“Vào cái ngày đáng lẽ phải ra mắt đội Barça U13, tôi đã ngủ quên.”
- Andrés
Tôi không còn nhớ chính xác chuyện đó đã xảy ra như thế nào. Nhưng vào cái ngày đáng lẽ phải ra mắt đội Barça U13, tôi đã ngủ quên. Đêm hôm trước, tôi đã ngủ ở ký túc xá của các anh lớn. Chúng tôi nói chuyện rất lâu. Tôi không còn nhớ chính xác nhưng chúng tôi đã thức rất khuya. Sáng hôm sau, tôi đã không thể nghe thấy một tiếng động nào.
Thật may khi trận đấu diễn ra ngay trên sân vận động nhỏ gần La Masia. Nếu không, tôi cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra nữa. Tôi đã ngủ một mạch cho tới khi có người đến đánh thức. Không kịp ăn sáng, tôi chạy thẳng tới phòng thay đồ. May thay, cuối cùng chúng tôi vẫn thắng đậm đội Cinco Copas Peña với tỉ số 8-0, trong đó có bốn bàn do tôi ghi. So với giờ thì thành tích như thế cũng không đáng kể gì, nhưng dẫu sao đó cũng là một chiến thắng đáng nhớ, bởi đó là lần ra mắt chính thức của tôi tại học viện bóng đá thanh thiếu niên của Barcelona. Nhưng tôi đã ngủ quên trước trận đấu đầu tiên. Tôi đã rất xấu hổ vì tới muộn. Tôi cắm mặt xuống đất khi bước vào phòng thay đồ.
***
Ursicinio López, một chuyên gia bóng đá đến từ La Masia, đã rất bất ngờ khi trận đấu sắp bắt đầu mà Andrés vẫn chưa đến. Ông đã tưởng tượng ra mọi lý do tồi tệ nhất nhưng ông chưa từng nghĩ đến việc Andrés ngủ quên. Chưa bao giờ cậu bé ấy ngủ quên. May mắn thay, cậu bé vàng của La Mancha tới vừa kịp lúc để khoác lên mình màu áo của Barça lần đầu tiên. Tiếng còi vang lên và cậu bé lại bắt đầu khiêu vũ với quả bóng, đặt dấu ấn trên mọi đường bóng của Barça ngay trong trận đấu ra mắt.
Ursicinio – người đã chứng kiến trận bóng, không ngớt lời khen ngợi. “Lối chơi của cậu ấy là sự kết hợp của sôi động, náo nhiệt và tinh tế. Và dù cậu ấy có thích được gọi như vậy hay không thì cậu ấy đúng là ngôi sao của đội. Cậu ấy chơi ở hàng tiền vệ nhưng đôi khi lại có chức năng như một tiền đạo, phong cách đó rất giống với thời trai trẻ của Luis Suarez – trung vệ người Tây Ban Nha duy nhất từng giành giải thưởng Quả Bóng Vàng châu Âu vào năm 1960.”
Suarez là cầu thủ người Galicia, ngôi sao của câu lạc bộ Barcelona. Tuy vậy, khi còn ở Barça, anh chưa thể chinh phục được cúp châu Âu để hoàn thiện sự nghiệp đồ sộ của mình sau trận chung kết thất bại với tỉ số suýt soát 3-2 ở Bern trước câu lạc bộ Benfica của huấn luyện viên Bela Guttman. Sau khi đầu quân cho Inter Milan, Suarez đã hai lần cùng đội giành chức vô địch châu Âu. Theo Ursicinio, Andrés có cái gì đó của “Luisito”. Một người ở La Coruña, một người ở Fuentealbilla nhưng cả hai đều là những cầu thủ tinh tế, bắt đầu sự nghiệp bằng những trận đấu ngẫu hứng trên đường phố nơi họ sinh ra và lớn lên.
“Andrés có tài năng thiên bẩm. Cậu ấy có thể kiến tạo, có thể dứt điểm và trên hết, cậu ấy có thể điều khiển thế trận. Cậu ấy giống như Luisito, hay như Fusté vậy.” Fusté là một cầu thủ nhí đến từ Lynola với trí tuệ xuất sắc nhưng lại không gặp may mắn khi đầu quân cho Barça vào những năm 60, thời kỳ tăm tối của câu lạc bộ. Vào thời điểm đó, Barça thậm chí còn không thể giành chiến thắng ở giải vô địch các câu lạc bộ trong nước. Fusté không có một tấm huy chương Vàng La Liga nào trong bộ sưu tập chiến công đồ sộ nhưng anh lại giành được cúp vô địch châu Âu năm 1964, sau chiến thắng tại Bernabéu trước đội tuyển Liên Xô với siêu sao Lev Yashin, hay còn được gọi bằng biệt danh “Nhện Đen”.
