"Chúng tôi gặp cậu ấy lần đầu trong một buổi kiểm tra năng lực và sau năm phút, chúng tôi đã đưa Iniesta ra khỏi sân bóng. Chúng tôi đã xem đủ rồi."
- Balo, huấn luyện viên của Albacete
Năm Andrés lên 8, anh có vóc dáng nhỏ bé, gầy nhẳng, trắng bệch và mỏng manh như một tờ giấy. Vài người cho rằng anh có khuôn mặt hoàn hảo, ngây thơ và trong sáng. Vài người khác lại nhìn anh dưới hàng nghìn góc độ khác nhau: khả năng kiểm soát không gian mọi lúc mọi nơi, luôn theo kịp tốc độ của bóng và trận đấu, nhưng đồng thời cũng điều khiển bóng, kiểm soát nó ở mọi ngóc ngách trên sân cỏ. Ngày hôm đó, trên một cái sân bê tông gồ ghề đã diễn ra một buổi kiểm tra năng lực. Hàng trăm đứa trẻ được dõi theo, được đánh giá. Tương lai của chúng sẽ được quyết định tại đây. Andrés đã chơi như thể đó là sân nhà của mình - sân bóng bê tông của trường học ở Fuentealbilla, nơi cậu bé Andrés luôn có mặt.
Ngày qua ngày, từ sáng tới tối, Andrés luôn ở sân bóng. “Tôi thường dành nhiều giờ để chơi bóng, đặc biệt là sau giờ học. Thật tiếc vì sân bóng chẳng có đèn pha. Khi trời tối, tôi buộc phải về nhà. Đôi khi, mẹ hoặc bà phải đến tìm tôi ở đó. Nếu có đèn pha như bây giờ, có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ rời khỏi đó.”
Cậu bé Iniesta không hề hay biết ngay trên sân bóng của trường - chỉ cách bar Luján chưa đầy trăm mét, nơi mẹ Mari chạy qua chạy lại, nơi cha José Antonio quản lý một đội thợ nề trong vùng - câu chuyện về một huyền thoại sắp ra đời. Không ai có thể tưởng tượng ra điều đó, kể cả gia đình hay những người bạn đã cùng anh chia sẻ niềm đam mê bóng đá.
Abelardo, biệt danh “El Sastre” (thợ may), vẫn còn nhớ như in cậu bé nhỏ nhắn ngày ngày tới nhà mình mang tên Iniesta. “Tôi lớn hơn Iniesta bốn tuổi. Năm Andrés lên 6, tôi lên 10. Nhưng cậu ấy chơi bóng hơn tôi gấp ba, bốn lần. Chúng tôi quen nhau nhờ bóng đá. Chỉ có bóng đá và bóng đá thôi. Chúng tôi chẳng quan tâm tới bất cứ thứ gì ngoài bóng đá. Mỗi ngày cậu ấy đều đến nhà tôi, một tay cắp bóng. Đó là quả bóng duy nhất chúng tôi có. Nó giống như một cái gì đó được vo tròn thì đúng hơn. Nhưng dù sao chúng tôi vẫn có thể chơi với nó.”
“Cậu ấy sẽ đến tận nhà và bắt tôi chơi cùng. Nếu cậu ấy không đến thì tôi cũng sẽ tới bar Luján. Chúng tôi hẹn nhau rồi tới sân chơi của trường để đá bóng. Chúng tôi chơi ở đó rất lâu, cho tới khi bị gọi về. Thường thì bà của Andrés sẽ tới đón cậu ấy về. Tôi thì lớn hơn nên tôi thường tự đi bộ về nhà. Chẳng có một ‘sân bóng’ nào khác ở Fuentealbilla vào thời điểm đó.”
Một phần sân chơi đã được quây riêng thành sân bóng rổ, đánh dấu bằng một cái cây khổng lồ ở một góc. “Tôi không biết tại sao nhưng cái cây là thứ tôi luôn nhớ tới, nó luôn trong ký ức của tôi. Bố mẹ nói với tôi rằng trước khi họ xây dựng sân chơi, bãi đất đó là một cái ao và ở đó có cái cây ấy. Julián, Andrés và tôi đã dành tất cả thời gian ở đó để chơi bóng. Chúng tôi tập đá phạt, đá xa. Ở đó có mọi thứ chúng tôi cần.”
Tất cả mọi thứ chỉ xoay quanh trái bóng. “Tôi thực sự rất muốn tìm lại quả bóng đó”, Abelardo nói. “Nó làm bằng cao su, cứng, mặt ngoài bị mài mòn, sờn cũ.”
Thậm chí Julián còn không chắc quả bóng có màu gì nữa. “Tôi không còn nhớ màu sắc của nó. Nhưng tôi vẫn nhớ hình ảnh Andrés vừa đi đường vừa đá quả bóng đó. Ngay cả bây giờ, mỗi khi tôi gặp lại cậu ấy, hình ảnh đó lại hiện ra trước mắt tôi. Cậu ấy giống nhân vật Oliver Atom trong phim hoạt hình Oliver và Benji. Không lúc nào cậu ấy rời quả bóng.”
Kể cả “Peto” (Áo giáp) - biệt danh của Julián – cũng còn nhớ hình ảnh Andrés ôm bóng đến nhà mình sau mỗi ngày tan học. “Cậu ấy đến cửa nhà tôi, một tay cầm cái bánh kẹp, tay còn lại ôm quả bóng...
- Làm vài cú sút đi.
- Được ngay, Andrés.”
