• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. 69
  3. Trang 9

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 19
  • Sau

Nếu em là người tình1

1 Tựa chương là tên bài hát. Tạm dịch như vậy.

V

ào lúc sáu giờ sáng, Adama và tôi gọi tất cả bảy cuộc điện thoại đến các tờ báo địa phương như Asahi, Mainichi, và Yomiuri, văn phòng chính của tờ báo Tin tức miền Tây Nhật Bản, Bưu trạm Nagasaki, đài dự báo thời tiết NHK Sasebo và NBC Nagasaki.

Mục đích của những cuộc gọi là để phát đi một thông cáo sau:

“Trước bình minh hôm nay, những thành viên của Vajra, tổ chức cấp tiến mà chúng tôi tham gia, đã thực hiện thành công nhiệm vụ phong tỏa một trong những thành trì của hệ thống bộ máy đầu não tuyên truyền, trường trung học phía Bắc Sasebo.”

Đó là cái mà chúng tôi dự định nói nhưng vì là lần đầu tiên thực hiện chuyện này, nên chúng tôi nói thành: “Ừm, nghe này, hình như có ai đó đang phong tỏa trường Bắc Sasebo phải không?”

Dù vậy thì cũng không sao. Nhờ vào thông báo này mà các phương tiện truyền thông khám phá ra chiến lũy và những bức graffiti trước những người bảo vệ, các giáo viên, các sinh viên, và những người sống xung quanh trường.

NHK và NBC tường thuật lúc bảy giờ sáng trên mục Tin tức địa phương.

Quá căng thẳng và phấn khích, tôi không thể ngủ được. Khi tôi nằm trên giường kiểm tra đi kiểm tra lại cả trăm lần để chắc chắn rằng không có bất kỳ vết sơn bẩn nào trên người thì cha tôi sau khi xem tin tức thời sự bước vào phòng. Mặt ông hiện rõ sự khiếp sợ.

“Ken-bo này.” Cha tôi nói, dùng biệt danh của tôi khi còn nhỏ. Cha mẹ đã gọi tôi bằng cái tên Ken từ năm cuối tiểu học, nhưng bất cứ khi nào mối quan hệ giữa chúng tôi trở nên căng thẳng họ đều gọi tôi là Ken-bo. Có lẽ đó là cách thức bản năng để chỉ ra cha mẹ tôi đã đánh mất những ngày tháng tươi đẹp trước đây khi tôi còn nhỏ. Dù sao đi nữa, ngay khi tôi vừa biết được tin tức vụ phong tỏa trên tivi thì cha tôi đã gọi tôi.

“Ken-bo, hãy nhìn vào mắt cha.” Ông ấy nói. Cha tôi là một giáo viên dạy nghệ thuật trong suốt hai mươi năm. Ông cau mày và nhìn chăm chú vào tôi, cha dư khả năng để nhận biết nếu con mình nói dối. Tôi nhìn lại ông với vẻ mặt tỉnh rụi và sự kích động mãnh liệt hiện rõ trên mặt tôi nhưng hình như cha cho rằng tôi vô tội. Ngay cả một giáo viên kỳ cựu cũng có thể bị con mình lừa. Sự thật là những hành động cực đoan của con giáo viên được quy về sự giáo dục nghiêm khắc của họ nhưng đằng sau sự nghiêm khắc ấy là khuynh hướng làm hư chúng. Dạy học là một nghề kỳ lạ. Nó cũng giống như một sĩ quan dân quân tự vệ hoặc là một cảnh sát. Mặc dù hầu hết những người làm nghề đó đều là những kẻ ngớ ngẩn, nhếch nhác nhưng công chúng nói chung – hay ít nhất trong tỉnh này – đều đối xử với họ với một lòng tôn kính. Điều đó không phải do họ làm nên mà là tàn dư của những năm tiền chiến, khi mà sự kính trọng là phần thưởng của dân chúng dành cho sự đóng góp của họ với chủ nghĩa phát xít. Khi còn là một giáo viên, cha tôi luôn luôn sử dụng những hình phạt thể xác. Ông không những đánh học sinh mà còn đánh cả hiệu trưởng trường và cả chủ tịch hội phụ huynh học sinh. Dù vậy, chưa bao giờ cha đánh tôi. Có một lần tôi hỏi tại sao và cha trả lời rằng con mình rất đáng yêu nên ông không thể đánh chúng. Cha tôi là một ông già lương thiện.

“Được rồi”, cha tôi nói, “con đã không làm chuyện đó đúng không?”

Tôi dụi mắt, giả vờ như đang ngái ngủ. “Cha đang nói về cái gì vậy?”