“Dù Andrés mặc áo số 10 nhưng cậu ấy đã đá thay cả phần của áo số 4, số 6, và cả số 8 nữa”, ông Ursicinio vừa kể vừa nhớ lại những con số được sử dụng bởi Johan Cruyff - huấn luyện viên tới Barça vào năm 1988, tám năm trước sự tham gia của Iniesta. Số 10 vào thời điểm đó được dành cho tiền vệ cánh trái (vị trí Iniesta chơi cho Barcelona sau này); số 6 chơi ngay sau tiền đạo (vào thời điểm đó là Bakero)’ số 4 là tiền vệ trung tâm (số áo của Guardiola, sau đó là Xavi, và giờ là Busquets); và số 8 luôn là số của tiền vệ cánh phải (Eusebio). Đội hình trong mơ của Cruyff có sức ảnh hưởng quá lớn. Họ đã thay đổi cách tất cả mọi người nhìn nhận bóng đá hiện đại.
“Đội bóng U13 chơi theo đội hình 3-4-3 với một viên kim cương ở hàng tiền vệ nhưng Andrés luôn có mặt ở nơi bóng đến, giống như quả bóng đã vẫy gọi cậu ấy vậy. Đó là cách cậu ấy chơi trong trận đấu đầu tiên dù mắt của cậu ấy vẫn đỏ và khuôn mặt vẫn ngượng ngùng xấu hổ vì sự xuất hiện chậm trễ.”
“Cậu ấy chuyền tốt, đi bóng cũng tốt. Một mình cậu ấy có thể đi bóng qua một, hai, thậm chí là ba đối thủ. Cái cách cậu ấy đá trông dễ dàng đến mức bạn nghĩ mình cũng có thể làm được điều tương tự. Cậu ấy có một quan điểm rõ ràng về bóng đá và đồng thời cũng sở hữu kỹ thuật để đưa những lý thuyết đó vào thực tế từng trận đấu. Cậu ấy vượt trội hơn tất cả đối thủ. Hãy nhìn cậu ấy bây giờ đi và tưởng tượng xem lúc còn nhỏ, cậu ấy đã thu hút ánh nhìn đến mức nào.”
Ursicinio biết ông sẽ được chứng kiến điều gì từ những lời khen của Oriol Tort về một “viên ngọc thực sự” đến từ Albacete. “Một ngày trước khi Andrés tới câu lạc bộ, giáo sư đến gặp tôi và lệnh cho tôi ký ngay hợp đồng với cậu bé mà chúng tôi đã ngắm từ giải đấu Brunete. Chính là cậu bé mà Benaiges nhắc tới. Câu lạc bộ Madrid cũng đề nghị nhưng cậu bé ấy đã chọn chúng tôi.”
Giáo sư chỉ nói có vậy, vẫn như thường ngày, ngắn gọn và súc tích. Ông không cần phải khen ngợi cậu bé quá nhiều trước Ursicinio - người hoàn toàn tin tưởng ông. Dù Tort là kiểu người nhiệt huyết, ông vẫn không muốn để người khác mong đợi quá nhiều. Nhưng theo con mắt chuyên môn của Mani - người bạn đáng tin cậy của ông ở Andalusia và Benaiges thì tài năng thiên phú của Andrés không còn gì đáng để nghi ngờ nữa.”
“Thằng bé là của cậu đấy”, Tort nói với Ursicinio.
“Mọi thứ trông thật dễ dàng với cậu bé. Cậu ấy có thể dễ dàng vượt qua đối thủ, cậu ấy không hề gặp khó khăn trong việc tìm vị trí của đồng đội và cậu ấy luôn thực hiện những đường chuyền chính xác. Nếu cậu ấy vẫn giữ được phong độ cho tới lúc trưởng thành thì chẳng gì có thể cản bước cậu ấy. Mỗi khi nhìn cậu bé chơi, chúng tôi đều biết rằng cậu ấy sẽ thành công. Vấn đề duy nhất của Andrés có lẽ là thể lực. Chúng tôi không biết liệu cậu nhóc còi cọc ấy có thể đá được trên những sân bóng lớn hơn hay không?”, Ursicinio thừa nhận. Ông không hề hay biết vấn đề khiến ông đau đầu đã được giải quyết ở một thị trấn nhỏ cách Barcelona 500 km.
Abelardo và Julian – những người bạn lớn hơn Andrés bốn, năm tuổi ở Fuentealbilla đã hóa giải nghi vấn đó từ lâu. Tuổi tác không thành vấn đề với Andrés và vóc dáng cậu bé cũng vậy. Nếu Andrés đã có thể chiến đấu trên cái sân bóng bê tông của làng, cậu ấy chắc chắn có thể đá trên sân cỏ của Barcelona.
