Ngày 6-12-1953, Bác Hồ chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ với bí danh “Trần Đình”. Bộ Chính trị ra quyết nghị thành lập Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ và cử đồng chí Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng Chiến dịch làm Bí thư Đảng ủy.
Giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bác Hồ nói: “Tướng quân tại ngoại... Giao cho chú toàn quyền quyết định. Chắc thắng thì đánh, không chắc thắng thì không đánh...”.
Những ngày đầu tháng 12-1953, tại Mặt trận Điện Biên Phủ, do lực lượng địch chưa được tăng cường, trận địa phòng ngự của chúng mới được xây dựng chưa ổn định và kiên cố, đang ở cấp độ trận địa dã chiến, nên Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã hạ quyết tâm tập trung lực lượng để tiêu diệt quân thù với phương châm: “Đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Theo đó, kế hoạch tác chiến Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tư lệnh dự kiến phải sử dụng ba Đại đoàn bộ binh, toàn bộ pháo binh, công binh và phòng không với số quân tham gia chiến đấu khoảng 35.000 người. Nếu kể cả cơ quan chỉ huy chiến dịch, các đơn vị trực thuộc, bộ đội bảo vệ, tuyến cung cấp, bộ đội bổ sung thì quân số tham gia chiến dịch ước khoảng 42.000 người. Thời gian theo kế hoạch “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” trong hai, ba ngày, thời điểm nổ súng (giờ G) là 17 giờ ngày 25-1-1954 (sau là ngày 26-1-1954).
Tại hội nghị Cán bộ quân chính cấp Trung đoàn, Đại đoàn toàn Mặt trận tại hang Thẩm Púa - Sở chỉ huy lâm thời của Bộ chỉ huy chiến dịch, Đại tướng - Tổng tư lệnh trực tiếp phổ biến mục đích, ý nghĩa của chiến dịch và giao nhiệm vụ cho các đại đoàn tham chiến. Riêng các đơn vị pháo binh, Đại tướng Chỉ huy trưởng Mặt trận thông báo: Bộ chỉ huy Mặt trận khen “Hành quân cơ giới giỏi” được tặng thưởng Huân chương Chiến công. Và giao nhiệm vụ đưa đại bộ phận lựu pháo và pháo cao xạ vào bố trí trận địa ở phía bắc tập đoàn cứ điểm của địch. Phải mở ngay một con đường vắt qua núi để dùng sức người kéo pháo từ đường 41 (nay là đường 42) sang đường Điện Biên đi Lai Châu, trong một ngày đêm con đường đó phải hoàn thành. Chúng ta chủ trương kéo pháo bằng sức người, không phải chúng ta không làm được đường cho xe kéo, mà chính là để giữ bí mật, để giành yếu tố bất ngờ, nhất là bất ngờ về hỏa lực lựu pháo và pháo cao xạ, trọng pháo đầu tiên của quân đội ta tham gia chiến đấu.
Nhiệm vụ mở đường được giao cho Đại đoàn 308, một tiểu đoàn công binh của Trung đoàn 151 và năm đại đội sơn pháo của Trung đoàn pháo binh 675, con đường không có trên bản đồ. Với lực lượng hơn 5.000 cán bộ, chiến sĩ chỉ trong một đêm 14-1-1954 đã bí mật hoàn thành con đường dài 15 ki-lô-mét, rộng3 mét từ bản Nà Nham (km70 đường 41) men theo các sườn núi hiểm trở, qua nhiều dốc, đèo, núi cao (như đỉnh Pu Pha Sông - 1.150 mét) nhiều vực sâu (vực Nậm Khô Hu) đến gặp đường Điện Biên đi Lai Châu ở bản Tấu.
Nhiệm vụ kéo pháo do Đại đoàn 312 và lực lượng của Trung đoàn Pháo cao xạ 367 và Trung đoàn Pháo binh 45 đảm nhiệm. Do yêu cầu quan trọng của việc kéo pháo, ngày 15-1-1954, Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định thành lập Bộ chỉ huy kéo pháo, đồng thời cho kéo thử khẩu lựu pháo 105 ly và một khẩu pháo cao xạ để rút kinh nghiệm.
