M
ột vài ngày sau cuộc thi giữa kỳ mà tôi làm rất tệ hại, tôi cùng Adama và Iwase leo lên đỉnh đồi để tìm quên.
“Ken này”, Iwase nói, “cậu còn nhớ lần đi Hakata vào năm ngoái của chúng mình không?” “Nhớ chứ. Lần mà chúng ta phải ngủ qua đêm trong rạp chiếu phim chứ gì?”
Hắn ta đang nói về dịp nghỉ cuối tuần vào mùa hè năm trước khi tôi và hắn đáp tàu điện đến Hakata để xem mấy bộ phim. Chúng tôi nghe nói họ tổ chức một liên hoan phim Ba Lan thâu đêm.
“Có nhớ quán nhạc jazz mà chúng ta đến không?” “Yeah.”
“Tên của quán đó là gì nhỉ?”
“Cà phê Bờ sông thì phải. Đúng là quán đó nằm trên bờ sông.”
“Mình đang nghĩ có nên kiếm việc làm thêm trong kỳ nghỉ hè này không.”
“Ở quán Bờ sông đấy hả? Tuyệt quá.”
“Đúng vậy. Chủ quán là một tay tử tế nhỉ. Mình đã gửi cho ông ta một lá thư.”
“Thật vậy à?”
Chúng tôi đến Hakata vào trưa ngày thứ Bảy. Đầu tiên chúng tôi ghé Đại học Kyushu để chiêm ngưỡng những mảnh vỡ của chiếc máy bay phản lực đã đâm vào một trong những tòa nhà ở đây, và sau khi đã chén sạch một tô mì, chúng tôi ghé khu chiếu phim. Phía bên phải con đường là một mái vòm đề chữ “phim nghệ thuật”với những sắc màu sáng tươi. Và trang điểm thêm cho mái vòm đó là một bộ ngực phụ nữ đồ sộ, bên trên viết vài hàng tít lớn như Nỗi lòng thiên sứ, Kẻ trộm bào thai và Những người vợ phổng phao nơi hoang vắng. Tôi dừng lại và nhìn chăm chú. Iwase thấy vậy liền cố gắng lôi kéo tôi sang những Pasazerka, Mẹ Joan của những thiên thần và Kanal. “Khoan khoan, đợi đã Iwase. Đây là phim của một đạo diễn nổi tiếng đấy, nhìn này, phim Ba Lan thì hay đấy nhưng mà họ chưa trình chiếu bộ phim Kim cương và tro bụi mà chúng ta không đủ tiền thuê khách sạn, chúng ta dự tính sẽ coi phim cả đêm và làm thế nào chúng ta có thể ngủ được với những nghĩa quân Ba Lan và những bà xơ quằn quại đau đớn suốt cả buổi?” Nhưng Iwase, vốn là người nghiêm túc, cứ khăng khăng phản đối và tôi chịu thua. Tôi chịu thua nhưng bảo hắn là tôi nhất định không xem cái mớ phim về đảng Quốc xã chết tiệt đó và cứ chực chỉ về phía cặp ngực đồ sộ. Buổi chiều ngày kế tiếp, chúng tôi ghé quán cà phê Bờ sông để nghe nhạc jazz. Iwase yêu cầu họ chơi một bản Slow buồn của Coltrane và tôi chọn một bản Bossa Nova của Stan Getz1. Giữa bản của Coltrane và Getz, người ta chơi vài bài của Carla Bley2 do yêu cầu của một nhóm các cô gái tuổi chớm hai mươi đang làm việc tại quầy bán quần áo nữ của một siêu thị địa phương. Những em gái bán hàng nghe Carla Bey – đó là vào cuối thập niên sáu mươi. Và một trong số đó là mẫu người ưa thích của Iwase. Nàng là mẫu điển hình của người bán hàng trong siêu thị tốt nghiệp cao đẳng: chất phác, giản dị, tóc dài, da nâu, cặp mắt hẹp…
1 Stanley Gayetzky (1927–1991): Nghệ sĩ saxophone người Mỹ, tác giả của những bản nhạc jazz nổi tiếng, Bossa Nova là một ví dụ.