“Andrés đã đánh lừa cả tôi với vóc dáng bé nhỏ của cậu nhóc. Cậu bé hiếm khi nào xuất hiện trong một chiếc áo vừa vặn và nhìn mỏng manh tới mức cảm tưởng một cơn gió cũng có thể thổi bay thân hình ấy. Cậu ấy trông rất yếu đuối nhưng chưa từng thiếu thể lực trong bất kỳ trận đấu nào. Cậu ấy tham gia vào mọi cuộc tranh chấp từ chuyền bóng tới dứt điểm, như thể cậu ấy không bao giờ cảm thấy mệt mỏi vậy. Đôi khi tôi tự hỏi mình rằng sau hiệp đầu chạy trên sân, cậu bé chắc sẽ chẳng thể trụ nổi quá năm phút ở hiệp hai. Nhưng không, tốc độ của cậu bé không hề thay đổi. Cậu ấy vẫn luôn giữ được lối chơi đó. Thể lực của cậu ấy là không cần bàn cãi, cũng giống như trong trận đấu ra mắt, khi cậu ngủ quên, bỏ qua bữa sáng mà vẫn ghi được tới bốn bàn.”
“Cậu ấy là người hoàn hảo để thay thế cho vị trí của Luísito”, Ursicinio một lần nữa so sánh Andrés với huyền thoại bóng đá Tây Ban Nha. Bóng đá luôn là một hành trình gắn liền với quá khứ. “Có lần, khi đứng trên cái sân nền đá sỏi ngay cạnh sân vận động Camp Nou (giờ đây là một bãi đỗ xe), Olivé đã tới và hỏi tôi về trận đấu của cậu bé thông minh ấy.”
Ursicinio vui vẻ cười: “Tự xem đi, Olivé. Cậu bé vẫn vậy, vẫn chơi đúng lối đá của mình.” Cậu bé thông minh Andrew luôn thể hiện những điều phi thường trong những buổi tập. “Đáng lẽ không phải chúng ta được trả tiền mà là phải trả tiền để được đứng đây xem cậu ấy đá”, Ursicinio thường nói đùa với trợ lý của mình, Joaquin.
Vào thời điểm đó, cũng có những cầu thủ có lối chơi tương tự như Andrés, cùng những đường chuyền thông minh và khả năng di chuyển linh hoạt trên sân. Nhưng khi Ursicinio có Andrés trong đội U13, ông như được tận mắt chứng kiến người hùng của mình trên sân bóng vậy. Đó là cậu bé từ La Mancha nhưng cậu cũng là cậu bé đến từ Galicia và chàng trai tới từ Catalan. Đó là lối chơi của Andrés, Suárez và Fusté, tất cả đều hội tụ trong cậu bé trước mắt ông.
Cậu bé ấy có khả năng bao quát cả sân bóng và giấu quả bóng khỏi đối thủ. Ursicinio thừa nhận: “Thỉnh thoảng, đến tôi cũng không thể thấy quả bóng đâu. Chúng tôi thường luyện đá bằng chân trái, không phải chân thuận của cậu ấy, nhưng các cầu thủ bằng cách nào đó vẫn luôn xoay xở để bóng đáp đúng chân thuận của họ. Andrés và cái chân phải của cậu ấy cũng vậy. Còn về khả năng dùng đầu thì hầu như tôi chưa từng thấy cậu ấy đánh đầu bao giờ. Cậu ấy dùng cái đầu của mình cho những việc khác. Ví dụ như cách cậu ấy phòng vệ chẳng hạn. Cậu ấy luôn tìm được một vị trí tốt và nếu bị kèm 1-1 thì chắc chắn chẳng ai có thể lấy nổi bóng của cậu ấy. Cậu ấy không hề chạy theo bóng nhưng luôn có mặt đúng thời điểm để cướp bóng khi đối thủ không cảnh giác. Cậu ấy luôn chơi như vậy.”
Huấn luyện viên Ursicinio thừa nhận ông rất ít khi trao đổi riêng tư với Andrés, hai người chỉ gặp nhau trong phòng thay đồ và trên sân bóng. Trong khi huấn luyện viên Ursicinio của đội U13 làm việc mỗi ngày từ tám giờ sáng cho đến ba giờ chiều, Andrés thường sẽ đi học ở trường Luis Vives cùng với người bạn Jorge Troiteiro.
***
“Chúng tôi nhỏ nhất ở học viện La Masia và lúc nào cũng được quan tâm”, Troiteiro công nhận. “Tôi đến học viện trước Andrés một tuần và đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc hòa nhập với mọi người. Đó là lý do tại sao tôi đã rất hạnh phúc khi có cậu ấy làm bạn đồng hành. Tôi không còn là đứa nhỏ nhất ở đó nữa. Puyol, Reina, Motta, Arteta - tất cả đều lớn tuổi hơn chúng tôi. Một tuần tưởng chừng rất ngắn nhưng tuần đầu ở La Masia với tôi như dài cả năm vậy. Tôi quen với sự cô đơn hơn Andrés và dù sao tôi cũng táo bạo hơn, cởi mở hơn, nói nhiều hơn. Andrés thì lại là người nhút nhát, tới giờ vẫn vậy.”
