa. Chúng ta có quyền nghi ngờ liệu tất cả những tuyên bố về các lợi ích lớn lao của châm cứu có bảo toàn hay không sau khi các nghiên cứu này hoàn thành, nhưng có một điều khá rõ ràng là khi chúng ta kích thích những điểm châm cứu và kinh mạch này, dù có hay không có kim châm, thì có điều gì đó xảy ra. “Điều gì đó” này có thể là gì?

Một lần nữa, không có sự đồng thuận tuyệt đối về cơ chế tác động của châm cứu, và thực chất, có thể có nhiều cơ chế tham gia vào quá trình này. Một suy đoán cho rằng kim châm cứu kích thích chỗ chấn thương, khiến cho dòng tín hiệu chấn thương - chữa lành được phát ra. Nếu dòng điện này được tạo ra ở nơi có kênh truyền tin, có thể có một số con đường ít bị cản trở để đi qua ma trận ngoại bào đầy nước, thì dòng tin này có thể di chuyển xuyên qua cơ thể đến một nơi khác, mà ở đó nó có thể kích thích phản ứng hồi phục.52 Một suy đoán khác cho rằng khi chúng ta nén một điểm (bấm huyệt), hoặc khi kim châm cứu được giật hoặc xoay, nó tạo ra lực kéo cơ học lên sợi collagen và sợi elastin trong mô liên kết. Lực kéo cơ học này ảnh hưởng lên các tế bào lân cận và các integrin của chúng, do đó tạo ra áp lực đi thẳng vào bên trong tế bào. Việc tổ chức lại xương tế bào có thể gây ra quá trình tế bào di cư, co lại và tiết ra các protein khác nhau. Tất cả những thay đổi này có thể tạo ra một loạt các hiệu ứng bên trong ma trận ngoại bào.53

Dù chúng ta hiểu cơ chế này hay không, trải nghiệm của chính chúng ta là điều quan trọng nhất. Đôi khi nơi chúng ta đến không có sẵn bản đồ, và chúng ta sẽ phải tự tạo ra bản đồ của riêng mình. Có một vài bằng chứng chứng minh một số lợi ích từ châm cứu và bấm huyệt được thừa nhận ở phương Tây. Có nhiều giai thoại về lợi ích của châm cứu hơn ở phương Đông. Khi chúng ta thực hành Yin Yoga, chúng ta nên cởi mở và cảm nhận những thay đổi mà chúng ta đang trải nghiệm, cả trong khi thực hành lẫn những ngày sau đó.

Hệ thần kinh

Các yogi Ấn Độ đã nói rõ ràng rằng các nadi mà họ đã lập bản đồ cho chúng ta là một phần của cơ thể vi tế, không dễ dàng phát hiện và đương nhiên nó không phải hệ thần kinh. Các Đạo sĩ đều chắc chắn rằng các kinh mạch mà họ kích thích thông qua châm cứu cũng không phải là hệ thần kinh. Tuy nhiên, còn các dây thần kinh của chúng ta thì sao? Nếu yoga tốt cho tất cả các mô của chúng ta, hệ thần kinh của chúng ta được hưởng lợi như thế nào từ quá trình tập luyện?

Các nhà khoa học thích chia nhỏ mọi thứ thành nhiều phần. Để nghiên cứu các hệ thống con và từ đó cố gắng tìm ra toàn bộ hệ thống đang làm gì thì cách làm như vậy sẽ dễ dàng hơn. Hệ thần kinh của chúng ta bao gồm hai hệ thống con chính: hệ thống thần kinh trung ương (CNS), bao gồm não và tủy sống, và hệ thần kinh ngoại biên, bao gồm các dây thần kinh phân bố khắp cơ thể, kết nối với hệ thần kinh trung ương. Hệ thần kinh ngoại biên lần lượt phân chia thành hệ thần kinh soma, cho phép kiểm soát có ý thức các cơ và hệ thần kinh tự trị (ANS), cung cấp sự kiểm soát không tự chủ đối với nội tạng: các cơ quan, tuyến và cơ trơn. Một bản đồ của AnS cho thấy nó bao gồm ba hệ thống con khác: hệ thống thần kinh ruột, kiểm soát đường tiêu hóa; hệ thống thần kinh giao cảm (SNS), chịu trách nhiệm về phản ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy và hệ thần kinh đối giao cảm (PNS), đôi khi được gọi là phản ứng nghỉ ngơi và tiêu hóa của chúng ta. Quá nhiều chữ cái viết hoa và chúng tôi sẽ chỉ nói chi tiết về hai hệ sau cùng!