Sau đó, cả hai tới nhà Abelardo. Đó là bộ ba đầu tiên trong sự nghiệp bóng đá của Andrés Iniesta. Julián sống ngay sau khu bar Luján, tới giờ vẫn vậy.
“Chúng tôi sáng tạo ra các trò chơi: các cuộc thi đá tự do, đá phạt…. Chúng tôi dành hàng giờ ngoài sân chơi. Khi cần một thủ môn, chúng tôi lại rủ một ai đó cùng tham gia. Kiểu gì cũng có cậu bạn nào đó dễ bắt nạt. Andrés luôn là đứa nhỏ con nhất trong bọn nhưng chúng tôi chưa từng coi cậu ấy là một đứa nhóc. Andrés chơi tốt nhất trong đội. Cậu ấy đá quá hay so với bạn bè cùng trang lứa. Cậu ấy phát chán mỗi lần đá với mấy bạn bằng tuổi. Mấy cậu bạn đó chỉ ở đấy để lấp vị trí thủ môn hoặc tạo thành hàng rào phòng thủ cho các cuộc thi đá tự do của chúng tôi thôi. Andrés thì không, hoàn toàn khác.”
“Đôi khi chúng tôi cũng đá tới tận tối muộn ở trong thị trấn”, Julián tiếp. “Rồi rắc rối xảy ra khi quả bóng bay qua tường hoặc bay vào sân trước của nhà nào đó.”
Rồi một đứa trong hội sẽ phải đi lấy bóng về mà phải chắc chắn gây được ấn tượng tốt với hàng xóm. Abelardo hoặc Julián sẽ đi lấy bóng, trong khi đó, Andrés chỉ chờ đợi. Dù sao thì Andrés vẫn nhỏ nhất. “Mặt mày mấy người hàng xóm hằm hằm… nhưng cuối cùng họ luôn trả lại bóng cho chúng tôi, ngay cả khi họ tức giận nói quả bóng chết tiệt. Chết tiệt? Đó là món quà trời ban. Cả quả bóng và Andrés đều là món quà trời ban.”
“Đúng là hầu như bóng lúc nào cũng dính liền với cậu ấy”, Julián nói. “Cậu ấy luôn xuất hiện với quả bóng trên tay… và sau cùng, cậu ấy còn biến chúng tôi thành một chân sút kha khá. Không giỏi bằng một nửa cậu ấy, nhưng cũng không tệ. Chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian với cậu ấy nên ít nhiều cũng học hỏi được phần nào. Chúng tôi nằm trong tốp chân sút giỏi trong thị trấn.”
Abelardo nhớ rằng Andrés đã từng chơi với những đứa trẻ lớn tuổi hơn. “Cậu ấy hầu như chỉ đứng đến eo mấy anh lớp trên nhưng Andrés có thể làm bất cứ điều gì với quả bóng. Andrés có thể đối đầu với đứa trẻ giỏi nhất, lớn nhất mà vẫn có thể bỏ chúng lại đằng sau.”
Ngay cả khi mặt trời lặn, đội của Andrés vẫn có sân bóng của riêng mình. Abelardo vẫn còn nhớ những trận bóng trong căn phòng phía sau nhà ở bar Luján. “Bố mẹ ăn trong quán bar trong khi chúng tôi đá bóng ở phía sau với một cục giấy vo tròn. Một người sẽ làm thủ môn trong khi người còn lại cố ghi bàn. Những trận bóng nảy lửa. Lần nào cả ba đứa cũng nhễ nhại mồ hôi.”
Vào cuối tuần, Julián, Abelardo và Andrés có thêm một đồng đội nhập cuộc: Manu - người anh em họ của Andrés. Anh chính là người đã cảnh báo với thế giới rằng một cái gì đó phi thường đang diễn ra trên các đường phố của một thị trấn vô danh ở La Mancha, một thị trấn mà mọi người còn chẳng thèm nhớ tên.
***
Víctor Hernández, một trong những huấn luyện viên đầu tiên của Iniesta tại Albacete - câu lạc bộ đánh dấu những bước chân đầu tiên của anh trên con đường sự nghiệp - nhớ lại khoảnh khắc Manu de Manuel giới thiệu Iniesta.
Câu chuyện bắt đầu với Pedro Camacho - anh trai của cựu huấn luyện viên Tây Ban Nha José Antonio Camacho, một trong những cầu thủ vĩ đại của Real Madrid. Ông Pedro đã từng là huấn luyện viên của Dani tại Atlético Ibañes. “Dani giỏi hơn tôi rất nhiều”, Andrés từng thừa nhận thế. “Dani”, không ai khác chính là José Antonio Iniesta, cha của Andrés, người tự nhận mình là “một người hâm mộ của Athletic”. Ông được đặt biệt danh theo Dani Ruiz Bazán, tiền đạo làm mưa làm gió ở câu lạc bộ bóng đá thanh thiếu niên Athletic Bilbao của thị trấn Sopuerta những năm bảy mươi và tám mươi. “Dani” là một cầu thủ tinh tế, đã để lại dấu chân trên tất cả các sân bóng ở Albacete. Mọi nơi ông đặt chân tới đều có dấu ấn của đẳng cấp. Ông Pedro cho rằng Dani không giỏi như con trai của mình. “Nhưng ông ấy chơi cũng rất khá. Ông ấy là tiền vệ trung tâm, một ngôi sao sáng ở Preferente và Tercera.”