“Chúng tôi ngủ trên cùng một giường tầng ở La Masia. Lúc đầu, họ xếp chúng tôi vào cùng phòng với mấy cậu bé chơi bóng rổ. Có năm hay sáu người trong đội bóng rổ và chỉ có hai chúng tôi đá bóng. Andrés ngủ ở tầng dưới còn tôi ngủ tầng trên. Dù sao thì chúng tôi vẫn luôn có Puyol để mắt tới. Puyol và Victor Valdes luôn đảm bảo rằng không ai có thể động một ngón tay vào chúng tôi. Họ thực sự đã chăm sóc chúng tôi. Họ luôn bảo vệ chúng tôi.”
Puyol tiết lộ, “Cậu bé trông xanh xao, đôi mắt lúc nào cũng đỏ quạch, còn da thì trắng bệch. Lúc nào trông cậu bé cũng buồn bã nhưng tôi lại chẳng thể hiểu được nỗi đau ấy. Tôi cảm thấy như mình là người hạnh phúc nhất trên thế giới khi được Barça chọn và được tới La Masia. Tôi chẳng mong đợi gì hơn nữa. Nhưng khi đó, Andrés vẫn còn là một cậu nhóc. Lúc đó, tôi không thể hiểu được nỗi đau của cậu ấy. Đối với tôi, La Masia là nơi tôi luôn mơ ước được đặt chân tới.”
“Cậu ấy muốn tới La Masia nhưng không ai có thể hiểu được nỗi đau cậu ấy phải trải qua. Mỗi người đều có những cảm xúc rất khác nhau. Tôi là một ví dụ. Tôi chưa từng gọi điện thoại cho gia đình, tôi không về nhà trong bốn tháng liền và cũng chẳng ai trong gia đình đến thăm tôi. Nhưng tôi vẫn luôn hạnh phúc với những điều đó”, cựu đội trưởng Barça cho hay.
Khi Puyol rời bỏ những sân bóng nhếch nhác ở La Pobla de Segur, mọi người vẫn luôn nghi ngờ về khả năng của anh. “Mình sẽ chứng minh cho họ thấy mình có thể chơi cho Barça”, Puyol tự nhủ. Không có áp lực, tất cả những gì anh cảm nhận được chỉ là một niềm tin mạnh mẽ về khả năng của mình. Anh mất một tháng liền để thuyết phục các huấn luyện viên mở cánh cửa La Masia. Puyol thú nhận đó là phiên đánh giá lâu nhất trong lịch sử của Barça.
Mỗi buổi sáng, anh đều thức dậy trong căn nhà của Ramon Sostres, giờ là người đại diện của Puyol và Andrés. Anh luôn làm mọi việc với nguồn năng lượng vô hạn mang theo từ La Pobla. Bắt đầu sự nghiệp như một thủ môn nhưng Puyol cuối cùng lại trở thành một trong những trung vệ huyền thoại của thế giới. Để làm được điều đó, anh đã phải hạ gục mọi chướng ngại vật trên đường đi. Dù là đêm hay ngày, cậu bé 12 tuổi và chàng trai 18 tuổi luôn đi tìm kiếm một tương lai huy hoàng ở Barça, một người được trang bị những kỹ thuật xuất sắc, người kia thì có ý chí vững vàng, không thể bị lung lay. Một người can đảm và một người phải chịu đựng những nỗi đau tinh thần.
Ursicinio kể lại lần đầu gặp mặt Puyol. “Một ngày nọ, khi tôi đang tập với đội bóng U18, Martinéz Vilaseca - huấn luyện viên của đội U19, đã đến đề nghị đội của tôi đấu một trận tại một ngôi trường ở Tarragona. Anh ấy nói một cậu bé trong tầm ngắm của câu lạc bộ sẽ có mặt ở đó. Cậu bé đến từ Lleida.” Cậu bé đó là Puyol.
“Cậu ấy chơi ở cánh phải và thể lực của cậu ấy thật tuyệt vời. Kỹ thuật kết hợp với các ưu điểm vượt trội khác thành một bộ hoàn hảo. Tôi đã nhận xét gì về cậu ấy ư? Tôi đưa ra ý kiến dựa trên màn trình diễn ngày hôm đó và câu lạc bộ đã ký hợp đồng với cậu ấy. Sau một thời gian, thể chất của cậu ấy đã được cải thiện cùng với kỹ thuật. Sự tiến bộ của cậu ấy đã vượt lên cả những mong đợi cũng nhờ vào ý chí phi thường và sự quyết tâm. Với ý chí đó, không lẽ nào cậu ấy không thể thành công. Nhưng cậu ấy cũng là ngoại lệ duy nhất đối với quy luật mà Pujolet luôn luôn nói với chúng tôi.”
Khi các cầu thủ nhí đến La Masia, tất cả đều phải được Pujolet chấp thuận dù không được ghi chép lại ở bất cứ đâu. “Pujolet” thường bị nhầm lẫn với đội trưởng của Barça dưới thời huấn luyện viên Rijkaard và Guardiola. Nhưng Lluís Pujol được nhắc tới ở đây là một tiền đạo nổi tiếng từ những năm 60 đã đầu quân cho Barça ở tuổi 17 và kết thúc sự nghiệp ở cương vị tuyển trạch viên cho câu lạc bộ theo lệnh của giáo sư Tort.