2 Carla Bley (sinh năm 1936): Nghệ sĩ chơi piano, đàn ống và sáng tác nhạc jazz người Mỹ.
Tôi biết Iwase và nàng đã viết thư từ cho nhau. Lý do hắn ta muốn làm thêm ở đây, theo như tôi đoán là để được gần gũi nàng. Có lần hắn đã cho tôi xem một bức thư nàng gửi như thế này:
Gửi Hie-bo. Anh khỏe chứ? (Tên thánh của Iwase là Hie-bo). Em đang nghe Booker Little1 và Eric Dolphy2 khi viết thư này cho anh. Chắc anh đúng khi nói em là con người yếu đuối. Em biết là mình không quan tâm người ta nghĩ gì, em chỉ tin tưởng vào cảm giác của em thôi. Nhưng khi nghĩ đến những người xung quanh, em lại thấy nản lòng…
1 Booker Little, Jr (1938–1961): Nghệ sĩ thổi kèn trumpet, nhà soạn nhạc jazz người Mỹ.
2 Eric Allan Dolphy (1928–1964): Nghệ sĩ nhạc jazz người Mỹ chơi Alto saxophone, Flute, Bass clarinet.
Khi tôi hỏi Iwase là nàng đang nói gì vậy, Iwase lặng im rồi nói không biết nhưng rõ ràng tôi nhận thấy có lẽ nàng dính dáng đến một tình yêu bị cấm đoán, một cô gái bán hàng cưới một thằng nhóc, một Yakazu, hay với cha dượng, hay với chó cưng… Chắc đại khái vậy. Nếu có điều gì mà Iwase trưởng thành hơn tôi thì có lẽ đó là mối quan hệ của hắn với các cô gái. Mỗi khi đề cập đến nàng, hắn mỉm cười hiểu biết và lẩm bẩm: “Nàng là một người phụ nữ thật sự.” Tôi rất ghen tị. Tất cả những gì tôi biết là hắn có thể đến đích trước tôi. Tôi nhớ nàng ngồi đó trong chiếc váy mỏng. Đó là sự thật. Nàng có một vẻ gì đó là “người phụ nữ thật sự”. Không như những con gà móng đỏ phủ đầy nước hoa rẻ tiền lang thang ở các quán bar đầy khách nước ngoài, nàng là một người phụ nữ trẻ bình thường, làm việc trong một thế giới bình thường. Tôi đã hỏi lý do Iwase đến làm ở quán cà phê Bờ sông khi chúng tôi trên đường đến căn cứ trong mưa. “Cậu định đến đó để được gần gũi nàng chứ gì?” Tôi nói. “Vậy ngoài ra còn lý do gì nữa chứ?” Iwase gật đầu và cười – nếu ta có thể gọi âm thanh sởn gáy đó là tiếng cười. Khi Adama và tôi nắm quyền của Ủy ban chiến đấu trường Bắc, Iwase cảm thấy bất an về vị trí của mình, và chắc quen biết em gái này là cách hắn tìm lại mình. Hình ảnh em gái ngọt ngào thơm tho, trần trụi lấp đầy tâm trí tôi. Tôi cảm thấy bực mình và tâm trí tôi muốn la lớn, “Hy vọng nàng sẽ đối xử với mày như thằng đê tiện.” Hàng cây tú cầu ven đường bắt đầu đổi sắc, và Adama không nhận ra điều đó, dùng mũi dù phạt ngang qua.
Adama thật tuyệt.
“Quyền lực của sự tưởng tượng”. Đó là khẩu hiệu mà chúng tôi quyết định sơn lên tờ biểu ngữ. Narushima và Otaki muốn vài câu sáo ngữ như “tạo phản hợp lý” nhưng Matsutabe và mấy đứa bạn cùng lớp với số lượng áp đảo đã chọn một trong những khẩu hiệu mà Adama và tôi lấy trong tuyển tập graffiti của cuộc Cách mạng tháng Năm ở Paris – những khẩu hiệu đại khái như là “Từ chối sự hòa hợp được thiết lập trước” và “Dưới mặt đường là sa mạc”.
Thật buồn cười khi nghĩ đến khẩu hiệu của chúng tôi. Tất cả chúng tôi viết nó lên những mảnh giấy nhỏ và đọc to. Ngoài cửa sổ, mưa rơi như những chiếc kim bạc. Tất cả những gì chúng tôi cần là một cái nón rơm, như thế chúng tôi giống như Basho1 và đồ đệ đang viết thơ haiku.
1 Matsuo Basho (1644–1694): Thiền sư, thi sĩ lỗi lạc của thời Edo Nhật Bản.
“Ken này”, Iwase bảo, “phong tỏa là một chuyện rồi nhưng còn đại nhạc hội thì sao? Còn bộ phim của chúng ta thì sao?”.