“Ai đó đã phong tỏa trường Bắc.”

Tôi mở to mắt và nhảy ra khỏi giường. Tôi xỏ chân vào quần trong ba giây, mặc áo trong bốn giây, và đi đôi vớ hai giây. Thấy tôi vỗ tay đen đét cha tôi dường như càng thêm tin là con mình vô tội. Tôi lao xuống cầu thang và ra cửa, gọi váng với mẹ tôi rằng tôi không ăn sáng và chạy hết tốc lực khoảng 100 mét, rồi đi chậm lại thơ thẩn.

Khi tôi đến chân dốc trước trường, tôi có thể nhìn thấy biểu ngữ:

“Quyền lực của sự tưởng tượng”

Thật là một quang cảnh kích động. Chúng tôi đã thay đổi cơ đồ thiên hạ bằng chính sức mình.

Tôi trèo lên dốc với con tim hứng khởi. Thầy giáo dạy lý với khoảng một tá học sinh tụ tập ở cổng trước, cố gắng lau những hình vẽ trên tường. Mùi sơn vẫn còn vương trong không khí. Tôi thấy kinh tởm những đứa học sinh đang nôn nóng muốn mọi chuyện trở lại bình thường. Ai đó ở đài phát thanh đang phỏng vấn chúng:

“Bạn nghĩ ai đã làm điều này?”

“Đó không thể là bất kỳ ai ở đây. Học sinh trường Bắc không thể làm chuyện như vậy được.” Một em gái vớ vẩn với sơn xanh đầy tay nói. Giọng nói của nàng ta nghèn nghẹn vì nước mắt.

Khi tôi vào đến lớp học, Adama cười với tôi và nháy mắt, và khi không ai nhìn thấy, chúng tôi bắt tay nhau.

Đã tám rưỡi mà các lớp học vẫn chưa bắt đầu. Nhà trường đã thông báo qua loa rằng học sinh hãy đợi trong lớp học nhưng cả trường đang trong sự hoảng loạn.

Trực thăng bay trên đầu. Một đội học sinh rác rưởi đang giúp giáo viên thể dục tháo dỡ những thứ trên nóc nhà. Một nhóm rác rưởi khác – phó chủ tịch hội học sinh – đang cố dùng miếng giẻ sũng nước để xóa đi chữ “Giết” màu đỏ mà tôi đã sơn ở ngay cổng trường. Ông ta quỳ xuống khóc khi chùi những vết sơn. Khi phát hiện ra tôi, ông ta lao đến. Mắt đỏ hoe. Ông ta chộp lấy cổ áo tôi với đôi tay đang cầm miếng giẻ rách.

“Yazaki, đó không phải là em chứ, phải không? Em không làm điều đó, không phải là một trong bọn chúng phải không? Thầy không thể tin bất cứ học sinh trường Bắc nào lại có thể làm điều này với chính ngôi trường của mình. Hãy nói với thầy là em không làm điều đó đi, mẹ kiếp, nói đi chứ.”

Miếng giẻ rách ông ta cầm đã lạnh, và tôi chẳng thích nó ấn vào cổ tôi chút nào. Tôi tính đấm cho ông ta một quả, nhưng sợ gây sự chú ý vì thế tôi trợn mắt lên, nhe răng ra – hàm răng của thằng bé mới mười bảy tuổi mà đã xám xịt – rồi hét “Buông tôi ra!”. Tôi không thể ngờ ông ta lại ỉu xìu đến thế. Vài kẻ vẽ bậy bạ lên tường trường học vậy mà cũng bù lu bù loa lên? Vậy đó là gì? Một ngôi đền thiêng à? Dù vậy loại người này rất nguy hiểm. Rất ngây thơ. Những kẻ như vậy là những kẻ sát nhân, tra tấn và cưỡng hiếp ở Hàn Quốc và Trung Quốc. Loại người như vậy kêu khóc vì bức tường vẽ graffiti, nhưng lại xem như chẳng có chuyện gì nếu bạn gái cùng lớp họ lăng nhăng với thủy thủ ngay khi tốt nghiệp phổ thông.

“Ken, nhượng bộ đi.”

Adama đã nhìn thấy cuộc cãi nhau của tôi với lão phó chủ tịch hội học sinh.

“Không, đời nào. Nhưng rõ ràng lão khốn đó trên cơ mình.”

“Đúng vậy. Thật ngạc nhiên là lão ấy lại quỳ xuống sàn nhà chùi rửa như vậy. Hạng người đó mà cũng để tay dính nước kia đấy.”