a124

Hệ thần kinh giao cảm

“Có thể nói rằng stress (áp lực) là kẻ giết người số một ở thế giới phương Tây ngày nay.” Trích dẫn này là từ Tiến sĩ Timothy McCall. Trong cuốn sách Yoga as Medicine (tạm dịch: Yoga như một loại thuốc), McCall nói rằng stress là nguồn cơn gây ra một số vấn đề sức khỏe nghiêm trọng nhất hiện nay, bao gồm tiểu đường, trầm cảm, loãng xương, đau tim, đột quỵ và các bệnh tự miễn như đa xơ cứng và đau thấp khớp. Ông cũng nói rằng, trong khi không có nhiều bằng chứng cho thấy stress gây ra ung thư, nó có thể gia tăng tỷ lệ chết vì ung thư.54

Stress là điều không thể tránh khỏi trong văn hóa của chúng ta và một mức độ stress nhất định là thực sự cần thiết để cho cơ thể chúng ta mạnh mẽ và khỏe mạnh hơn. Tất cả các bài tập đều cần phối hợp giữa áp lực và sự nghỉ ngơi. Tuy nhiên, khi chúng ta trải qua quá nhiều stress và không nghỉ ngơi đủ, các vấn đề nảy sinh. Theo thuật ngữ sinh lý, chúng ta đang tăng động quá mức trong hệ thần kinh giao cảm và đang hoạt động kém trong hệ thần kinh đối giao cảm.

Hệ thần kinh giao cảm (SNS) là hệ thống chiến-đấu-hay-bỏ-chạy cơ bản của chúng ta: Nó hướng Yang. Khi tổ tiên của chúng ta bị một con hổ răng kiếm đuổi theo hoặc bị tấn công bởi một bộ tộc trong thung lũng kế bên, hệ thần kinh giao cảm của họ sẽ được kích hoạt mạnh mẽ và cung cấp cho họ năng lượng cũng như khả năng tập trung cần có để bỏ chạy hoặc chiến đấu. Hạch não nhận ra mối đe dọa và kích thích vùng dưới đồi, từ đó giải phóng các kích thích tố kích thích tuyến yên. Tuyến yên sau đó giải phóng các hoóc môn làm cho tuyến thượng thận của chúng ta giải phóng một số hoóc môn khác bao gồm adrenaline, làm tăng nhịp tim, hô hấp của chúng ta và cortisol để tạm thời tăng cường hệ miễn dịch của chúng ta.

Kích thích hệ thần kinh giao cảm sẽ vận chuyển máu từ các cơ quan tiêu hóa đến cơ bắp: Ai cần tiêu hóa khi lúc này điều quan trọng nhất là chạy trốn để sống sót?

Ngày nay, cơ thể chúng ta phản ứng tương tự với các tín hiệu đe dọa từ môi trường, nhưng thời nay lại chẳng có mấy con hổ răng kiếm ở kế bên để đe dọa chúng ta. Stress chủ yếu đến từ cách chúng ta nhìn nhận cuộc sống, thay vì mối đe dọa thực sự bên ngoài. Bộ tộc láng giềng có thể là mẹ chồng cũ hoặc sếp của bạn. Trong khi tổ tiên của chúng ta có thể gặp phải tình huống gây stress một hoặc hai lần một tuần, chúng ta phải đối mặt với những tình huống gây stress liên tục. Chỉ cần nghe nhạc ầm ĩ, xem tin tức, nghe một người bạn phàn nàn về cuộc sống của cô ấy, xem quảng cáo, tranh cãi với người trong nhà, chen chúc đến chỗ làm, ăn phải đồ ăn nóng hoặc cay hoặc xem phim hành động đều có thể kích hoạt hệ thần kinh giao cảm của chúng ta. Chúng ta đang liên tục kích hoạt hệ thần kinh giao cảm — chúng ta đang bị stress quá mức.