José Antonio hy vọng con trai sẽ viết tiếp những chiến công còn dang dở của ông. Nhưng ông thậm chí còn không thể kiếm cho con trai một cơ hội để thử sức. José Antonio đọc được thông tin về một buổi kiểm tra năng lực của câu lạc bộ Albacete trên tờ báo địa phương. Ông đưa con trai tới đó, nhưng họ đã bị từ chối vì “thằng bé còn quá nhỏ”. Lúc đó, Andrés chỉ mới 7 tuổi. Quá nhỏ tuổi và quá còi cọc.
Cha của Andrés đã tìm tới Pedro - người đàn ông sau này sẽ hô vang “Iniesta của cuộc đời tôi!”, “Iniesta, tình yêu của cuộc đời tôi!” trên sóng truyền hình khi anh ghi bàn trong trận chung kết World Cup năm 2010. Pedro đã lắng nghe José Antonio. Hiếm khi nào cha của Andrés lại dùng nhiều lời lẽ có cánh như vậy để miêu tả về tài năng của con trai. Ông hy vọng có thể mở một cánh cửa cơ hội cho Andrés. Và Andrés đã có một cơ hội để thể hiện bản thân ở sân bóng của Liên đoàn; cũng không hẳn là một sân đấu thực thụ, nó nhỏ hơn rất nhiều. Nó chỉ to bằng một phần bảy của một sân bóng tiêu chuẩn với nền xi măng và không có phòng thay đồ. Hai cha con đã phải chuẩn bị cho buổi tập trong phòng thay đồ của một sân bóng cách đó không xa.
Pedro tiếp tục kể. “Dani đã đến gặp tôi. Tôi từng là huấn luyện viên của ông ấy ở Atlético Ibañes. Lần đầu tiên tôi nghe tên của ông ấy là khi chủ tịch đội bóng thông báo sự góp mặt của một cầu thủ thực sự tài năng vào tháng Chín tới. Dani đã không thể gia nhập sớm hơn vì phải làm việc ở Mallorca cả mùa hè. Ông ấy gọi điện cho tôi, hỏi về việc có thể đem con trai đi cùng không, vì chỉ có năm, sáu đứa trẻ ở thị trấn và cậu bé chẳng có ai để chơi cùng. Tôi đồng ý nhưng cũng nhắc ông ấy về quãng đường gần năm mươi cây số. Con số chính xác là bốn mươi sáu cây số. Ông ấy biết điều đó. Nhưng bốn mươi sáu cây số không thể làm chùn bước của hai cha con.”
Sau khi được Pedro chấp thuận, José Antonio và Manu vô cùng vui sướng. “Ông sẽ không hối hận đâu, cậu bé ấy thực sự rất giỏi”, Manu nhắc đi nhắc lại. Và anh đã đúng. “Cho dù còn nhỏ nhưng Iniesta nổi bật hơn hẳn so với những đứa trẻ cùng trang lứa”, Manu nhớ lại. “Tôi đã nhận ra điều đó sau một lần làm thủ môn cho cậu bé. Đó là lý do tôi cứ mãi lải nhải về cậu ấy cho đến khi họ chịu gặp Andrés. Họ sẽ nhận ra tài năng của cậu bé.”
Mọi người cha đều nghĩ con họ là cầu thủ xuất sắc nhất thế giới và José Antonio cũng không ngoại lệ. Nhưng ông biết nhiều hơn thế, nhiều hơn những gì họ biết. Ông biết người có thể tin tưởng, biết rằng Albacete đang kiểm tra năng lực để tuyển sinh, biết đó là một cơ hội để con trai ông chứng minh năng lực của mình. Vì vậy, hai cha con lên đường. Sáng hôm đó, José Antonio cùng Andrés bước vào chiếc xe Ford Orion cũ kỹ, rong ruổi bốn mươi sáu cây số đến sân bóng ở Albacete. Có hàng trăm đứa trẻ ở đó. Ban giám khảo gồm có Ginés Meléndez - người quản lý đội bóng thanh thiếu niên vào thời điểm đó, huấn luyện viên Andrés Hernández, con trai của ông ấy - Víctor, và Balo.
“Chúng tôi gặp cậu ấy lần đầu trong một buổi kiểm tra năng lực và sau năm phút, chúng tôi cho Iniesta ra khỏi sân bóng. Chúng tôi đã xem đủ rồi”, Víctor hồi tưởng lại.
Andrés ra sân chưa tới năm phút. Thời gian không thành vấn đề. Không mất quá lâu để thuyết phục được Balo. “Sau tất cả những gì chúng tôi đã được nghe và những gì vừa chứng kiến, chúng tôi đã bị thuyết phục. Thật tuyệt vời khi thấy cậu ấy với quả bóng, cậu ấy nhỏ thó, quả bóng quá to so với cơ thể ấy. Tại sao chúng tôi để Andrés ra khỏi sân sớm vậy ư? Vì chúng tôi cần thời gian suy xét về mấy cậu bé ngấp nghé mốc tiêu chuẩn. Nhưng với Andrés thì khác.”
Không đứa trẻ nào ở đó có thể sánh được với cậu em họ của Manu. “Andrés chơi ở khu vực giữa sân và một khi có bóng, cậu bé không để bất cứ ai cướp lại nó. Không ai có thể. Cũng giống như bây giờ vậy”, Balo nói. Ông dường như không tin nổi vào những gì mình đã thấy trong buổi sáng lạnh lẽo đó.
“Không cần xem thêm nữa. Chúng tôi thấy đủ rồi”, Víctor quả quyết.