“Pujolet luôn nói với chúng tôi, anh ấy chỉ muốn có những người biết cách chơi. Andrés là một trong số đó. Đối với tôi, sự xuất hiện của Cruyff là một điều may mắn cho những cầu thủ nhí. Ở thời đó, thể lực, chiều cao và lối chơi quyết liệt là tất cả những gì họ thường tìm kiếm ở các cầu thủ. Nhưng khi Cruyff đến, mọi thứ đã thay đổi. Luis Milla là một ví dụ điển hình. Khi Barça muốn ký hợp đồng với cậu ấy, mọi người đều nói rằng cậu ấy không có sức mạnh, rằng cậu ấy gầy tới mức nếu tháo thắt lưng ra thì cái quần sẽ tụt xuống ngay lập tức. Mọi người đều nghi ngờ khả năng của cậu ấy nhưng Jaume Olivé, một trong những điều phối viên của La Masia vào thời điểm đó, đã khẳng định rất nghiêm túc với Josep Mussons, phó chủ tịch câu lạc bộ, rằng, “Cậu bé này trị giá một triệu pesetas. Nếu ông chịu ký vào đây, cậu bé sẽ ở lại.”
Milla ở lại Barça và tiếp tục chơi ở Camp Nou trước khi gia nhập Madrid và trở thành một Cruyff nổi tiếng. “Để cậu ta đi! Cũng chẳng có gì quan trọng”, quản lý người Hà Lan bực tức khi Milla rời câu lạc bộ vào năm 1990. Sau đó họ đi tìm người giỏi nhất trong học viện thanh thiếu niên để thay thế cho vị trí của Milla. Và Guardiola đã được chọn. Bởi vậy, Johan đã đi xem cầu thủ tốt nhất của La Masia tại Mini Estadi, sân vận động của đội tuyển thanh thiếu niên Barcelona.
Ông cố tình đến muộn để tránh những ánh mắt tò mò. Ông ngồi ở nơi kín đáo nhất có thể nhưng rồi ông nhận ra Guardiola thậm chí còn không được chơi. “Nếu thằng bé là người giỏi nhất, vậy thì tại sao lại không được chơi?”, ông hỏi một cách giận dữ. “Thằng bé gầy quá. Nó trông chẳng có chút sức lực nào”, họ đáp.
Tháng 12 năm 1990, Guardiola tiếp bước con đường của Milla, ra mắt lần đầu tại sân vận động Camp Nou. Dù những gì Milla nhận được là lời nhận xét có phần gay gắt của Johan sau khi anh ra mắt trong một trận giao hữu ở Banyoles tháng 5 năm 1989: “Cậu còn chậm chạp hơn cả bà ngoại của tôi”. Con đường đó sau này đã được tiếp bước bởi Xavi và cuối cùng là Iniesta - những cầu thủ dường như không có chỗ đứng trong bóng đá hiện đại nhưng cuối cùng lại chiếm lĩnh trận đấu.
***
Andrés Iniesta tới Barcelona năm 1996, trước Lionel Messi bốn năm. Thật kỳ lạ khi Andrés nhập đội vào ngày 16 tháng 9 và Leo đến sau đó đúng bốn năm một ngày nhưng cuối cùng, họ lại cùng sát cánh trong hơn một thập kỷ tại Barça, viết lại lịch sử cho câu lạc bộ.
“Không, tôi không tới La Masia như Andrés.” Messi đã được luân chuyển với tốc độ ánh sáng trong các đội thanh thiếu niên thuộc nhiều độ tuổi tại Barcelona cho đến khi anh ra mắt năm 17 tuổi. Cũng giống như Andrés, tài năng của họ không đợi tuổi.
“Tôi chưa bao giờ sống trong học viện vì ban đầu tôi ở cùng cha mẹ ở khách sạn Plaza España, Barcelona, sau đó chúng tôi chuyển vào một căn hộ. Sau đó, khi mẹ, anh trai và em gái tôi trở lại Rosario, tôi ở lại cùng với Jorge, cha tôi. Thỉnh thoảng, tôi đến đó để ăn hoặc trò chuyện với vài người bạn. Từ lúc đó, tôi đã biết Andrés. Mọi người ở Barça đều biết cậu ấy là ai.”
Cả Iniesta lẫn Messi đều may mắn khi gia nhập Barcelona sau khi Johan Cruyff và trợ lý Toni Bruins đã mang bóng đá thực sự đến Camp Nou. Ursicinio thú nhận, “Khi Cruyff xuất hiện, cậu ấy đã cách mạng hóa bóng đá của câu lạc bộ. Nó tưởng chừng phức tạp nhưng trên thực tế lại rất đơn giản. Toni Bruins dựng một tấm bảng trắng và bắt đầu vẽ các đường chuyền trên đó.
- Đây là lối chơi theo từng vị trí, điều quan trọng nằm ở đường chuyền đầu tiên, chỉ có tối đa hai người chạm bóng. Mọi người đã hiểu chưa?