Kết quả của stress mãn tính là nồng độ cortisol cao mãn tính. Nồng độ cortisol cao có liên quan đến nồng độ đường huyết leo thang lúc đói, tăng huyết áp và tăng kháng insulin. Chúng ta có thể bắt đầu “hành vi tìm kiếm thức ăn” do stress. Bác sĩ McCall nêu ra một nghiên cứu đã cho thấy trẻ em bị căng thẳng sẽ tiêu thụ thức ăn nhiều hơn gấp đôi so với những người bạn học bình tĩnh hơn.55 Mặc dù, việc tiết ra cortisol tạm thời có thể tăng khả năng tập trung tinh thần, nhưng tình trạng cortisol tăng liên tục dẫn đến vấn đề chức năng tinh thần kém, giảm trí nhớ và suy nhược hệ miễn dịch. Độ nhớt của máu sẽ quá dày, gây ra nhiều vấn đề về tim mạch. Mất xương, mất ngủ, khả năng chữa lành vết thương kém, tăng cân, trầm cảm và mệt mỏi là tất cả các hậu quả.

Hệ thần kinh đối giao cảm (còn gọi là hệ thần kinh phó giao cảm)

Hệ thần kinh đối giao cảm (PNS) có vẻ hướng về Yin và hoạt động theo hướng bổ sung cho SNS: nó là phản hồi của sự nghỉ ngơi và tiêu hóa của chúng ta. Thông qua kích thích các dây thần kinh chạy đến các cơ quan nội tạng (chủ yếu là dây thần kinh phế vị), và thông qua việc giải phóng acetylcholine, nhịp tim chậm lại và huyết áp giảm xuống. Dòng chảy của máu đã được chuyển hướng ra khỏi ruột và cơ quan sinh sản, những nơi không có chức năng cấp thiết trong trường hợp khẩn cấp, sẽ quay trở lại. Khi chúng ta thư giãn, nước mắt của chúng ta có thể chảy ra. Bộ nhớ ngắn hạn của chúng ta trở lại, và chúng ta có thể suy nghĩ rõ ràng. Tóm lại, một khi SNS của chúng ta bị tắt và PNS được bật, chúng ta sẽ xây dựng lại và khôi phục sức khỏe của mình.

Các hoạt động chính để tắt hệ thống chiến đấu hoặc trốn chạy, cùng với đó kích hoạt hệ thống nghỉ ngơi và tiêu hóa là hít thở và suy nghĩ. Không phải cách mà ta vẫn thường thở, mà là hơi thở yoga thích hợp. Một hơi thở chậm, sâu, điều hòa, gọi là “hơi thở đại dương”, sẽ tạo ra một hệ thần kinh thoải mái, giúp ta có được một tâm trí bình an, từ đó lại quay lại giúp hơi thở chậm và đều hơn. Không chỉ vậy, quá trình suy nghĩ cũng thế: từng dòng suy nghĩ của chúng ta đều cần phải dịu xuống. Một vòng lặp phản hồi tích cực giữa hơi thở và suy nghĩ của chúng ta có thể được thiết lập để làm tăng hiệu quả của PNS và tăng sản xuất chất dẫn truyền thần kinh được gọi là GABA.

Não trong khi tập Yoga

Chất dẫn truyền thần kinh phổ biến thứ hai trong hệ thần kinh trung ương của chúng ta được gọi là GABA.56 GABA làm giảm hoạt động của não: nó giúp tắt đèn khi chúng ta không có nhà. Nếu chúng ta bị căng thẳng, tất cả các đèn sẽ cháy sáng, ngay cả khi chúng ta không có nhà. Tương tự như hệ thần kinh đối giao cảm, GABA giúp giảm những phản ứng căng thẳng của chúng ta. Những người có nồng độ GABA thấp có thể bị trầm cảm và rối loạn lo âu: các bác sĩ thường kê đơn thuốc để tăng GABA. Thực hành yoga, khi được thực hiện đúng cách, có thể tăng mức GABA và bật hệ thần kinh đối giao cảm lên.