Từ căn cứ trở về nhà, chúng tôi dừng tại quán cà phê Boulevard, nơi người ta chuyên chơi nhạc cổ điển. Iwase uống cà phê. Cà phê là thức uống yêu thích của những học sinh nhà nghèo trong thành phố tỉnh lẻ ngày đó.
“Chúng ta sẽ thực hiện điều đó trong kỳ nghỉ.” “Phải cho chúng mình thời gian để viết kịch bản đã chứ.” Adama nói. Hắn đang uống soda. Mấy anh chàng nhà quê lên tỉnh lẻ ngày đó hay uống thứ này. Hắn hút thật mạnh và hỏi: “Chúng ta sẽ làm loại phim nào đây hả Ken?”.
“Chính xác thì mình vẫn chưa quyết định.”
Tôi uống nước ép cà chua. Mấy tay hippy trẻ tuổi trong thành phố tỉnh lẻ này hay uống nước ép cà chua vào những ngày đó. Tất nhiên đây chỉ là chuyện nói láo mà chơi. Bởi vì nước ép cà chua là thứ nước mới lạ và hầu hết người ta không thích uống nó vì có vị cà chua, hay có thể vì nó không ngọt, hay bởi vì màu sắc của nó làm người ta ngán ngẩm. Tôi bắt mình uống thứ nước này vì một lý do đơn giản là tôi thích người ta chú ý đến mình.
“Hình như mình đã nói với cậu trước đây rồi phải không. Nó sẽ là một bộ phim siêu thực.”
“À, đúng. Cậu đã nói vậy.”
“Vậy còn âm nhạc thì thế nào?” Iwase hỏi. “Đấng cứu thế có được không?”
Vào thời gian đó tôi bắt đầu cố gắng hoàn thiện nghệ thuật chinh phục lòng người. Tôi cho rằng khi ai đó quá ham mê danh vọng, ta có thể làm họ cụt hứng bằng cách nói sang một chủ đề mà họ hoàn toàn không biết gì. Nếu một người biết nhiều về văn chương, ta hãy nói với họ về những tổ chức bí mật. Đối với người biết nhiều về rock, bạn hãy nói về Roy Lichtenstein1. Đối với người hiểu biết về nghệ thuật đại chúng, bạn hãy nói về Jean Genet và vân vân. Trong thành phố tỉnh lẻ này, nếu bạn làm như thế, bạn sẽ không bao giờ thua cuộc trong các trận tranh cãi tay đôi.
1 Roy Fox Lichtenstein (1923–1997): Họa sĩ người Pháp theo trường phái Pop art.
“Liệu nó sẽ mang tính tiền vệ chứ?” Adama hỏi, lấy ra cây bút và quyển sổ. “Cậu có thể cho tớ biết ý tưởng phác thảo của câu chuyện chứ?”
“Tại sao?”
“À, nếu chúng ta thực hiện trong mùa hè này, chúng ta phải chuẩn bị từ bây giờ đúng không? Trang thiết bị này, đội ngũ làm việc này, đồ dùng sân khấu này…”
Adama đúng là một nhà quản lý sản xuất bẩm sinh. Tôi bị ấn tượng – ấn tượng đủ để tôi nói hết với hắn ta về câu chuyện mà tôi phác thảo.
“Đó sẽ là một sự kết hợp giữa Andalusian Dog1 và Scorpio Rising2… Chúng ta sẽ bắt đầu với cảnh một con mèo đen nằm chết vắt vẻo trên thân cây, rồi chúng ta tưới xăng lên và đốt nó, cả cái cây nữa, khói sẽ lan trùm mặt đất, quay ngược sáng và rồi ruuuuúu… ba chiếc xe máy gầm rú băng qua đám khói và rồi…” Tôi chợt nhận ra là sẽ không có chỗ cho Matsui Kazuko trong những phim như thế. Con nai nhỏ Bambi của tôi và cảnh siêu hiện thực không tương dung với nhau được.
“Thôi bỏ qua đi.”
1 Bộ phim làm theo thể loại siêu thực được sản xuất ở Pháp năm 1928.
2 Bộ phim làm theo thể loại thử nghiệm được sản xuất năm 1964.
Adama ngước nhìn lên. Nơi quyển sổ tay hắn viết “mèo chết (đen)/ xăng/ ba xe máy”. Rồi hắn hỏi, “Hả?”. “Bỏ đi. Phim như thế lề mề lắm. Đợi chút. Đây là cái chúng ta sẽ làm. Chúng ta sẽ thay đổi hoàn toàn cốt truyện.”