“Mình biết. Làm sao người ta lại quá căng thẳng vậy nhỉ? Mình nhượng bộ chỉ bởi vì lão ta quá lấn lướt thôi.”

“Đối với cậu đây không phải là cuộc chiến.” “Vậy là thế nào? Mình đang tự hỏi đây.”

“Có lẽ, bởi vì đây không phải là trận chiến đẹp.” “Cậu nói vậy là sao?”

“Động cơ của chúng ta không trong sáng.” “Động cơ à? Về việc phong tỏa trường học ư?” “Nó không như việc chúng ta sẽ chết nếu không giành chiến thắng.”

“Cậu biết gì về cái chết hả Adama? Cậu có biết bao nhiêu người Việt Nam đang chết mỗi ngày không?”

Bất cứ khi nào tôi bắt đầu nói những lời sáo rỗng như vậy thì tự nhiên tôi nói giọng chuẩn Nhật Bản. Không hiểu sao cái tổ chức vớ vẩn Ủy ban hòa bình Việt Nam hễ cứ diễn thuyết là tôi thấy buồn cười.

“Việt Nam? Đúng.”

“Cái đồ chết tiệt như hắn đã từng phát điên lên ở Nam Kinh, Thượng Hải và những nơi như thế mà.”

“Nam Kinh à, đúng vậy đấy. Nhưng nghe này, mày không cảm thấy đôi chút kỳ lạ khi cả lũ ra ngoài dọn dẹp lau chùi thế này à?”

“Tất nhiên là như thế. Tao không biết là có nhiều kẻ lại ủng hộ cái hệ thống chết tiệt này.”

“Đó không phải là điều tao muốn nói.” “Ồ?”

“Ý tao là dường như chúng ta đã tạo dịp cho bọn chúng nó thể hiện sự hăng hái.”

Có một vẻ buồn nản khi Adama nói điều này. Hắn luôn như vậy. Hắn nói như thể chúng tôi đã làm chuyện vô ích. Nhưng Adama thật sự biết cách thuyết phục.

Một đám đông học sinh đứng ngoài sân trường trong ánh nắng tháng Bảy, đang khó nhọc lau chùi bức vẽ graffiti khỏi cửa sổ của phòng giáo viên và bức tường của thư viện. Có lẽ Adama đã đúng: không phải chỉ có những đứa học sinh xuất sắc cầm giẻ lau mà còn có cả những đứa ngu ngốc nhất nữa – những đứa biết khả năng thấp kém của mình và tự ti đến mức muốn tự sát.

Nakamura đang đứng bên ngoài phòng của hiệu trưởng, trông nhợt nhạt như một con ma. Hắn cũng đang cầm một cái giẻ. Khi hắn nhìn thấy Adama và tôi, hắn nở một nụ cười nhỏ xíu trên môi.

“Cậu đang làm quái gì với cái thứ trên tay vậy?” Adama hỏi.

Nakamura liếm môi căng thẳng.

“Tớ nghĩ ngồi yên một chỗ là chẳng thông minh chút nào. Điều đó sẽ gây nghi ngờ. Hãy nhớ mình là kẻ KHÔNG CÓ VÂN TAY. Nhưng dù sao, Ken-san, lạ thật đấy nhỉ.”

“Gì cơ?”

Đột nhiên Adama chộp lấy tay áo tôi, kéo tôi ngồi xuống và giả vờ lau sàn nhà. Nakamura và tôi nhanh chóng làm theo. Đi dọc theo hành lang về phía chúng tôi là người cố vấn, hai người bảo vệ, phó hiệu trưởng, một cảnh sát mặc đồng phục, và một người đàn ông khác trông giống như thám tử chìm. Tôi liếc nhìn viên cảnh sát và rùng mình. Tại sao những tên cớm lại rung và lắc nhiều như vậy khi chúng đi? Ông ta mang đôi giày nặng nề có dây buộc và nó gây ra nhiều tiếng ồn. Khi đôi dép của tay cố vấn dừng lại ngay trước mặt tôi, tôi nghĩ trái tim mình sẽ nổ tung. Màn lắc và rung của mấy tên cớm cũng chấm dứt theo.

“Này các em.” Tay cố vấn nói.

Tôi nhìn ông ta, cảm giác như thể tất cả hơi thở đã thoát ra khỏi mình.

“Các em sẽ chẳng bao giờ chùi sạch sơn nếu cứ lau sàn theo kiểu đó. Thầy sẽ mời mấy chuyên gia đến để tẩy rửa. Thầy hiểu cảm giác của các em nhưng thầy muốn các em trở lại lớp học. Giờ học sẽ bắt đầu sớm thôi và chúng ta sẽ tổ chức lễ bế mạc năm học theo đúng kế hoạch. Đi nào các em.”