Trung tâm y tế đại học Boston báo cáo vào tháng 8 năm 2010 rằng thực hành yoga có tác động tích cực đến mức độ của GABA và tâm trạng của chúng ta.57 Nghiên cứu chỉ ra rằng yoga làm tăng nồng độ GABA trong não và cải thiện tâm trạng. Tuy nhiên, chúng ta không cần nghiên cứu để nói rằng chúng ta cảm thấy tốt hơn khi tập yoga (và đã có vài cái như vậy58). Chúng ta chỉ cần biết cách tập luyện sâu. Điều gì ở yoga khiến chúng ta cảm thấy thích như vậy? Một yếu tố đã được chứng minh là hơi thở. Cách chúng ta thở khi tập yoga tạo nên sự khác biệt. Đặc biệt, hơi thở đại dương được mô tả trong chương 2 là thứ chúng ta cần luyện thành thói quen bất cứ khi nào chúng ta bước vào thực hành yoga, Yin hay Yang.

Giáo sư Luciano Bernardi, thuộc trường đại học Pavia của Ý, đã báo cáo trong một nghiên cứu năm 2001 rằng việc làm chậm tốc độ thở ảnh hưởng tích cực đến độ biến thiên nhịp tim59 và làm tăng độ nhạy của bộ phận nhận cảm áp (baroreflex).60 Ông đã nghiên cứu những ảnh hưởng của việc niệm câu chân ngôn Tây Tạng “Om Mani Padme hum”, và ông khám phá ra những lợi ích giống hệt ở những người hô vang “Ave Maria”. Trong cả hai trường hợp, lời khấn nguyện làm chậm hơi thở xuống chỉ còn sáu hơi mỗi phút. Kết luận của ông là, “Những công thức nhịp điệu khiến chúng ta thở sáu hơi mỗi phút tạo ra các hiệu ứng thuận lợi về mặt tâm lý và có thể về mặt sinh lý.”61

Nếu chúng ta có thể khiến hơi thở kéo dài mười giây (sáu lần mỗi phút), chúng ta sẽ nhận được những lợi ích tương tự như được mô tả trong nghiên cứu của Bernardi. Chúng ta thực sự có thể tắt Hệ thần kinh giao cảm và kích hoạt Hệ thần kinh đối giao cảm. Khi bạn vào tư thế Yin Yoga, hãy bắt đầu với hơi thở đại dương: đếm bốn nhịp khi bạn hít vào, tạm dừng một nhịp, đếm đến bốn khi bạn thở ra và dừng lại một nhịp một lần nữa. Đây là hơi thở mười giây - được chứng minh bởi nghiên cứu của Bernardi là tuyệt vời cho tim và phổi.

Tóm tắt về lợi ích của năng lượng

Bất kể bạn thấy hợp với quan điểm của ai nhất, người Ấn Độ, các Đạo sĩ, hay người phương Tây, thì những hơi thở đại dương chậm rãi khi bạn đang ở trong các tư thế Yin Yoga sẽ giúp giảm căng thẳng, kích hoạt hệ thống nghỉ ngơi và tiêu hóa, cải thiện chức năng tim và phổi, hạ huyết áp và dẫn đến một cuộc sống lành mạnh, hạnh phúc hơn. Có nhiều lợi ích khác mà chúng ta có được thông qua việc thực hành Yin Yoga, nhìn từ khía cạnh năng lượng:

a2 Đánh thức, tăng cường và cân bằng prana.

a2 Làm chậm lại những ý nghĩ quay cuồng trong tâm trí.

a2 Kích thích và đánh thức con rắn kundalini, dẫn đến sự giải thoát và giác ngộ sau cùng.

a2 Kích thích việc sản xuất và dòng chảy của năng lượng Khí và Tinh.

a2 Nuôi dưỡng các cơ quan thông qua ấn huyệt nhờ sức nén của các đường kinh mạch.

a2 Bổ sung dự trữ Tinh trong thận, nhờ đó giúp tất cả các cơ quan hoạt động trơn tru.

a2 Tạo ra dòng điện áp nhỏ kích thích những phản ứng tối ưu của các tế bào.

a2 Tạo các từ trường xung bên trong phục hồi sức khỏe tế bào.

a2 Tắt hệ thống thần kinh giao cảm (chiến đấu hoặc chạy trốn) và bật hệ thống thần kinh đối giao cảm (nghỉ ngơi và tiêu hóa).

a2 Tăng nồng độ của chất dẫn truyền thần kinh GABA.