Chúng tôi đều nháo nhác nhìn nhau cho đến khi có ai đó lên tiếng.
- Chỉ vậy thôi sao?
Bruins trả lời với vốn tiếng Tây Ban Nha ít ỏi mới học được trong thời gian ở đây.
- Phải, đó là tất cả. Bóng đá rất đơn giản. Chúng ta chỉ cần chia sân thành hình tam giác và chìa khóa để chiến thắng là luôn luôn có bóng để tạo ra ưu thế”.
Cruyff và Bruins không thể tưởng tượng được lý thuyết về bóng đá mà họ mang đến Barcelona năm 1988 sau này đã được tiếp tục phát triển, sử dụng và nâng cấp lên một tầm cao mới ở Barça. Nhưng đối với Andrés, họ không cần dạy quá nhiều thứ. Những lý thuyết đó chỉ là những bước đệm để Andrés phát triển tố chất nhân tài có sẵn trong máu của anh.
Ursicinio thán phục, “Đôi khi tôi nghĩ về con mắt chiến lược của cậu ấy. Đúng là cậu ấy còn có nhiều hơn thế nhưng khả năng dự đoán trước một bước trong mọi hoàn cảnh đó thì tôi và Johan mới thấy lần đầu. Andrés thành công được như bây giờ là nhờ con mắt tinh tường nhận ra khả năng đặc biệt nằm bên trong thân hình còi cọc của cậu ấy. Có những cầu thủ cần phải phô trương nhưng không phải Andrés, cậu ấy vốn đã có tất cả.”
***
Đương nhiên, lúc đó không còn là thời đại của Cruyff nữa. Khi Andrés biết đến triết lý bóng đá đó, nó đã không còn ở vị trí hàng đầu nhưng ý tưởng của người đàn ông vĩ đại ấy vẫn còn hiện hữu tại Barça, bất chấp những thăng trầm làm rung chuyển câu lạc bộ. Thời của Andrés là mùa giải 1996 - 1997 dưới sự chỉ đạo của Bobby Robson và José Mourinho - người phiên dịch và sau này trở thành trợ lý của Robson. Đó cũng là thời đại của Ronaldo, người ngoài hành tinh đã đỗ phi thuyền của mình ngay tại vị trí tiền đạo trung tâm trên các sân vận động của giải La Liga hội tụ những câu lạc bộ hàng đầu.
Đó là khi Barça gần như đã giành được mọi danh hiệu nhưng lại thất bại tại giải đấu quốc gia giữa các câu lạc bộ bởi cầu thủ ngôi sao đã được đội quyển quốc gia Brazil triệu tập. Đó cũng là thời của Barça với Guardiola, người hùng thời thơ ấu của Andrés, cùng với Figo, Luis Enrique, Stoichkov, Blanc và Popescu. Từ chỗ mình ở, cậu bé La Mancha có thể hướng ánh nhìn về phía sân bóng nhỏ bên cạnh sân vận động. Ngay cả khi không thể nhìn một cách trực diện, cậu vẫn thấy các anh hùng của mình. Sân tập nằm giữa Camp Nou và La Masia không còn tồn tại nữa. Hàng rào Andrés từng leo vẫn còn đó nhưng sân bóng bây giờ đã thành bãi đỗ xe. Khung thành, nơi lưu lại những chiến công của Cruyff và sau đó là Iniesta đã bị phá bỏ, những dấu vết của nơi họ bắt đầu những trận đấu đã biến mất vĩnh viễn.
Vào những ngày nghỉ, Andrés lại mắc kẹt trong nỗi buồn và sự cô độc. Ursicinio nhớ rằng Albert Benaiges, một ông bố yêu bóng đá, đã đưa Andrés đến rạp chiếu phim cùng với con trai mình để giải thoát cậu bé khỏi cuộc sống đơn điệu.
“Chúng tôi đã đến rạp chiếu phim. Thỉnh thoảng vào những buổi chiều rảnh rỗi, chúng tôi lại tới công viên, nơi có những nhà bóng làm bằng bọt biển để cậu bé có thể vui lên đôi chút”, huấn luyện viên Benaiges kể lại.
“Có một lần, bố mẹ Andrés đã không thể tới thăm cậu bé vào dịp cuối tuần, tôi đã đưa cậu bé về nhà với mẹ tôi. Ở đó, thằng bé chơi hàng giờ liền với con trai nuôi của tôi, Samuel. Hai đứa chẳng giống nhau chút nào. Samuel da đen vì thằng bé sinh ra ở Brazil, Andrés thì lại nhợt nhạt nhưng rất thông minh. Con trai tôi không thích bóng đá, Andrés thì lại không thể sống thiếu bóng đá. Chúng khác nhau một trời một vực nhưng lại có thể chơi với nhau cả ngày liền.”
Jorge Troiteiro nhớ lại những buổi chiều với huấn luyện viên Benaiges đã giải tỏa cảm giác nhàm chán cho hai đứa trẻ như thế nào. “Huấn luyện viên Benaiges cũng đưa chúng tôi đi ăn trưa nữa. Ông ấy đã đưa chúng tôi đến một nhà hàng bán Horchata - món ông ấy ưa thích.”