“Cậu bé ấy nổi bật trong hàng trăm người”, Pedro nói. Ông là người mở trường đào tạo cầu thủ đầu tiên do Liên đoàn ở Albacete điều hành – đó là một trong những lời hứa của Tổng thống Ángel María Villar khi nhậm chức. Đó cũng chính là nơi con trai của José Antonio chơi bóng trong những đội hỗn hợp nam nữ, trên một sân bóng bê tông, với người huấn luyện viên đã sẵn sàng để dẫn lối cho anh.
Pedro hứa với José Antonio: “Đừng lo lắng. Tôi sẽ để mắt tới đội của thằng bé. Tôi sẽ giúp đỡ thằng bé.” Trong những trận đấu đầu tiên, ngay sau mười lăm phút khởi động, Andrés lấy được bóng, đi bóng qua mọi đối thủ và ghi bàn. Ngày nào cũng vậy, cho tới khi Pedro tới bên Andrés: “Con cũng phải chuyền bóng cho đồng đội của mình. Chuyền bóng cho đồng đội, nhớ nhé?”
Cậu bé làm đúng như những gì được bảo. Quả bóng không chỉ nằm dưới chân của Andrés nữa. Cậu bé chuyền bóng cho tất cả đồng đội mặc cùng một bộ quần áo có logo của Liên đoàn. Chỉ có một vấn đề duy nhất. Mỗi khi chọn đội, tất cả những đứa trẻ đều muốn ở cùng đội với Andrés. Chúng biết rằng chúng sẽ thắng. Chúng cũng muốn tập luyện với Andrés. Nhưng Andrés rất hiếm khi nói một lời. Cậu bé luôn im lặng.
“Tôi là một trong những người chơi tệ nhất”, Mario nhớ lại những ngày đầu gặp Andrés. “Có khoảng mười hai người trong đội và tôi đứng tận thứ mười. Dĩ nhiên, Andrés luôn là người dẫn đầu. Cậu ấy là đội trưởng. Ai cũng muốn được tập luyện cùng với cậu ấy. Tất cả chúng tôi đều vây quanh Andrés. Andrés chẳng mấy khi mở lời nhưng cuối cùng cậu ấy chọn tôi làm bạn tập. Có lẽ cậu ấy muốn giúp đỡ một đồng đội yếu hơn chăng? Cậu ấy có thể chọn một đứa trẻ chơi tốt hơn tôi. Tôi cũng không hiểu tại sao nữa.”
Tới giờ Mario và Andrés vẫn là bạn. “Cậu ấy đến từ Fuentealbilla, tôi đến từ Albacete. Tôi không biết gì về cậu ấy cả. Nhưng ngày đầu tiên chúng tôi gặp mặt, cậu ấy ghi hai bàn và tôi cũng vậy. Khá dễ dàng. Chúng tôi chỉ chờ đợi những cú dứt điểm từ khu vực mười một mét. Lúc đó, chúng tôi đã 8 tuổi và thủ môn thì không thể đá xa đến thế. Bóng rơi đúng chỗ chúng tôi. Andrés cướp bóng, chuyền cho tôi và… vào!!”
Trận đấu kết thúc với tỉ số 4-1; và mỗi khi Mario gặp lại Andrés, anh luôn nhớ về khoảnh khắc đó. “Mario, cậu còn nhớ những chiếc quần soóc màu đỏ lùng thùng đó không?”
Có một hình ảnh khác mà mọi người luôn nhớ tới khi nhắc đến Andrés. Trong những buổi tập giữa ngày ở Albacete, chỉ ngay trước lúc bắt đầu vài phút, cậu bé nhỏ con ấy mới xuất hiện. “Cậu ấy phải vượt qua một quãng đường dài để tới đó. Bố cậu ấy phải làm việc ở các công trường xây dựng và ông không thể mang cậu đi cùng. Sẽ chẳng có vấn đề gì với những đứa trẻ sống ở Albacete như tôi. Chúng tôi tan học, tới sân tập rồi quay trở lại trường. Nhưng cậu ấy thì khác. Cậu ấy phải đi rất xa và thường đến muộn trong các buổi tập.”
Andrés phải thay đồ trong xe lúc đi. Trên đường trở về, cậu bé ngấu nghiến chiếc bánh sandwich mẹ làm cùng nước ép cho bữa trưa. Cậu ấy luôn vội vã, cả lúc đến và lúc về.
“Tại sao chúng tôi phải tập luyện vào buổi trưa ư? Thường thì sân bóng chẳng trống vào bất cứ thời điểm nào khác. Tất cả các nhóm phân theo độ tuổi đều tập trên cái sân này. Và còn vì huấn luyện viên Balo làm việc trong một sòng bạc ở Albacete. Andrés thường ra khỏi xe với giày và quần áo tập chỉnh tề, sẵn sàng để tập luyện.”
Cứ thứ Ba và thứ Năm, Mario và Andrés lại chơi chung đội. Nhưng vào cuối tuần, cả hai ít khi chơi với nhau. Mario thường không đề nghị. Họ không có nhiều cơ hội để nói chuyện: một người sống ở Albacete, một người ở Fuentealbilla. Họ thường chỉ gặp nhau trên sân tập. Andrés cũng không phải kiểu người hay bắt chuyện.
“Thời đó, ở Albacete không có nhiều sân bóng”, huấn luyện viên Víctor Hernández nhớ lại. Tất cả những trận đấu của các đội tuyển dưới 10 tuổi đều diễn ra ở cái sân đó. Vào cuối tuần, có đến mười, thậm chí là mười hai trận đấu được tổ chức ở đó. “Sân bóng không có phòng thay đồ nên chúng tôi phải thay đồ trong xe. Ở đó cũng chẳng có phòng tắm. Những đứa trẻ thường mặc đồ sẵn từ nhà hoặc thay quần áo trong xe. Andrés thường chỉ cởi quần dài rồi chạy ra sân. Gần như mọi trận đấu đều diễn ra tại đó dù thi thoảng chúng tôi cũng tập luyện ở Almansa, Hellín hoặc Caudete.”