Tôi sợ đến phát điên. Tôi hình dung cảnh tượng chúng tôi bị bắt giữ và bị treo cổ ngay tại đây. Nhưng tôi cảm thấy khá hơn khi nhìn thấy sự căng thẳng trên khuôn mặt và nếp nhăn hằn sâu giữa đôi lông mày của viên quản lý. Đây chính là gã đã bắt tôi trong một quán cà phê nhạc jazz khi tôi đang nghe Antonio Carlos Jobim1. Hắn giật lấy ly Coca của tôi, tát tôi cả chục phát và phạt tôi bốn ngày không được đến trường. Vậy mà cái gã khốn kiếp này lại hay thuyết giảng về luật, những hành vi vi phạm pháp luật và còn trích dẫn Khổng Tử trong những bài diễn văn vào các dịp lễ lớn của trường. Hắn ta là một gã cao kều với mái tóc bạc, và cũng đã viết một vài cuốn sách về luật hình sự trong thế giới cổ xưa. Và cách hắn giải quyết những vấn đề như thế cũng đúng trong thực tế. Hắn luôn giữ bình tĩnh, chỉ giương đôi mắt lạnh lùng và nói: “Mày là đồ rác rưởi, chúng tao không có đủ thời gian để đào tạo chúng mày trở thành tử tế được đâu, vì vậy tại sao chúng mày không biến mất hoặc tìm một trường khác nếu chúng mày không thích ở đây?” Và thằng khốn này đang lê bước đến phòng giáo viên với đôi vai ủ rũ và gương mặt xanh xao. Tôi nghe thấy thầy hiệu phó nói: “Đây đúng là sự nhục nhã lớn nhất trong lịch sử của trường này.”

1 Antonio Carlos Brasileiro de Almeida Jobim (1927–1994): Nhạc sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ chơi piano và guitar người Brazil. Năm 1964, ông được trao giải Grammy.

Trong lịch sử của trường này à. Adama và tôi cười toe toét và bắt tay nhau một lần nữa.

Adama đề nghị chúng tôi nhìn qua một vòng quanh mái trường. Nakamura đi theo chúng tôi.

“Cậu đang nói là có chuyện gì đó rất lạ à?” Adama nói với hắn khi chúng tôi trèo lên bậc thang. Đám học sinh đang dùng giẻ lau những cây cột trên đỉnh cầu thang mà chúng tôi đã bôi bẩn.

“À, các cậu biết đấy. Chuyện này đã ảnh hưởng mạnh đến suy nghĩ của mình. Vì thế, điều đầu tiên mình làm khi đến trường là kiểm tra phòng hiệu trưởng và các cậu biết gì không? Thậm chí không có chút mùi hay dấu vết gì.”

Tôi không ngạc nhiên. Bãi cứt là thứ đầu tiên mà họ phải dọn.

“À, điều mà tớ muốn nói là mình đã ngửi thấy mùi tẩy uế hay thứ gì tương tự vậy.”

“Chắc chắn đó là nhân viên bảo vệ. Họ bị đánh thức lúc sáu giờ sáng hay vào khoảng thời gian đó. Sau khi tìm thấy những bức vẽ graffiti, bọn họ cuống cuồng lên và đi thẳng đến phòng giáo viên và phòng hiệu trưởng để kiểm tra. Ngay khi nhìn thấy sự lộn xộn, họ đã thu dọn lại. Và sau đó là một đống cứt, chà, điều đó thì thật sự không được vui cho lắm.” Adama bình tĩnh suy luận như vậy.

“Hả? Cậu nói ‘không được vui’ nghĩa là sao?” “Nakamura này”, tôi nói, “cậu có nghĩ là có một ý thức hệ nào trong cục cứt không?”

“Ý thức hệ… trong cục cứt à? Không, mình cho là không đâu.”

“Ngay cả thời gian trước chiến tranh, cảnh sát mật thường dung túng cho những tên tội phạm chính trị ít nhất một thời gian, nhưng những kẻ thực hiện hành vi phạm tội mà không dựa vào một ý thức hệ nào thì sẽ bị đối xử rất khắc nghiệt. Và chúng ta đang nói về những cục cứt. Nó không chỉ bẩn thỉu thôi đâu. Nó còn là thứ không thể hình dung được, một sự điên khùng.”

“Đợi chút, Ken-san.” Nakamura nói khi chúng tôi lên nửa chừng cầu thang. “Cậu là người bảo tớ làm việc đó.” Hắn rên rỉ.