José, cậu bé thủ môn dẫn Andrés tham quan học viện, đã cố vẽ lên cuộc sống tươi đẹp đằng sau những bức tường đá cũ. “Ở La Masia, giường là nhà của chúng ta. À, em có giường và bàn nữa. Chúng ta sẽ để mọi thứ ở đó. Nói cách khác thì chúng ta dành rất nhiều thời gian ở nhà, hay còn gọi là trên giường. Hoặc chúng ta sẽ đi từ phòng này sang phòng khác để nói chuyện với mọi người. Ký túc xá của La Masia không phân theo nhóm tuổi. Thường thì bọn nhỏ sẽ nói chuyện với nhau thật lâu nhưng đương nhiên là ở trên giường rồi.” Có lẽ đó là lý do tại sao Andrés ngủ quên vào đêm trước trận đấu ra mắt.
“Chúng tôi làm gì ở đó ư? Nếu trời không mưa, chúng tôi sẽ đá bóng thật lâu ngoài khu vườn ở phía sau học viện La Masia. Chúng tôi ở trong thế giới do chúng tôi tự tạo ra. Quả bóng đã lọt vào những chỗ không được phép và chúng tôi sẽ lại bị mắng, nhiều nhất là bị Juan, một trong những nhân viên bảo vệ, nhắc nhở. Vì là người mới nhất nên anh ấy rất nghiêm khắc, không gì có thể lọt khỏi mắt của anh ấy. Ferri, một nhân viên bảo vệ khác, ngăn cản chúng tôi nhiều hơn. Andrés và Jorge, bởi vì nhỏ tuổi nhất nên luôn là những đứa hư nhất.”
“Ngay cả Juan cũng phải bó tay với hai đứa nhóc đó. Nếu đó là chúng tôi thì đã lớn chuyện rồi nhưng hai nhóc đó còn nghịch ngợm hơn nhiều. Thật vui khi thấy quả bóng lăn tới mọi ngóc ngách của La Masia nhưng mỗi lần nghĩ tới là tôi lại dựng hết cả tóc gáy.”
“Chúng tôi chẳng bao giờ rời nhau ra”, Jorge Troiteiro hồi tưởng. “Chúng tôi đi khắp mọi nơi cùng nhau - đến trường, đến phòng ăn, về ký túc xá, lên giường tầng, ở mọi nơi. Khi họ nói với chúng tôi rằng đã đến lúc phải đi ngủ, chúng tôi sẽ lại chơi bóng với nhau trong giờ ngủ. Làm cách nào chúng tôi đánh dấu sân đấu được ư?” Jorge tự hỏi rồi lại trả lời ngay tắp lự. “Cánh cửa phòng ngủ sẽ là khung thành và chúng tôi sẽ đá quả bóng tennis để không tạo ra tiếng ồn quá lớn. Mỗi khi có nhân viên bảo vệ xuất hiện, Ferri hoặc Juan sẽ báo động cho chúng tôi. “Đi ngủ đi, ngay bây giờ!”
Jorge ở giường trên và Andrés ở giường dưới. Họ tới trường mỗi buổi sáng và hiếm khi ra ngoài gặp gỡ ai. Ngày qua ngày, họ chỉ kết nối với thế giới bên ngoài qua cái bốt điện thoại công cộng màu xanh lá cây nằm ở ngay lối vào học viện La Masia, cạnh nhà bếp.
Đôi khi, các bậc cha mẹ cũng không muốn gọi liên tục cho con trai của họ để nỗi nhớ nhà được giảm bớt. Tốt nhất là để nỗi đau chia lìa dần dần phai nhạt, thay vì phải tốn quá nhiều nước mắt. “Khi bố mẹ gọi cho tôi, tôi sẽ khóc”, Troiteiro và tất cả các cậu bé đều như nhau.
“Tôi thuộc lòng số điện thoại của La Masia. Tới tận bây giờ tôi vẫn nhớ vì tôi đã gọi cho Andrés quá nhiều”, Manu, người đầu tiên công bố về sự tồn tại của cậu bé thiên tài xứ Fuentealbilla đã rất đau lòng vì phải xa rời người em họ.
***
“Không, tôi không hề khóc. Và tôi cũng chưa bao giờ thấy cậu ấy khóc. Nhưng những người còn lại đã kể cho tôi về nỗi buồn của Andrés. Tôi gia nhập học viện sau Andrés hai năm. Tôi đến đây ngay giữa tháng Tám”, Jordi Mesalles nói. Anh là cựu cầu thủ của Barcelona, một người bạn thân thiết của Andrés thời còn ở La Masia.