CHÚ THÍCH:

1. Xem Sinister Yogis của David Gordon White để biết thêm chi tiết về lịch sử trải dài sâu rộng cho đến giờ của yoga.

2. Yoga Cổ điển có nguồn gốc rất xa xưa, ẩn trong rừng sâu thẳm và nhiều thực hành được mô tả trong Yoga Sutra tồn tại từ nhiều thế kỉ trước khi văn bản được biên soạn. Để biết thêm về lịch sử của Yoga Sutra, xem The Yoga Tradition của Georg Feuerstein.

3. Hình thức giải thoát không thân thể này được gọi là videha-mukti.

4. Prakriti là mọi thứ bên ngoài ý thức thuần túy: mọi thứ chúng ta nhìn thấy, chạm vào, cảm nhận, suy nghĩ, ghi nhớ hay cảm nhận theo bất kỳ cách nào là prakriti. Từ yếu tố rõ ràng nhất, trái đất, đến suy nghĩ, cảm xúc vi tế nhất, cảm giác về chính mình (bản ngã), hay sự thông minh, tất cả những gì chúng ta có thể phân biệt được đều là prakriti.

5. Chúng ta có thể gọi đây là khoa học vì nó đáp ứng các yêu cầu cơ bản của bất kỳ nghiên cứu khoa học nào. Một mô hình được đề ra để dự đoán các hành vi nhất định, bất kì ai cũng có thể kiểm chứng bằng cách sao chép y nguyên điều kiện của phép thử. Khó khăn đặt ra là rất ít người được trang bị, hoặc có thể phát triển khả năng để đáp ứng các điều kiện của cuộc điều tra này.

6. Purusha ở đây ám chỉ đến con người vũ trụ hay Bản Ngã nguyên thủy mà từ đó tất cả được hình thành. Trong thời kì Yoga cổ điển, và đặc biệt là trong triết lý Samkhya thời đó, bắt đầu xuất hiện việc biểu hiện ý thức cá nhân, tách rời khỏi tất cả các purusha khác. Các cuộc tranh luận lớn đã nổ ra, về việc liệu có nhiều purusha hay chỉ có một purusha vĩ đại duy nhất, được biết đến về sau bởi nhiều cái tên khác nhau như Brahman, Ishvara, Paramatman, hoặc một trong những vị thần vĩ đại, Vishnu hay Shiva.

7. Để biết thêm thông tin về năm loại prana phụ, vui lòng truy cập www.YinYoga.com.

8. Vayu có nghĩa là “gió” hoặc “không khí”.

9. John Friend gọi samana là “năng lượng cơ bắp” – sự kéo của cơ về phía xương - và vyana là “năng lượng hữu cơ” - dòng năng lượng chảy ra từ xương.

10. Xem Theories of the Chakras của Tiến sĩ Hiroshi Motoyama.

11. Georg Feuerstein, Shambhala Encyclopedia of Yoga, tr. 162.

12. Vibhutis là sức mạnh đặc biệt có được thông qua yoga, trao cho yogi các phép thần thông.

13. Hai từ tạo nên từ “hatha” trong Hatha Yoga là ha và tha. Hầu hết các giáo viên giải thích ha có nghĩa là mặt trời và tha có nghĩa là mặt trăng. Tuy nhiên, như mọi lần trong thế giới yoga, không có một sự đồng thuận nào cả. T.K.V. Desikachar trong cuốn sách The Heart of Yoga định nghĩa ha là mặt trăng và tha là mặt trời. Nhưng ông cũng thừa nhận lỗ mũi bên trái là kênh mặt trăng.

14. Có nhiều cách để thay đổi dòng chảy của hơi thở, do đó bạn sẽ không phải nói với người yêu đang ham muốn của mình rằng họ phải đợi thêm vài giờ. Có thể kích thích phản xạ xoang, cho phép hơi thở chuyển bên chỉ trong vòng vài phút. Có vài cách để khai thác phản xạ này. Một cách là nằm nghiêng về phía mũi đã mở với cánh tay cùng bên mở rộng dưới đầu và gối đầu lên nó. Một cách tiếp cận khác là ngồi xuống và chuyển trọng lượng lên phía cánh mũi đang mở. Nếu không có cách nào trong những cách trên phát huy tác dụng, xin đừng đổ lỗi cho yoga vì đã làm người yêu của bạn thất vọng.