“Mày nghĩ có bao nhiêu đứa học sinh dám ỉa lên bàn giáo viên chỉ vì người ta bảo hắn làm vậy. Mày có nghĩ đó là trò cười không?”

Hắn dường như sắp khóc. Adama để tay lên vai Nakamura và cố gắng làm hắn bình tĩnh lại.

“Ken chỉ đùa thôi. Cậu ta chỉ chọc ghẹo cậu thôi mà, có gì đâu.”

Và đúng vậy, chuyện chất thải không bao giờ được đưa ra ánh sáng. Theo như tôi biết thì nó không được đề cập trên giấy, trên đài phát thanh, bản tường thuật trên tivi hoặc trong bản tuyên bố của cảnh sát, và thậm chí hiệu trưởng cũng không đề cập đến chuyện đó. Vì vậy, chắc hẳn người bảo vệ đã lau dọn chúng và quyết định giữ kín như một bí mật nhỏ của riêng mình.

Để trả đũa tôi, Nakamura hỏi: “Ken-san, cậu là người đã viết chữ ‘Chiến đấu’ trên bức tường thư viện, đúng không?”

“Phải, chính là tớ.”

“Cậu đã viết sai chính tả.” “Hả?”

“Cậu đã viết lầm chữ “thí” thay cho chữ “võ”. Mọi người đều đang nói về điều này. Họ nói đó không thể là một học sinh trường Bắc được bởi vì nếu có học sinh nào ngu ngốc như vậy, họ sẽ tìm ra bằng bài thi chính tả.”

Adama rũ ra cười. Nakamura trở nên vui vẻ hơn. Họ gần hoàn thành việc dỡ bỏ chiến lũy. Aihara đang dùng kìm cắt dây, và Kawasaki đang đẩy những bàn ghế chắn cửa sang một bên. Hai người mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Aihara ngừng tay, nhìn tôi và nhe răng cười.

“Yazaki. Em đang làm gì ở đây vậy?”

Đó là câu hỏi ngu ngốc mà tôi không muốn dính dáng đến. Tôi không muốn nói dối hèn nhát như “dạ, em đến để giúp tháo dỡ cái chiến lũy này”. Và dù sao đi nữa, sự khinh bỉ và ghê tởm về lời nói mỉa mai này sẽ hiện rõ trên khuôn mặt tôi và làm tôi lộ tẩy.

“Dạ, em chỉ muốn đến xem cái chiến lũy như thế nào thôi, thưa thầy.”

Cái cười toe toét của Aihara biến mất và hắn quắc mắt nhìn tôi.

“Không phải em làm chứ?” Kawasaki nói. Cái áo sơ mi dính chặt vào da hắn. Tôi cố gắng lẩn tránh câu hỏi với một nụ cười trên môi nhưng má tôi co giật và nó suýt tố cáo tôi. May mắn thay, tại thời điểm đó hầu hết tất cả giáo viên đều nghĩ việc phong tỏa đó là do người ngoài làm.

“Phì”, tôi phát ra tiếng đó khi cố gắng cười bằng giọng mũi.

“Nếu tôi phát hiện ra em có dính dáng đến vụ này thì tôi sẽ bóp cổ em đấy.” Aihara nói.

Tôi đâm sầm vào Jane ở hành lang. Nàng đang chắp tay sau lưng và ngân nga bài Nếu em là người tình. Nàng mỉm cười với tôi. Tôi nhận thấy nàng không mang giẻ và không đổ mồ hôi – tất nhiên điều đó có nghĩa là nàng không lau chùi những hình vẽ graffiti. “Chào anh, Yazaki-san.” Nàng nói với một giọng cao, và rõ ràng mơn man như gió mùa xuân. Nàng để lại mùi hương chanh của dầu gội đầu phảng phất sau mỗi bước chân. Dũng khí dâng đầy trong tôi. Tôi tự hào, thật sự tự hào về những gì mà chúng tôi đã làm.

Từ phía trước của tòa nhà chính, tôi nhìn thấy tấm biểu ngữ đã bị hạ xuống. Aihara và Kawasaki cuộn nó lại và nhét vào trong một hộp các tông lớn.

Những chiếc trực thăng vẫn lượn lờ trên bầu trời xanh tháng Bảy đầy mây. Cái chiến lũy của chúng tôi chỉ tồn tại chưa đến nửa ngày, nhưng chúng tôi cảm giác như mây trắng trời xanh đều đứng về phía chúng tôi.

Vào ngày thứ ba của kỳ nghỉ hè, trong khi tôi ngồi trong nhà ăn kem và xem kịch Melô phát lại trên tivi thì bốn thám tử ghé thăm nhà tôi.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 19
  • Sau