Lúc đầu, để kéo một khẩu pháo phải sử dụng 20 chiến sĩ bộ binh, tổ chức thành hai “dây”, mỗi “dây” do 10 người kéo. Các pháo thủ, người cầm lái, người chèn, đẩy pháo; các cán bộ trung đội, đại đội pháo trực tiếp chỉ huy kéo pháo. Càng lên cao, việc kéo pháo càng khó khăn hơn, tốc độ cứ chậm dần lại. Mỗi khẩu pháo phải đấu thêm hai “dây” nữa (40 người), có dốc cao quá đã phải tập trung tới 100 người. Hàng chục, hàng trăm chiến sĩ khỏe mạnh cúi rạp mình theo sườn dốc, rướn hết sức để kéo, đẩy pháo theo nhịp hô của người chỉ huy: “hai, ba nào” nhưng sau mỗi nhịp hô như vậy, những “chú voi” nặng 2,5 tấn cũng chỉ nhích lên được 20 cen-ti-mét đến 30 cen-ti-mét. Vì vậy, sau một ngày đêm mỗi khẩu pháo chỉ đi được quãng đường từ 2 đến 3 ki-lô-mét.
Kéo pháo vào đã vô cùng gian khổ, kéo pháo ra còn quyết liệt gian khổ hơn nhiều. Chiều ngày 26-1-1954, Trung đoàn 45 trọng pháo Tất Thắng chuẩnbị bắn những loạt đại bác đầu tiên mở màn chiến dịch, thì nhận được lệnh của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng Mặt trận trực tiếp ra lệnh cho pháo binh: “Từ 17 giờ hôm nay,kéo pháo ra khỏi trận địa, lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị lại. Triệt để chấp hành mệnh lệnh! Không giải thích”.
Thật ra ngày ấy, chúng tôi chưa hiểu được ý nghĩa mang tầm chiến lược của quyết định thay đổi phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc” nhưng một niềm tin sắt đá vào Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy, vào Bác Hồ kính yêu và Đại tướng Tổng tư lệnh, Chỉ huy Mặt trận mà toàn thể các đơn vị, các cán bộ, chiến sĩ trên chiến trường Điện Biên đồng lòng quyết tâm với ý thức chấp hành kỷ luật “Quân lệnh như sơn” đã vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ hy sinh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ “Kéo pháo vào - Kéo pháo ra”.
Tiếp tục trận chiến đấu “kéo pháo ra”, thử thách ý chí quyết chiến quyết thắng của pháo binh và bộ binh trên mặt trận. Lại “hò dô ta nào”, “hai, ba nào”, “hò dô ta nào”, “hai, ba nào”…
…Kéo pháo vượt những đèo dốc đứng đến 60 độ như dốc Bảy Tời, vực sâu vườn Chuối, suối Ngựa, suối Cây Cụt, cửa rừng Bản Tó. Mỗi một địa danh trên là một trọng điểm, pháo binh địch luôn bắn chặn, cản đường; máy bay địch ném bom na-pan thiêu cháy rừng, không ngày đêm nào là không có thương vong, mỗi khi có một đại đội pháo vượt qua được một cửa ải trên là như đã lập được một chiến công.
Không thể kể hết những tình huống bất trắc xảy ra trên đường kéo pháo. Có lần đang vượt đèo dốc, máy bay địch săn lùng mục tiêu, chúng dùng bom cháy (na-pan), đạn lửa đánh phá chặn đường, rừng bốc cháy, ngọn lửa lan nhanh vây quanh pháo. Cứu người hay cứu pháo? Không cần chờ lệnh, mọi người lập tức lao vào dập lửa, “ưu tiên” cứu pháo. Có lần đang trên đường lên dốc, bất ngờ đứt dây tời, hơn bốn chục con người cố gắng ghìm lại nhưng không cưỡng nổi, bị pháo kéo lê, lao nhanh xuống dốc. Không chần chừ, các pháo thủ rượt theo pháo để chèn. Pháo thủ Chức nhanh hơn lao vào chèn trước, pháo vượt chèn, chồm qua người Chức, mất đà quặt đâm vào một gốc cây dừng lại. Chức hy sinh. Mọi người nghẹn ngào, xúc động cảm phục gương hy sinh quên mình cứu pháo của liệt sĩ Nguyễn Văn Chức. Cũng như gương Anh hùng Tô Vĩnh Diện (pháo cao xạ), hy sinh cứu pháo đã nhanh chóng được truyền tới các đơn vị trên toàn mặt trận.