Càng ngày mọi người càng chú ý đến cậu em họ của Manu. Tại sao lại không chứ? Andrés nhỏ con nhưng vẫn là một đối thủ đáng gờm đối với những đứa trẻ khác. Víctor quả quyết rằng Andrés là một đứa trẻ phi thường, một cầu thủ thực thụ. Cậu bé luôn nổi bật trong mọi trận đấu. “Cậu ấy đã làm nên những điều phi thường. Đôi chân của cậu bé đúng là kỳ diệu. Tôi có thể dạy cậu bé những điều đó không ư? Chắc chắn là không. Nó có từ bên trong cậu bé. Thật tuyệt vời khi được xem cậu bé chơi bóng.”
Ngay từ ngày đầu tiên gặp Andrés, tất cả những huấn luyện viên đều cảm nhận được điều phi thường ấy. Huấn luyện viên Pedro Camacho thừa nhận, “Không chỉ riêng mình tôi đâu. Tất cả bọn họ đều cảm nhận được điều ấy. Đứa trẻ này thật phi thường dù chẳng ai trong chúng tôi có thể tưởng tượng được thành công sau này của cậu ấy. Ở độ tuổi của cậu bé, đó là một điều đáng kinh ngạc. Nhưng cậu bé ấy dường như không thuộc về nơi này. Chúng tôi không biết phải làm gì với Andrés… Cậu ấy như người ngoài hành tinh vậy.”
Tin đồn nhanh chóng lan khắp Albacete. Víctor đầy tự hào khi hồi tưởng lại những chiến công họ đã đạt được. “Không ai có thể đánh bại chúng tôi. Chúng tôi đã thắng trong mọi trận đấu.” Đó là đội U10 của Albacete - đội của Andrés và những người bạn. Bruno chơi cánh trái; José Carlos là thủ môn; còn có cả Mario và Carlitos Pérez - sau này, cậu thi đấu ở Slovakia, sau khi Rafa Benítez chuyển nhượng cậu lại cho Valencia chỉ để giữ cậu không đầu quân cho Mestalla; và Jose David, được đặt biệt danh là “Chapi” theo tên hậu vệ cánh Chapi Ferrer của Barcelona - người không ngừng di chuyển bên cánh trái, cứng rắn, hung dữ y như chủ nhân của cái tên. Chapi là một fan hâm mộ của Barcelona (và giờ cậu ấy cũng là một thành viên của đội); cậu ấy còn có nét hao hao giống Ferrer vì hai người đều có mái tóc lơ phơ, tới giờ vẫn vậy. “Nếu tôi không phải fan hâm mộ Barcelona, tôi sẽ không bao giờ để họ gọi là Chapi”, cậu ấy đã nói thế.
Chapi không bận tâm ganh đua với Andrés: “Tất cả mọi người gọi tôi là Chapi, trừ cậu ấy. Tôi cũng không biết tại sao. Có lẽ cậu ấy xấu hổ. Andrés là người duy nhất gọi tôi là José. Tôi chơi ở vị trí hậu vệ cánh. Cuối cùng, tôi đầu quân cho câu lạc bộ Gineta ở Tercera. Tôi kết hôn và, bạn biết đấy…”
Vào buổi kiểm tra năng lực ngày hôm đó, Chapi cũng nhận ra điều ấy. Tất cả đều nhận ra. “Hôm đó, tôi nhìn Andrés và tự nhủ không biết cậu ấy tới từ hành tinh nào. Cậu ấy nổi bật hơn hẳn so với hai trăm đứa trẻ cùng đứng trên cái sân đó.”
“Tôi nhớ cậu ấy rất ít nói nhưng luôn làm người xung quanh cười. Cậu ấy trông xanh xao, y hệt bây giờ vậy. Và lúc nào, trông cậu ấy cũng như đi mượn đồ của người khác. Chiếc áo nào cũng rộng thùng thình.”
“Dù khá kín tiếng, phẩm chất của cậu ấy luôn thể hiện trên sân cỏ. Andrés luôn gánh vác cả đội bóng trên đôi vai nhỏ bé. Cậu ấy không sợ gì hết. Cậu ấy luôn là người đá phạt.”
“Cậu ấy và Remi là đội trưởng và cả hai đều rất nghiêm túc. Andrés không bao giờ phàn nàn với trọng tài. Cậu ấy không bao giờ tức giận và luôn làm rõ về những điều mình muốn. Tôi và cậu ấy được xếp cùng một phòng khi tham gia giải đấu Brunete. Có một lần, tôi nhảy nhót khắp giường, làm một cây vợt, chạy quanh khách sạn và đùa nghịch với những đứa trẻ ở đội khác cho đến khi Andrés quay sang nói với tôi: ‘José, kéo cửa chớp xuống và tắt đèn đi! Chúng ta có một trận đấu vào ngày mai. Đi ngủ ngay đi! Chúng ta phải nghỉ ngơi.’ Cậu ấy cư xử như một cầu thủ chuyên nghiệp thực thụ.”