Iwase và Adama nhìn nhau.
“Đây này. Cảnh đầu tiên sẽ là một đồng cỏ trên cao nguyên. Sương mù lẩn khuất chân mây. Đâu đó như những đồng cỏ trên núi Aso.”
“Cao nguyên? Vào buổi sáng hả?” Adama cười phá lên. “Làm thế nào mà cậu lại chuyển được từ con mèo đen chết sang một buổi sáng trên cao nguyên?”
“Hình tượng. Chúng mày ạ, hình tượng. Đó là điều quan trọng. Những hình ảnh thuần túy. Chúng mày hiểu mà, đúng không? Được rồi. Cao nguyên. Và rồi máy quay cận cảnh một thằng bé đang thổi sáo.”
“Cái máy quay của thằng Matsutabe không phóng to cận cảnh được.”
“Adama, quên đi. Chúng ta sẽ lo chi tiết sau? Ok. Thằng bé sẽ thổi một bài nhạc. Một giai điệu gì đấy thật đẹp.”
“Daisy Chain ư?”
“Đúng đấy, tuyệt lắm. Bất cứ khi nào cậu có ý tưởng gì như thế, hãy nói ra nhé. Rồi sau đó, một cô gái xuất hiện.”
“Lady Jane.”
“Đúng. Nàng sẽ mặc một bộ đồ trắng. Trắng tinh khiết. Nhưng không phải như áo cưới đâu nhé, mà gần như áo ngủ, đại khái là ta gần như có thể nhìn xuyên qua. Và chúng ta sẽ để nàng cưỡi lên con ngựa trắng.”
“Ngựa hả?” Adama đang viết “sáo/váy trắng (giống váy ngủ, không giống váy cưới)”, ngẩng đầu lên và hỏi: “Ngựa à? Ngựa trắng hả?”.
“Ừ.”
“Quên đi. Chúng ta kiếm đâu ra con ngựa trắng bây giờ?”
“Đừng nói chuyện hiện thực ở đây. Hình tượng, phải là hình tượng.”
“Hình tượng với chẳng hình dung. Chúng ta không thể làm phim về những thứ mà ta không có. Cậu sẽ chẳng bao giờ tìm ra một con ngựa trắng – mà ngay cả ngựa thường cũng khó kiếm trong thời buổi này. Ken này, thế một con chó thì sao? Tay gần nhà tớ có một con chó trắng lớn thuộc giống Akita.”
“Chó à?”
“Đúng đấy, nó tên là Whitey. Con chó lớn lắm, có thể chở được một cô gái trên lưng nếu buộc nó phải làm thế.”
“Cậu để cho Matsui Kazuko cưỡi một con chó săn Akita à. Điều đó làm khán giả cười lăn ra đấy. Nghe này, thằng ngốc. Cậu tính biến bộ phim thành hài kịch à?”
“Này, các cậu thôi đi.” Iwase nói và chúng tôi ngay lập tức ngừng tranh cãi. Không phải bởi vì Iwase đã can thiệp mà vì một em gái có đôi mắt bồ câu như Claudia Cardinale1 mặc đồng phục của trường Junwa bước vào. Nàng ngồi kế bên bàn chúng tôi và gọi trà chanh. Trong khi tay bồi bàn ở quán Boulevard chuẩn bị rời bước đi pha trà cho nàng thì tôi yêu cầu hắn chơi bài Symphonie Fantastique của Berlioz2 do Zubin Mehta3 làm nhạc trưởng. “Lại bắt đầu rồi.” Iwase nói. “Thưa quý ngài lạc quan, Berlioz, Mehta. Đó là sự kết hợp duy nhất mà cậu biết.” “Khốn kiếp!”, tôi nói. “Mình biết cả Four Seasons của Vivaldi4 nữa chứ bộ.” Và lần này đến lượt Adama nói: “Thôi nào các cậu.” Claudia Cardinale đứng lên với một túi đồ trong tay và biến mất vào phòng vệ sinh. Khi bước ra, nàng trở thành một người khác. Tóc nàng uốn nhẹ vào trong để hợp với khuôn mặt, nàng kẻ mắt và tô son hồng, bộ đồng phục màu trắng và xanh đen được thay bằng bộ váy màu kem, giày bệt thay bằng giày cao gót, và mùi sơn móng tay phảng phất quanh nàng. Chúng tôi nhìn những móng tay sáng bóng của nàng và thở dài luyến tiếc. Nàng nhìn chúng tôi trừng trừng và hỏi: “Cái gì vậy?”; “Không có gì, không có gì.” Chúng tôi thì thầm và lắc đầu yếu ớt. Nàng hút một hơi thuốc cao cấp đang vung vẩy trong tay rồi phà một làn khói xanh vào không khí, trộn lẫn với những giai điệu đầu tiên của bản Symphonie Fantastique. Phớt lờ đi Iwase đang thì thầm “đừng làm thế, đừng làm thế”, tôi bước về phía Claudia và nói: “Em có muốn đóng phim không?”