“Tôi đến từ một ngôi làng ở Lleida và đây thực sự là một sự kiện trọng đại đối với tôi. Tôi còn nhớ mình đã từng viết và vẽ khắp căn nhà, nhiều đến mức mẹ tôi cũng nhận ra rằng ước mơ của tôi là được tới La Masia. Tôi rất hạnh phúc khi đạt được ước mơ ấy. Không. Ngay khi vừa nhập học, tôi đã được tập trung với đội của Andrés và làm quen với Troiteiro, Rubén và Lanzarote. Khi bạn bè về thăm nhà hoặc có gia đình tới thăm, tôi lại cảm thấy rất rõ nỗi cô đơn ở La Masia. Vào thời điểm đó, mọi thứ thật sự khó khăn, rất khó khăn”, Mesalles - người sớm phát hiện ra nỗi buồn của Andrés - bộc bạch.
“Sau hai tuần, chúng tôi bắt đầu chơi với nhau”, Mesalles dần bị hấp dẫn bởi La Masia qua những hướng dẫn của Andrés. “Chúng tôi đi từ La Masia đến sân tập số 3. Chúng tôi còn hay gọi đó là sân bóng giấy nhám bởi lớp cỏ nhân tạo cứng và tạo cảm giác cực kỳ khó chịu mỗi lần ngã. Sân bóng là không gian tập cho bốn đội liền. Mỗi nhóm đều có một góc riêng.”
“Chúng tôi giống nhau ngay cả trong nếp sống thường nhật. Cả hai chúng tôi đều rất lạc quan về mọi thứ. Chúng tôi luôn yêu thích căn phòng của mình, yêu thích việc ngồi xem ti vi cả tiếng đồng hồ và chúng tôi là một trong số ít những người lui tới thư viện ở La Masia. Điều đó cũng tốt thôi mặc dù đôi lúc thư viện thực sự chẳng có ai cả. Chúng tôi thuộc tuýp người giản dị và không đòi hỏi nhiều. Chỉ cần nhắc tới bóng đá là chúng tôi đã cảm thấy hạnh phúc rồi.”
Jorge Troiteiro vẫn nhớ cái ngày Víctor quyết định rời khỏi La Masia: “Tất cả chúng tôi đều rất kinh ngạc. Đêm hôm đó tôi đã khóc rất nhiều bởi vì cậu ấy giống như một người anh em của tôi và Andrés vậy. Tôi nhớ mình còn đưa cho Víctor chiếc vòng cổ với cây thánh giá làm vật lưu niệm để kể cả khi không còn gặp nhau, cậu ấy vẫn có thể nhớ đến chúng tôi.”
Sau này, Víctor Valdés đã trở thành thủ môn huyền thoại của Barcelona. “Cuối cùng, mọi việc được sắp xếp ổn thỏa và Víctor đã ở lại với chúng tôi. Cậu ấy chẳng bao giờ trả lại tôi sợi dây chuyền đó nữa nhưng cũng không sao. Dù sao thì nó cũng là của cậu ấy”, Troiteiro, bạn cùng phòng, đồng đội và bạn thân của Víctor nói.
Tình bạn là một phần quan trọng trong cuộc sống của các cậu bé ở La Masia. Mesalles kể lại những kỷ niệm đáng nhớ. “Chúng tôi sẽ chia sẻ với nhau mọi thứ, từ bí mật cho tới đồ ăn được gia đình gửi đến. Bố mẹ tôi sẽ mang đồ ngọt và khoai tây chiên từ Lleida tới. Đó là những món yêu thích của chúng tôi. Chúng tôi thậm chí còn có nơi ẩn nấp của chính mình trong các tủ đồ ở La Masia. Mỗi người chúng tôi đều có một tủ khóa và một cái ngăn nhỏ có hai ngăn kéo - một cái cho giường trên và cái còn lại cho giường dưới. La Masia giống như một gia đình vậy. Đó là điều tôi thích ở đó. Tất cả chúng tôi đều quen biết nhau mặc dù cách biệt tuổi tác. Cũng phải thôi vì chúng tôi thường phải xếp hàng để được gọi điện thoại. Có hai cái bốt điện thoại nhưng chỉ có một cái có thể sử dụng nên chúng tôi phải kiên nhẫn chờ đợi và phải nhớ lấy lại tiền lẻ từ đầu bếp hay nhân viên bảo vệ. Nếu không, chúng tôi sẽ còn phải đợi lâu hơn nữa. Học viện giống như căn nhà Big Brother nhưng đẹp hơn nhiều vì chúng tôi chia sẻ mọi thứ cùng nhau. Nếu bạn đến phòng ăn muộn thì những gì còn lại chỉ là miếng bít tết dở tệ và căn phòng trống không nhưng bạn sẽ có những kỷ niệm đẹp. Đó là một trải nghiệm tuyệt vời.”
“Chúng tôi ở cùng nhau hai mươi tư giờ một ngày và vì vậy, chúng tôi đã có một tình bạn tuyệt vời. Cuối cùng thì cậu bạn hàng xóm bất đắc dĩ cũng sẽ trở thành người bạn tâm sự của bạn và bạn cũng sẵn lòng lắng nghe cậu ấy.” Jordi vẫn luôn là bạn, là người để Andrés giãi bày tâm sự, dù là lúc đó hay bây giờ.