Ngày 7 tháng 5 năm 2019, kỷ niệm 65 năm Ngày chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đây là một trong những ngày kỷ niệm đặc biệt đối với những cựu chiến binh pháo binh chúng tôi. Những ngày này biết bao kỷ niệm sâu sắc, biết bao hình ảnh, hồi ức chiến đấu của bản thân và đồng đội, với tinh thần và khí phách Điện Biên dồn dập ùa về qua âm vang bài ca “Hò kéo pháo” của nhạc sĩ Hoàng Vân. Bài hát sôi động, hào hùng, khơi dậy niềm xúc động, tự hào một thời được là chiến sĩ Điện Biên, là anh “Bộ đội Cụ Hồ” của nhân dân. Khi chỉ còn ba tháng là đến ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ thì nhạc sĩ Hoàng Vân đã ra đi về cõi vĩnh hằng theo Đại tướng Tổng Tư lệnh, Chỉ huy trưởng Mặt trận Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp vào ngày 4 tháng 2 năm 2018 tức ngày 19 tháng Chạp năm Đinh Dậu, hưởng thọ 89 tuổi. Để tri ân người nhạc sĩ tài ba đức độ, cùng liệt sĩ Nguyễn Văn Chức - người pháo thủ hy sinh quên mình chèn pháo, tạo cảm xúc mãnh liệt cho người chiến sĩ Điện Biên Hoàng Vân viết nên bản hùng ca “Hò kéo pháo” - bài ca đi cùng năm tháng được nhiều thế hệ yêu nước, tôi xin ghi lại câu chuyện ông kể khi chúng tôi cùng đại diện Lữ đoàn 45 Pháo binh Tất Thắng đến thăm ông và xin ý kiến ông, một nhân chứng sống trực tiếp đi cùng đơn vị trong “chiến dịch kéo pháo” ở Điện Biên Phủ năm xưa. Chuyện ông kể:
“Khi sáng tác bài “Hò kéo pháo”, tôi chưa phải là nhạc sĩ, mà là người lính, là Đại đội trưởng Đại đội độc lập, Trung đoàn 165, Đại đoàn 312. Vì biết tiếng Pháp, tôi được điều động tham gia công tác ở Ban Địch vận, rồi sau được điều lên tổ công tác của Ban chỉ huy Mặt trận do đồng chí Lê Liêm - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận phụ trách. Tổ công tác gồm những cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn ở các Đại đoàn với nhiệm vụ cơ động, sẵn sàng nhận và thực hiện mọi nhiệm vụ theo yêu cầu của Mặt trận, số đông là trí thức, có văn hóa, trong đó có nhạc sĩ Lương Ngọc Trác, diễn viên văn công Kim Ngọc.
Hơn hai phần ba thế kỷ đã trôi qua, ký ức cuộc đời việc nhớ, việc quên, nhưng ký ức Điện Biên với “Hò kéo pháo” đối với tôi lúc nào cũng như hiện hữu. Đó là những ngày tổ công tác chúng tôi đi cùng với pháo binh trong những ngày kéo pháo vào chiến dịch.
Tôi vẫn nhớ, những ngày đầu tháng 12-1953, tại Mặt trận Điện Biên Phủ, do lực lượng địch chưa được tăng cường, trận địa phòng ngự của chúng tôi được xây dựng chưa ổn định và kiên cố, đang ở cấp độ trận địa dã chiến, nên Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã hạ quyết tâm tập trung lực lượng để tiêu diệt quân thù với phương châm: “Đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Theo đó, kế hoạch tác chiến Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Tổng Tư lệnh dự kiến phải sử dụng ba Đại đoàn bộ binh, toàn bộ pháo binh, công binh và phòng không với số quân tham gia chiến đấu khoảng 35.000 người. Nếu kể cả cơ quan chỉ huy chiến dịch, các đơn vị trực thuộc, bộ đội bảo vệ, tuyến cung cấp, bộ đội bổ sung thì quân số tham gia chiến dịch ước khoảng 42.000 người. Thời gian theo kế hoạch “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” trong hai đến ba ngày, thời điểm nổ súng là 17 giờ ngày 25-1-1954 (sau là ngày 26-1-1954).