Andrés là một cầu thủ chuyên nghiệp khi mới chỉ là một cậu bé. Tất cả họ đều là những đứa trẻ, cùng sinh năm 1984 và yêu thích bóng đá. Lịch trình của những cậu bé ấy lặp lại hằng ngày, từ trường tới sân bóng rồi lại từ sân bóng quay về trường học.
Huấn luyện viên Víctor vẫn nhớ như in hình ảnh của Andrés vào lúc đó. “Khi đó, thời gian học ở trường được chia thành hai buổi, và thường thì bọn trẻ sẽ luyện tập vào buổi trưa. Andrés thường đến Albacete ngay sau giờ học, trên tay không quên cầm theo chiếc bánh sandwich mẹ làm. Cả đội sẽ luyện tập từ mười hai rưỡi hay muộn hơn một chút đến tận hai giờ chiều. Chúng tôi chẳng thể luyện tập vào thời điểm khác trong ngày, cũng chẳng thể tập ở đâu khác ngoài sân bóng đó.” Đôi khi Andrés phải ghé qua và thay đồ ở nhà anh họ Manu.
Huấn luyện viên Balo thường cho Andrés kết thúc buổi tập sớm hơn một chút. “Cậu bé sẽ tập bù vào buổi chiều. Nhưng dù gì thì đó cũng là một nỗ lực phi thường của gia đình cậu ấy.”
Bố và ông của cậu ấy luôn đến sân bóng, ngắm cậu bé luyện tập rồi lại lái xe đưa Andrés về. Hai lần một tuần, họ vượt qua một trăm kilomet trong ba giờ đồng hồ, thay phiên nhau lái xe còn Andrés luôn lặng lẽ ngồi ghế sau với chiếc bánh sandwich chorizo và nước trái cây.
Ông Juanon, huấn luyện viên của Andrés tại trường Salesiano ở Albacete, cũng phải công nhận anh là một đứa trẻ trầm tĩnh. “Cậu bé ấy thậm chí còn không chào hỏi mọi người khi tới sân hay lúc ra về. Cậu bé ấy trầm vậy đó. Thường vào thứ Bảy hằng tuần, đội sẽ có một trận đấu giao hữu, không ganh đua. Andrés bé nhỏ nhưng là bé hạt tiêu. Không ai có thể giữ bóng tốt như cậu nhóc ấy. Chắc cậu ấy chẳng thể nặng quá bốn mươi cân vào lúc đó. Tôi thậm chí còn chưa trò chuyện với cậu ấy một lần nào.”
Huấn luyện viên Balo nhớ mãi về ngày thứ Sáu ấy, ngày diễn ra cuộc họp định kỳ giữa các huấn luyện viên để nhận xét và đánh giá về những cầu thủ nhí trong câu lạc bộ thanh thiếu niên. “Andrés ở đó cùng với bố của Víctor, Víctor và đương nhiên là cả Ginés Meléndez nữa. ‘Này Madre mía, Balo! Cứ đợi xem Andrés tập luyện vào năm tới đi.’ Tôi không được xem cậu nhóc ấy đá kể từ sau buổi kiểm tra năng lực. Tôi quản lý đội bóng thuộc nhóm tuổi khác… Tôi vẫn luôn mong chờ được chứng kiến điều ấy.”
Balo đã được nghe về Andrés nhiều đến mức ông quyết định tới xem cậu chơi bóng ngay cả khi cậu chưa được chuyển vào đội của mình. Không để cho ai biết, ông lặng lẽ dõi theo buổi tập kế tiếp của Andrés. Ông tới sân nhưng chỉ đứng nép trong góc và quan sát. Balo không muốn ra mặt, cũng không muốn ai chú ý tới ông. Tránh xa khu vực nơi phụ huynh, bạn bè và gia đình theo dõi con của họ, ông đứng một mình, lặng lẽ quan sát. Ông muốn tận mắt xem tài năng của cậu bé này. Họ nói đúng. Cậu bé ấy chơi bóng một cách xuất sắc.
Balo tự nhủ: “Madre mía. Năm tới sẽ tuyệt vời lắm đây.”
Mỗi lần Andrés chạm vào bóng, ông lại cảm thấy háo hức và tự hào. Đây sẽ là cậu bé ông huấn luyện vào năm tới. Khi Ginés bắt gặp Balo ở sân bóng, huấn luyện viên Balo đã đề nghị một điều: “Dù có chuyện gì xảy ra, đừng sa thải tôi trước năm sau.”
***
Ginés Meléndez và Balo đều hết sức vui mừng. Bruno Moral - một thành viên khác của đội Albacete hồi tưởng: “Tôi vẫn nhớ Andrés với mái tóc rẽ ngôi giữa. Nó thẳng và rõ tới mức trông như ai đó vừa bổ rìu vào đầu cậu ấy vậy. Trông cậu ấy chẳng có điểm nào giống với một cầu thủ bóng đá hết.”
“Đó là một năm đáng kinh ngạc”, Bruno tiếp. “Mọi người quanh đây đều biết tôi vì tôi chơi ở Albacete. Mỗi lần tôi xuống phố, mọi người đều hỏi về trận bóng của chúng tôi. Sân bóng lúc nào cũng có người. Vào thời điểm đó, sân bóng ấy nổi tiếng như Carlos Belmonte lừng lững của Albacete hiện tại vậy. Không quan trọng việc đội đối đầu với chúng tôi là ai, chỉ cần Andrés có mặt trên sân, mọi người sẽ tới. Tin đồn lan đi rất nhanh. Ai cũng kháo nhau về một câu bé thiên tài chơi trong đội của huấn luyện viên Balo…”
Những lời đồn lan khắp Albacete. Chẳng mấy chốc, Andrés đã trở nên “nổi tiếng”.