15. Chính từ hệ thống phân cấp này mà chúng ta có cách nói “lên tận bảy tầng trời” để diễn tả những khi vui sướng nhất.

16. Georg Feuerstein, Tantra The Path of Ecstasy (Boston: Shambhala, 1998) có cách giới thiệu rất hay cho chủ đề này. Một nguồn khác có thể xem qua là Transformation of Myth through Time của Joseph Campbell (New York: harper Peren- nial, 1999).

17. Xem Hiroshi Motoyama, Awakening of the Chakras and Emancipation (Tokyo: Human Science Press, 2003). Một quyển sách khác của ông có cùng chủ đề là Theory of the Chakras: Bridge to Higher Consciousness (Wheaton, Il: Sách Quest, 1988). Một nguồn hay khác nữa để bắt đầu tìm hiểu về năng lượng và luân xa là DVD Chakra Theory and Meditation của Paul Grilley.

18. Trong tiếng Phạn, các trở ngại này được gọi là granthis (phát âm là “grunties”). Bạn có thể thấy từ âm thanh mà từ này phát ra, bạn không muốn những grunties này trong cơ thể mình đâu! Granthis thì không tốt tí nào.

19. Hatha Yoga Pradipika (2.15) cảnh báo, “Cũng giống như sư tử, voi, hoặc hổ được thuần hóa dần dần, nguồn sống cũng phải được kiểm soát từ từ nếu không nó sẽ giết chết bản thân người thực hành.”

20. Ít nhất là ban đầu, khi việc bất tử trong thân thể hiện tại trở nên khá khó nắm bắt, mục đích là tiến đến điểm mà người thực hành tìm kiếm sự bất tử tâm linh.

21. Cần lưu ý rằng những gì mà ngày nay chúng ta gọi là Y học cổ truyền Trung Hoa thực chất không phải là y học nguyên gốc của Trung Hoa! Để biết thêm thông tin về vấn đề này, hãy đọc cuốn sách của Mark Seem Acupuncture Imaging: Perceiving the Energy Pathways of the Body (Rochester, VT: Healing Arts Press, 2004).

22. Việc sử dụng thuật ngữ meridian của chúng ta (thuật ngữ cho kinh mạch trong tiếng Anh là “meridian”, còn có nghĩa là kinh tuyến) không phải là một lựa chọn hay. Từ Trung Quốc là Jing- luo, có thể dịch rõ hơn là kênh lưu thông. Jing ở đây có nghĩa là “đi qua” và luo có nghĩa là “giống như một mạng lưới”, vì vậy Jing-luo giống như một mạng lưới cho phép Khí chảy qua cơ thể. Từ meridian gợi lên một cảm giác rằng các kênh mạch là tưởng tượng, giống như các kinh tuyến trên bản đồ thế giới, và không tạo cảm giác gì về việc truyền năng lượng.

23. Giới thiệu đầy đủ hơn về Khí có thể được tìm thấy trong cuốn sách The Web That Has No Weaver: Understanding Chinese Medicine csủa Ted Kaptchuk (New York: McGrawhill, 2000).

24. Các loại thực phẩm tốt là thực phẩm “đủ khí”, trái ngược với quá nhiều loại thực phẩm “không có khí” mà chúng ta tiêu thụ trong chế độ ăn uống điển hình của phương Tây. Thức ăn nhanh là thức ăn không có Khí. Tương tự như vậy, tất cả chúng ta đều quen biết ai đó đủ Khí hoặc ai khác thiếu Khí, và cả những người không có Khí. Cũng có các công việc, sách, phim, địa điểm đầy Khí và không có Khí.

25. Để trọn vẹn, chúng ta sẽ cần phải xem xét năm thể loại Thần nhỏ: Ý, có nghĩa là ý thức về tiềm năng; Hồn, linh hồn không hữu hình của chúng ta; Khí, ý chí của chúng ta; Thần, một lần nữa, nhưng lần này là tinh thần của chúng ta và Phách, linh hồn động vật của chúng ta, sẽ chết khi cơ thể chết. Không may là khảo sát của chúng ta không đi tới mức độ này. Xem The Web That Has No Weaver của Ted Kaptchuck để tìm hiểu thêm.