Ngày 14-1-1954 tại Hội nghị Cán bộ quân chính cấp Trung đoàn, Đại đoàn toàn Mặt trận tại hang ThẩmPúa - Sở chỉ huy lâm thời của Bộ chỉ huy chiến dịch, Đại tướng - Tổng Tư lệnh trực tiếp phổ biến mục đích, ý nghĩa của chiến dịch và giao nhiệm vụ cho các đại đoàn tham chiến. Đại tướng giao nhiệm vụ đưa đại bộ phận lựu đạn và pháo cao xạ vào bố trí trận địa ở phía bắc tập đoàn cứ điểm của địch. Phải mở ngay một con đường vắt qua núi để dùng sức người kéo pháo từ đường 41 (nay là đường 42) sang đường Điện Biên đi Lai Châu, trong một ngày đêm con đường đó phải hoàn thành. Chúng ta chủ trương kéo pháo bằng sức người, không phải chúng ta không làm được đường cho xe kéo, mà chính là để giữ bí mật, để tạo yếu tố bất ngờ, nhất là bất ngờ về hỏa lực lựu pháo và pháo cao xạ, trọng pháo đầu tiên của quân đội ta tham gia chiến đấu.
Nhiệm vụ mở đường được giao cho Đại đoàn 308, một tiểu đoàn công binh của Trung đoàn 151 và năm đại đội sơn pháo của Trung đoàn pháo binh 675. Với lực lượng hơn 5.000 cán bộ, chiến sĩ chỉ trong một đêm 14-1-1954 đã bí mật hoàn thành con đường dài 15 ki-lô-mét, rộng 3 mét từ bản Nà Nham men theo các sườn núi hiểm trở, qua nhiều dốc đèo, núi cao, nhiều vực sâu đến gặp đường Điện Biên đi Lai Châu ở bản Tấu.
Nhiệm vụ kéo pháo do Đại đoàn 312 và lực lượng của Trung đoàn Pháo cao xạ 367 và Trung đoàn Pháo binh 45 đảm nhiệm. Lúc đầu, để kéo một khẩu pháo phải sử dụng 20 chiến sĩ bộ binh, tổ chức thành hai “dây”, mỗi “dây” do mười người kéo. Các pháo thủ, người cầm lái, người chèn, đẩy pháo; các cán bộ trung đội, đại đội pháo trực tiếp chỉ huy kéo pháo. Càng lên cao, việc kéo pháo càng khó khăn hơn, tốc độ cứ chậm dần lại. Mỗi khẩu pháo phải đấu thêm hai “dây” nữa (40 người), có dốc cao quá đã phải tập trung tới 100 người. Hàng chục, hàng trăm chiến sĩ khỏe mạnh cúi rạp mình theo sườn dốc, rướn hết sức để kéo, đẩy pháo theo nhịp hô của người chỉ huy: “hai, ba nào”.
… Kéo pháo vượt những đèo dốc đứng đến 60 độ như dốc Bảy Tời, vực sâu Vườn Chuối, suối Ngựa, suối Cây Cụt, cửa rừng Bản Tó. Mỗi một địa danh trên là một trọng điểm, pháo binh địch luôn bắn chặn, cản đường; máy bay địch ném bom cháy (na-pan) thiêu cháy rừng, không ngày đêm nào là không có thương vong, mỗi khi có một đại đội pháo vượtqua được một cửa ải trên là như đã lập được một chiến công.
Có lần đang vượt đèo dốc, máy bay địch săn lùng mục tiêu, chúng dùng bom na-pan, đạn lửa đánh phá chặn đường, rừng bốc cháy, ngọn lửa lan nhanh vây quanh pháo. Cứu người hay cứu pháo? Không cần chờ lệnh, mọi người lập tức lao vào dập lửa, “ưu tiên” cứu pháo. Cái lần mà tôi không bao giờ quên đó là tại đoạn đường Điện Biên Phủ đi Lai Châu, khẩu pháo 105 ly của Khẩu đội 3, Trung đội 2, Đại đội 806, Trung đoàn 45 đang đổ dốc từ từ thì bất ngờ dây tời đứt, đồng thời có tiếng nổ, tiếng máy bay xoẹt đến, khẩu lựu pháo nặng trên 2,5 tấn cứ thế lao xuống kéo theo cả dây người đang nghiến răng căng sức ghìm lại mà không nổi. Tiếng hô lớn “Dũng cảm cứu pháo! Còn người còn pháo!...”. Lập tức ba pháo thủ Chức, Cứ, Ngòi rượt theo pháo để lao chèn. Nhưng pháo cứ lồng lên băng qua mọi cây chèn, mọi mô đất, vật cản, Cứ và Ngòi bị hất văng ra, bị thương, còn lại mình Chức. Khẩu pháo càng lao nhanh theo độ dốc và sắp đâm tuột xuống vực sâu. Không thể chậm trễ, chần chừ, đắn đo gì nữa, Chức ôm chèn lao chèn vào một bánh pháo, khẩu pháo vượt chèn chồm qua người Chức, mất đà, lại vừa bị chèn một bánh nên đổi hướng đâm quặt vào một gốc cây rồi khựng lại.