“Tôi đã từng tận tai nghe trọng tài yêu cầu huấn luyện viên Balo đưa Andrés ra khỏi sân để tăng tính công bằng cho trận đấu”, Bruno nói. “Ai cũng có thể nhận thấy tài năng của cậu ấy. Cậu ấy chiến thắng một cách quá dễ dàng.”
“Tôi nghĩ vấn đề của Andrés nằm ở đó. Mọi thứ cậu ấy làm trông dễ dàng đến nỗi không ai có thể nhận ra những khó khăn cậu ấy phải vượt qua. Tôi cũng từng tưởng mình có thể làm được điều tương tự. Nhưng không. Cậu ấy đá như đang chơi một ván PlayStation vậy, trước cũng vậy, giờ vẫn thế. Bằng cách nào đó, Andrés luôn bao quát được cả sân để tìm một lối đi. Tôi không tài nào hiểu nổi, bằng cách nào cậu ấy có thể làm được điều đó. Trên khán đài, bạn chắc chắn có thể nhìn thấy cả sân bóng nhưng ở trên sân thì sao? Chẳng thể nào! Chỉ cậu ấy mới có khả năng đó. Nhiều lúc, cậu ấy trông như đang đi bộ vậy, di chuyển qua lại nhưng chẳng ai có thể ngăn được cậu ấy. Có những lúc tôi ngỡ rằng cậu ấy đang nhả bóng, cậu ấy bị vấp ngã, cậu ấy không hoàn toàn kiểm soát được bóng… Nhưng điều đó không bao giờ xảy ra. Cậu ấy sẽ tăng tốc đột ngột và rồi tôi sẽ lại ‘hít khói’. Cậu ấy luôn lừa bóng như vậy. Luôn luôn.”
“Khi còn là một đứa nhóc, đôi khi tôi cũng bị áp lực ngay trên sân vì tôi chẳng biết làm cái quái gì với nó cả. Sự lựa chọn hàng đầu lúc đó là chuyền bóng cho Andrés. Cậu ấy sẽ không bao giờ làm mất bóng. Bất cứ khi nào có bóng, cả đội đều chuyền cho cậu ấy. Andrés sẽ đưa ra quyết định đúng đắn. Mỗi đường chuyền của cậu ấy đều chuẩn xác. Cậu ấy trả bóng lại cho các thành viên trong đội và để họ tiếp tục tấn công. Tất cả đối thủ của chúng tôi đều bị đánh bại theo cách đó. Thường sẽ có hai hoặc ba người kèm cậu ấy trong suốt trận đấu nhưng cậu ấy sẽ xoay vòng vòng, rồi bằng cách nào đó, cậu ấy vẫn sẽ thoát ra khỏi vòng vây cùng với quả bóng. Cậu ấy phải chịu quá nhiều áp lực! Andrés đã luôn gánh vác đội bóng khi còn là một đứa trẻ và bây giờ vẫn vậy, bất kể là trong trận chung kết World Cup hay chung kết Champions League.”
“Mọi người đều tung hô bàn thắng của cậu ấy trong trận chung kết World Cup nhưng hãy tạm quên bàn thắng ấy và quan sát thật kỹ cách Andrés chơi. Cũng giống như những gì cậu ấy đã từng làm khi đấu với tôi ở Salesianos, cậu ấy di chuyển xa khỏi khung thành tận năm mét. Cậu ấy ra hiệu chuyền bóng, bắt cặp với một đồng đội và bắt đầu kế hoạch. Cậu ấy kiểm soát trận đấu ở đó. Đối thủ luôn bị Andrés đánh lạc hướng. Trông cậu ấy có vẻ yếu đuối, nhưng hãy nhìn sức mạnh của đôi chân ấy đi! Trông cậu ấy có vẻ chậm chạp nhưng hãy nhìn cái cách mà cậu ấy vọt lên trước đối thủ. Quên vẻ bề ngoài của Andrés đi! Đừng tin vào những gì cậu ấy muốn bạn thấy. Andrés trông chả có vẻ gì là một cầu thủ bóng đá nhưng hãy nhìn xem, giờ cậu ấy đang đứng ở đâu.”
Thật đáng tiếc, Bruno đã không thể sát cánh cùng Andrés thêm nữa, anh đã từ bỏ bóng đá. “Tôi tham gia đội Albacete lần đầu tiên ở tuổi 16. Nhưng sau đó, tôi cảm thấy có chút thất vọng. Tôi chưa từng được chính thức ra mắt. Có những thay đổi trong các cuộc họp, những chuyện xảy ra ngoài sân cỏ, đủ loại vấn đề… Tôi đã thử đá cho một câu lạc bộ khác và thậm chí còn không được trả lương trong ba tháng đầu tiên. Tôi chơi ở vị trí trung vệ, cũng giống như Andrés. Tôi đã từng chuyền bóng cho cậu ấy nhưng bây giờ là Busquets, Neymar, Messi… ha ha ha!”
“Tôi còn nhớ giải đấu ở Santander, khi chúng tôi phải đối đầu với Jonatan Valle của đội Racing. Mỗi lần di chuyển với Andrés như một cuộc phiêu lưu vậy. Cậu ấy bị ốm, nhớ nhà rồi bắt đầu nôn mửa. Ngày đầu tiên thi đấu, Andrés đã không thể tham gia vì liên tục nôn mửa.”