1 Claudia Cardinale (sinh năm 1938): Diễn viên nổi tiếng người Italia.
2 Louis Hector Berlioz (1803–1869): Nhà soạn nhạc người Pháp thuộc trường phái lãng mạn.
3 Zubin Mehta (sinh năm 1936): Nhạc trưởng người Ấn Độ, năm 2008 ông được trao giải Praemium Imperiale – một trong những giải thưởng lớn nhất của Nhật Bản.
4 Antonio Lucio Vivaldi (1678–1741): Nhà soạn nhạc, người chơi vĩ cầm, nhà sư phạm, chỉ huy dàn nhạc người Italia.
“Anh nói vậy là sao?”
“À, tụi anh định làm một bộ phim với máy quay phim tám li. Tụi anh muốn em tham gia.”
Claudia cười lớn, để cho chúng tôi thấy miếng kẹo sing gum màu hồng.
“Các anh ở trường Bắc đúng không?” Nàng nói, phớt lờ câu hỏi của tôi. Nàng đề cập đến tên của nhóm du đãng Shirokushi và hỏi tôi có biết hắn không. “Học trường cấp hai Aimitsu, cao lớn, hay mơ mộng?”
Chúng tôi gật đầu. Nàng mỉm cười và nhờ chúng tôi gửi lời chào đến hắn. Tôi hỏi tên nàng. Nàng nói là Mie Nagayama. Tôi tiếp tục nói với nàng về bộ phim cho đến khi Iwase đột nhiên đứng dậy và rồi đến Adama. Rồi chúng nắm lấy tay áo sơ mi của tôi và kéo tôi ra cửa. Nơi quầy thu ngân, chúng tôi phải bước sang nhường chỗ cho ba tay mặc đồng phục của trường Kỹ thuật bước vào. Chúng trông như những tàu sân bay, với cổ cồn cao và quần ống loe. Chúng trợn mắt nhìn và chúng tôi quay mặt đi để tránh tia nhìn của chúng. Đó là tên cầm đầu của băng Hardboy khét tiếng cùng với hai tên côn đồ. Chúng ngồi tại bàn của Mie Nagayama. Khi Mie vẫy tay tạm biệt chúng tôi, tên thủ lĩnh quay lại liếc nhìn chúng tôi. Chúng tôi nhanh chóng trả tiền, bước ra ngoài rồi chạy hộc tốc cả trăm mét. “Thì ra Mie Nagayama là thế đó.” Iwase nói rồi thở hổn hển, khò khè. Hình như nàng ta rất nổi tiếng. Không phải vì nàng là tài sản của tên cầm đầu băng nhóm, Iwase giải thích. Thực ra nàng không thuộc về ai cả nhưng nàng ăn chơi khét tiếng đến độ suýt nữa bị đuổi học. “Được rồi.” Tôi nói, “Quyết định vậy đi. Chúng ta sẽ dùng nàng trong buổi khai mạc đại nhạc hội.” Iwase rầu rĩ báo cho tôi hay là tên thủ lĩnh đó nằm trong câu lạc bộ kiếm đạo và yêu nàng tha thiết. “Hắn sẽ đánh cậu dở sống dở chết bằng thanh kiếm gỗ cho mà coi. Thôi bỏ đi.”
Adama cười vui vẻ, “Bị đánh đến chết bằng thanh kiếm gỗ à. Đừng đến gặp mình khóc lóc nếu chuyện đó xảy ra.”