Đêm đêm, tiếng “hò dô ta nào”, tiếng mõ tre “cốc, cốc” làm hiệu lệnh, dưới ánh trăng mờ ảo bởi tán cây che khuất, hàng trăm chiến sĩ mình mặc áo trấn thủ, đầu đội mũ nan, cúi rạp người choãi chân, những bắp tay cuồn cuộn bám vào dây chão, dây cóc, dây mây, dây song để kéo pháo. Đêm tháng Chạp, tiết trời khá lạnh, song mồ hôi của các chiến sĩ đã thấm ướt trên vai áo nhiều người. Hàng chục pháo thủ bám quanh khẩu pháo phủ đầy lá ngụy trang, người cầm chèn, người đẩy pháo, người bắt bánh, người giữ càng lái… Tất cả những hình ảnh, những âm thanh ấy đã tạo nên một bức tranh thật hùng vĩ, một không khí thật náo nhiệt, hừng hực khí thế quyết chiến quyết thắng, làm vang động cả núi rừng Điện Biên.
Chính trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt như là huyền thoại ấy, đã trào dâng những cảm xúc mãnh liệt để chiến sĩ Điện Biên Hoàng Vân sáng tác bài “Hò kéo pháo” ngay tại mặt trận, giữa bom đạn đánh phá ác liệt của địch trên đường kéo pháo vào trận địa trước “giờ G”:
“Hò dô ta nào, Kéo pháo ta vượt qua đèo… Hò dô ta nào, Kéo pháo ta vượt qua núi… Dốc núi cao cao,... Tới đích rồi đồng chí pháo binh ơi! Vinh quang thay sức người lao động. Hò dô ta pháo ta vượt đèo. Thề quyết tâm bắn tan đồn thù. Hò… dô!”.
Hoàng Vân là Đại đội trưởng Đại đội độc lập thuộc Trung đoàn 165, Đại đoàn 312. Vì biết tiếng Pháp, anh được điều động tham gia công tác ở Ban Địch vận, viết truyền đơn, tuyên truyền làm công tác binh vận, rồi sau được điều lên tổ công tác của Ban chỉ huy Mặt trận do đồng chí Lê Liêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chính ủy Mặt trận phụ trách. Tổ công tác gồm những cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn ở các Đại đoàn với nhiệm vụ cơ động, sẵn sàng nhận và thực hiện mọi nhiệm vụ theo yêu cầu của Mặt trận, số đông là trí thức, có văn hóa, trong đó có nhạc sĩ Lương Ngọc Trác, diễn viên văn công Kim Ngọc.
Khi Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp biết về bài “Hò kéo pháo”, Đại tướng yêu cầu hát cho cơ quan tham mưu và Đại tướng nghe ở Sở chỉ huy Mường Phăng và ông yêu cầu phổ biến bài hát cho các chiến sĩ trên toàn Mặt trận. Bài hát đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi không chỉ riêng trong các đơn vị kéo pháo mà đến với tất cả các đơn vị tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đêm đêm, trên con đường kéo pháo những địa danh đã trở thành huyền thoại như vườn Chuối, suối Ngựa, dốc Bảy Tời, đèo Cụ Mậu… đã trở thành bản anh hùng ca mở đầu cho Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Cùng với bài hát “Giải phóng Điện Biên”, “Hò kéo pháo” đã trở thành một trong những bài ca đi cùng năm tháng của Bộ đội Pháo binh anh hùng.
Âm vang “Hò kéo pháo” theo chúng tôi, những người lính pháo đi khắp các chiến trường, khắp các nẻo đường chiến trận, đồng hành cùng dân tộc đi suốt cuộc trường chinh chống giặc ngoại xâm, trong thời chiến, thời bình, thời kỳ đổi mới và ngay cả hôm nay trong cuộc sống hiện tại, bất cứ ở đâu, lúc nào, “Âm vang hò kéo pháo” vẫn vọng về động viên, thôi thúc chúng tôi hãy sống xứng đáng với tinh thần và khí phách Điện Biên, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ biên giới đất liền và biển đảo của Tổ quốc thân yêu.