Lúc ấy mọi người đều nghẹn ngào xúc động, tim như thắt lại trước gương hy sinh quên mình cứu pháo của pháo thủ Nguyễn Văn Chức. Càng cảm phục tiếc thương Nguyễn Văn Chức, càng căm phẫn quân thù khi được tin 13 đồng chí của Đại đội sơn pháo 753 và Đại đội cối 113 vừa ngã xuống vì một quả pháo địch ở ngã ba Bản Tó khi anh em vào thay cho bộ binh kéo pháo.
Cùng với gương pháo thủ Tô Vĩnh Diện (pháo cao xạ), gương hy sinh quên mình cứu pháo của Nguyễn Văn Chức đã nhanh chóng được truyền đi trên khắp tuyến đường kéo pháo và tới các đơn vị trên toàn mặt trận. Đêm đêm, tiếng “hò dô ta nào”, tiếng mõ tre “cốc, cốc” làm hiệu lệnh, dưới ánh trăng mờ ảo, hàng trăm chiến sĩ mình mặc áo trấn thủ, đầu đội mũ nan, cúi rạp người choãi chân, những bắp tay cuồn cuộn bám vào dây chão, dây cóc, dây mây, dây song để kéo pháo. Đêm tháng Chạp, tiết trời khá lạnh, song mồ hôi của các chiến sĩ đã ướt đẫm… Tất cả những hình ảnh, những âm thanh ấy đã tạo nên một bức tranh hùng vĩ, một không khí hừng hực khí thế quyết chiến quyết thắng, làm vang động núi rừng Điện Biên.
Chính trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt như huyền thoại ấy, đã trào dâng trong tôi những cảm xúc mãnh liệt để sáng tác bài “Hò kéo pháo” ngay tại Mặt trận:
“Hò dô ta nào, Kéo pháo ta vượt qua đèo… Hò dô ta nào, Kéo pháo ta vượt qua núi… Dốc núi cao cao, nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi. Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù”. “Tới đích rồi đồng chí pháo binh ơi. Vinh quang thay sức người lao động. Hò dô ta pháo ta vượt đèo. Thề quyết tâm bắn tan đồn thù. Hò… dô!”.
Sau năm 1954, vào những năm kỷ niệm lớn ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi thường được Binh chủng Pháo binh, Trung đoàn 45 (nay là Lữ đoàn 45) mời dự lễ kỷ niệm và tặng quà những vật lưu niệm quý như khẩu lựu pháo uy dũng trong hộp kính, sách “Ký ức Lữ đoàn Tất Thắng”…, nhưng món quà quý giá hơn cả đối với tôi là “Hò kéo pháo” vẫn vang vọng trên sóng đài phát thanh của Tổ quốc, được bộ đội và nhân dân yêu quý đón nhận, âm vang “Hò kéo pháo” vẫn đi theo người chiến sĩ trên khắp chiến trường, khắp nẻo đường ra Mặt trận lập chiến công trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước như lời của những chiến sĩ pháo binh mỗi khi gặp lại tôi. Tôi không biết bày tỏ lời cảm ơn thế nào cho xứng với món quà vô giá ấy”.
Sau giải phóng Điện Biên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cử chiến sĩ Điện Biên Hoàng Vân đi học và nghiên cứu thực tập tại mười nước Á - Âu, và trở thành nhạc sĩ Hoàng Vân được khán giả vô cùng yêu mến. Ông là một trong những nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để lại dấu ấn trong nền âm nhạc Việt Nam. Ông được Đảng và Nhà nước tặng giải thưởng cao quý: Giải thưởng Hồ Chí Minh. Ngoài giải thưởng về văn học nghệ thuật, ông được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, Huân chương Chiến công hạng Ba và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Nhạc sĩ Hoàng Vân tên thật là Lê Văn Ngọ, sinh ngày 24-7-1930, thường trú tại số nhà 14 phố Hàng Thùng, Hà Nội; quê gốc phường Thọ Nam, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên, Thăng Long. Bài viết này xin là một nén tâm nhang kính cẩn dâng lên hương hồn nhạc sĩ yên nghỉ ngàn thu.