26. Người phương Tây tin rằng lo lắng thường trực sẽ dẫn đến loét ở Dạ dày. Sau đó, các nhà khoa học phát hiện nguồn gốc của các vết loét là do một loại vi khuẩn có tên là helicobacter pylori (H. pylori). Chúng ta đã nhận ra lo lắng không phải là nguyên nhân gây ra các vết loét. Tuy nhiên, tại Nhật Bản, sau một trận động đất nghiêm trọng ở Kobe vào năm 1995, tỷ lệ loét Dạ dày tăng vọt: không có sự gia tăng lớn của H. pylori trong Dạ dày những người ở đó, nhưng các căng thẳng do lo lắng về nhà cửa, công ăn việc làm và gia đình đã tạo điều kiện mời gọi vi khuẩn đến Dạ dày, các vi khuẩn này nhân lên và khiến cho các vết loét gia tăng. Xem nghiên cứu Peptic ulcers after the hanshin-awaji earthquake: Increased incidence of bleeding gastric ulcers của Nobuo Aoyama và những tác giả khác.

27. Người Trung Quốc không bao giờ phát triển các khái niệm về tuyến nhưng lý do gây ra thận yếu mà họ đề cập, sẽ được các bác sĩ ở phương Tây quy là do sự kiệt sức ở tuyến thượng thận.

28. Hãy cân nhắc, như trong một ví dụ, những người nghiện rượu đến cuối cùng sẽ hủy hoại gan: rất nhiều trong số họ phải chịu đựng các vấn đề liên quan đến quản lý cơn giận.

29. Một tên khác cho những vị trí này là đan điền, mà chúng ta đã thảo luận trong chương 1.

30. Tại Thái Lan, một mô hình tương tự của chuyển động năng lượng đã phát triển thông qua giao lưu chéo do ảnh hưởng từ Ấn Độ và Trung Quốc. Các dòng năng lượng được thao tác trong mát – xa của Yoga Thái gọi là những dòng sen. Mát-xa Thái có thể được coi là một hình thức bấm huyệt kích thích dòng chảy năng lượng dọc theo dòng sen.

31. Trong sáu kinh mạch vùng thân dưới, chúng ta sẽ khám phá ra rằng có ba cái thiên về tính Yin nhiều hơn (những cái chạy dọc theo vùng chân trong) và ba cái thiên về tính Yang nhiều hơn: một lần nữa, chúng ta thấy rằng có Yang trong Yin và ngược lại.

32. Thật không may, trong những bức tranh này, chúng ta không thể nhìn thấy những đường bên trong của quý ngài Kinh Mạch, vì vậy không thể theo dõi và nhìn thấy các tuyến kinh mạch bên trong.

33. Xem lại phần Yin Yoga cho phần thân trên ở chương 3 và chuỗi động tác cho toàn bộ cơ thể trong chương 4.

34. Chúng ta đã thảo luận về thực hành Nadi Shodhana trong chương 2.

35. Cuốn sách của James Oschman, Energy Medicine, có một đánh giá ngắn gọn nhưng rất thú vị về lịch sử y học cùng việc sử dụng nam châm và điện của các bác sĩ trong thế kỉ XIX.

36. Hiện tượng áp điện đã được biết đến trong hơn một trăm năm và đã được David Brewster đặt tên vào năm 1824.

37. James Oschman, Energy Medicine in Therapeutics and Human Performance, tr. 87.

38. Lớn hơn 20000 lần so với điện thoại di động.

39. Nếu bạn đã từng đo điện tâm đồ, bạn có thể nhận thấy rằng các điện cực được đặt ở các vị trí xa hơn, đôi khi trên mắt cá chân hoặc cổ tay. Những điện cực này nhận lấy trường điện từ của tim khi nó di chuyển ra khắp cơ thể.

40. SQUID là viết tắt của Superconducting Quantum Interference Device. Nhờ phát minh này, máy chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI) đã trở thành hiện thực.