Mùa mưa thê lương đã đến hồi chấm dứt. Trong buổi dọn dẹp hồ bơi ở trường, tôi lén đến sau lưng huấn luyện viên dạy bơi đã mãn kinh rồi xô bà ta xuống làn nước bẩn. Ai đó đã mách lẻo chuyện này và Aihara cho tôi mười ba cú tát vào mặt. Trong cuộc thi kiểm tra chất lượng, Adama rớt xuống vị trí thứ tám. Môn hóa năm ngoái hắn đứng đầu nhưng năm nay gần đội sổ. Tay cố vấn vào trường đại học la hét vào mặt tôi, nói tôi hủy hoại tương lai thằng bé. (Adama điểm thấp và tôi bị la lối um sùm. Tôi chẳng thể nào đoán được chuyện này). Iwase thất tình lần thứ ba trong thời trung học với một em gái đội bóng chuyền nữ. Về phần Kazuko Matsui, tôi chỉ có thêm một cơ hội nói chuyện với nàng ở hành lang trong trường. Nàng hỏi tôi về Bookends. Tôi lắp bắp là chắc chắn lần tới sẽ mang, sẽ mang lần tới. “Không sao đâu. Kazuko”, Bambi nói với tất cả vẻ dịu dàng của một thiên thần, “lúc nào cũng được mà”. Tôi phải phong tỏa trường học thành công bằng mọi giá, vì Lady Jane Bambi – thiên thần của tôi.
Chúng tôi đang trong tình trạng chuẩn bị tốt mọi chuyện. Chúng tôi sẽ tấn công, như kế hoạch, vào đêm trước lễ bế mạc năm học ngày 19 tháng Bảy. Chúng tôi có sơn và một cuộn vải khẩu hiệu. Căn cứ là nơi chủ mưu mọi hoạt động. Chi phí mua vật liệu phong tỏa hết 9.255 yên. Mỗi chúng tôi đóng 1.000 yên.
“Mọi người nghe đây.”
Tôi rà soát kế hoạch lần cuối cùng.
“Chúng ta sẽ tập hợp lúc nửa đêm, dưới cây anh đào cạnh hồ bơi. Dù làm gì đi nữa, cũng không được đi bằng taxi. Otaki? Cậu đi bộ đến nhé? Ok. Narushima, cậu cũng đi bộ luôn phải không? Fuse, Miyachi các cậu ở lại với Narushima nhé? Tốt. Matsutabe ở trọ nên mình muốn Mizoguchi, Nakamura và Hori nghỉ đêm ở đó. Rời nhà lần lượt nhé, đừng đi cùng nhau. Đừng làm bất cứ điều gì gây chú ý. Và mình chỉ nhắc nhở các cậu thế này: Chúng ta sẽ mang sơn, dây thép, kìm, dây thừng, khẩu hiệu, mang từng thứ một đến chỗ của Matsutabe và Narushima trước đi. Tôi muốn mọi người mặc đồ đen vào đêm đó. Không mang giày da. Chúng ta phải mang theo tất cả những thứ như thùng sơn không, dây thừng dư vân vân… Yamada và mình sẽ gọi cho nhà báo.”
Rồi, dùng sơn đỏ tôi viết lên vải trắng dòng chữ “Quyền lực của sự tưởng tượng”. Nó trông rất tuyệt.
Ba ngày trước khi diễn ra sự kiện lớn đó, Iwase đến phòng học của tôi để nói với tôi và Adama là hắn muốn rút lui. Người hắn đen bóng lên vì những tia nắng mặt trời mùa hè chói chang ở Kyushu, hắn nói với chúng tôi, nước mắt lưng tròng là hắn không thể phong tỏa trường học được. “Xin lỗi Ken, xin lỗi Adama. Tớ sẽ chuẩn bị mọi thứ, tớ vẫn giúp các cậu làm đại nhạc hội, nhưng tớ không ưa cái vụ phong tỏa này…” Lý do chính của những gì hắn nói không phải vì có một động thái chính trị nghiêm trọng đằng sau đó mà những gì chúng tôi định làm lớn chuyện quá. Điều này thực sự làm tôi xuống tinh thần, và tôi đã thú nhận với Adama lúc Iwase đã rời đi. “Có gì khác biệt đâu?”, hắn nói. “Ai quan tâm đến chính trị đâu? Chúng ta làm bởi vì chuyện đó vui. Ken này, chỉ cần vui là được rồi.” Dù vậy, tôi có thể nói rằng hắn cũng cảm thấy như tôi thôi.
Và rồi ngày 19 tháng Bảy đã tới.