41. Chẳng hạn như Kusaka Seto của Nhật Bản.

42. Xem Oschman, Energy Medicine, tr. 78.

43. Hertz (hoặc Hz) dùng để chỉ số lần mỗi giây mà từ trường dao động. 30 Hz có nghĩa là từ trường dao động 30 lần mỗi giây. Một phép đo 0,3 Hz có nghĩa là từ trường dao động mỗi 3 giây một lần.

44. Một suy luận về cách các nhà trị liệu này có thể tạo ra những từ trường lớn như vậy lý luận rằng bằng cách nào đó, họ đã khai thác được từ trường của trái đất. Điều thú vị là, có lúc, các nhà trị liệu bị mất khả năng này. Một nguyên nhân cho việc này là từ trường trái đất có tần số luôn thay đổi. Bình thường, từ trường của trái đất dao động ở mức nào đó, được gọi là tần số của Schumann, nằm trong khoảng 7-10 hz. Tuy nhiên, một số sự kiện như lóa mặt trời có thể khiến sự biến động ngừng lại và điều này có thể khiến các nhà trị liệu và các vị thầy kiểm soát Khí bị giảm năng lực trong những lúc đó.

45. Xem “Pulsed electromagnetic field (PEMF) treatment for fracture healing,” Current Orthopaedic Practice, của Boopalan, PRJVC và cộng sự, tháng 8 năm 2009.

46. Xem cuốn sách Energy Medicine của Oschman, chương mười bốn, để biết thêm chi tiết về chủ đề này.

47. Theo một bài báo trên Science, có 80 tỷ tế bào thần kinh trong bộ não con người giao tiếp với nhau thông qua 150 nghìn tỷ xi- náp, xi-náp là những điểm nối tiếp giữa các tế bào. Chỉ mới tính trong não thôi đã là từng đó!

48. Xem “Thumbs up for Acupuncture” và “Thumbs Down for Acupuncture” ở tạp chí Science: 11/1997 và 1/1198.

49. Xem “Study Maps effect of Acupuncture on the Brain” trên Science Daily, tháng 2 năm 2010.

50. Xem “Acupuncture Just as Effective Without Needle Puncture” trong Science Daily, tháng 12 năm 2008.

51. Nếu bạn muốn xem một cuộc điều tra mang nhiều hoài nghi hơn về các tuyên bố về châm cứu, hãy đọc bản báo cáo của Committee for Skeptical Inquiry(1) về chuyến thăm Trung Quốc để điều tra về Y học cổ truyền Trung Hoa và châm cứu, có tiêu đề là Traditional Medicine and Pseudoscience in China từ năm 1996.

(1) Ủy ban Báo cáo Hoài nghi (ND).

52. Xem Oschman, Energy Medicine, tr. 77.

53. H.M. Langevin, và những tác giả khác, “Mechanical signaling, etc” FASEB Journal 15 [2001], tr. 2275-82.

54. Timothy McCall, Yoga as Medicine: The Yogic Prescription for Health and Healing, tr. 49.

55. Như trên.

56. GABA là viết tắt của axit gamma aminobutyric.

57. C.C. Streeter, và những tác giả khác, “Effects of Yoga Versus Walking on Mood, Anxiety, and Brain GABA levels: A Randomized Controlled MRS Study” The Journal of Alternative and Complementary Medicine, [11/ 2010], tr. 1145-52.

58. Xem xét các vấn đề khác của Journal of Alternative and Complementary Medicine.

59. Biến thiên nhịp tim (HRV - Heart Rate Variability) là sự khác biệt về nhịp tim xảy ra khi chúng ta thở. Bạn có thể nghĩ rằng một trái tim khỏe mạnh giữ một nhịp đập không đổi, giống như một chiếc máy nhịp, nhưng không, một trái tim khỏe mạnh đập nhanh hơn khi chúng ta hít vào, đập nhanh hơn nữa, và chậm lại khi chúng ta thở ra. Sự thay đổi trong nhịp điệu đôi khi được gọi là HRV, hoặc RR. Những người bị bệnh tim có HRV rất nhỏ.

60. Bộ phận nhận cảm áp của chúng ta giúp duy trì huyết áp. Ví dụ, khi chúng ta đột nhiên đứng dậy, bộ phận nhận cảm áp làm tăng huyết áp vì vậy chúng ta không cảm thấy bị chóng mặt.

61. Xem British Medical Journal [12. 2001] quyển 323, tr. 1446-49.