“Cũng may là cậu ấy đã hồi phục kịp thời cho giải đấu. Nhưng không như kế hoạch của chúng tôi, đó là giải bóng đá bảy người. Ban tổ chức đã gửi thông báo ngay trước thềm trận đấu về việc cấm sử dụng giày đinh. Chúng tôi đã phải đá bằng giày Astroturf đế cao su. Andrés đã mua một đôi Umbros màu xanh nhưng chúng hơi quá cỡ với cậu ấy, thế là Andrés phải nhồi bông gòn vào giày cho vừa chân. Và khi chúng tôi bước ra sân cỏ, cũng may đó là sân cỏ, đội đối thủ đang đi giày đinh. Chúng tôi thua 5-4 và cả bốn bàn đều là của Andrés. Năm sau, đội chúng tôi đã trở lại và giành chiến thắng nhưng lúc đó cậu ấy đã gia nhập Barcelona. Chúng tôi chắc chắn Andrés cũng biết điều đó: Cậu ấy phải ra đi để chúng tôi có thể tự chiến thắng bằng thực lực của mình.”
***
José Carlos - thủ môn của đội Albacete - vẫn giữ một món quà lưu niệm đặc biệt của Andrés trước khi anh rời khỏi đội. “Tôi vẫn có những bức thư Andrés gửi từ La Masia, sau khi cậu ấy gia nhập Barcelona. Andrés rất thích viết. Không phải là mấy dòng ghi vắn tắt; những bức thư này dài tới sáu, bảy trang. Đôi khi, tôi cũng gọi tới La Masia để nói chuyện với cậu ấy. Chúng tôi dành cả mấy năm trời để kể chuyện cho nhau nghe. Đến tận bây giờ, mỗi khi đọc lại những bức thư đó, tôi vẫn cảm thấy xúc động.”
“Andrés viết cái gì ư? Mỗi thứ một chút, phần lớn là về cuộc sống ở Barcelona. Chẳng hạn, ‘Hôm nay bọn tớ đấu với đội Castelldefels và thắng 40-0. Ở đây có mọi thứ. Phòng thay đồ có đủ thứ cậu cần. Cậu chẳng phải lo gì cả…’ Tuy nhiên, không phải lúc nào cậu ấy cũng vui vẻ. ‘José, tớ nhớ nhà quá. Thực sự, rất nhớ. Sống ở đây thật khó khăn.’ Đương nhiên, tôi biết chuyện đó khó khăn tới mức nào. Nếu là cậu ấy, tôi sẽ chẳng thể vượt qua được.”
Mỗi giờ trôi qua ở La Masia đều là một trận chiến trong tư tưởng. Mỗi ngày trôi qua, ký ức về quãng thời gian hạnh phúc ở Fuentealbilla và Albacete ngày càng rõ nét hơn. Andrés trân trọng những ngày đó, trân trọng hơn bao giờ hết. Anh nhớ nó. Nhớ cái sân tập nền bê tông, nhớ cái sân chơi của trường, nhớ những ngày đó.
“Tất cả những gì tôi có thể làm chỉ là nhìn lại thời thơ ấu với niềm hạnh phúc và nỗi nhớ”, Andrés nói. “Tôi đã dành hàng giờ trên sân chơi của trường. Những trận đấu đó kéo dài vô tận. Sau khi lớp học kết thúc vào buổi trưa, nếu không phải tập luyện ở Albacete, tôi sẽ cùng Julián và Abelardo đấu một trận theo luật mà chúng tôi đặt ra. Chúng tôi hầu như chỉ đấu với mấy anh lớn hơn chúng tôi ba hay bốn tuổi. Trò chơi rất đơn giản: Mỗi người phải đá năm quả penalty, năm cú đá phạt trực tiếp và năm cú sút xa từ giữa sân mà không cần thủ môn.”
“Tôi yêu trò chơi đó và cả những mùa hè chơi bóng đá năm người. Những trận đấu dường như kéo dài mãi mãi. Chúng tôi phải tập hợp một đội bóng chính thức bởi vì nếu thua, chúng tôi sẽ phải rời khỏi sân. Chỉ có đội chiến thắng mới được chiếm sân. Đội thua phải đứng chờ giữa trời lạnh. Tôi yêu những điều đó.”
“Chúng tôi luôn chơi với mấy anh lớn. Chơi vậy vui hơn. Vào tháng Tám năm đó, chúng tôi đã tổ chức một giải đấu bé xíu trong mùa lễ hội. Chúng tôi đã có một đội tuyệt vời. Chúng tôi rất nghiêm túc khi tham gia. Chúng tôi muốn đánh bại tất cả, ngay cả khi đối thủ lớn hơn rất nhiều. Chúng tôi tràn đầy năng lượng. Thậm chí, ba đứa còn tổ chức họp mặt trước trận đấu nữa. Anh họ tôi và tôi sẽ ghi chép lại tất cả: số điểm, các đội, những người đã ghi bàn, những gì đã xảy ra trong trận đấu. Trước giải đấu, chúng tôi thậm chí còn tổ chức ký tặng và mở một buổi tuyển chọn nữa… như một đội bóng chuyên nghiệp thu nhỏ vậy. Nó thực sự rất vui! Tôi sẽ luôn nhớ những khoảnh khắc đó. Chúng sẽ luôn là một phần của tôi.”
Andrés thậm chí còn chơi bóng ở trong nhà. Manu nhớ lại, “Phòng khách nhà tôi cũng trở thành sân vận động của cậu ấy. Chúng tôi làm một quả bóng bằng tất để giảm tiếng ồn và không làm phiền hàng xóm.”
Điều quan trọng nhất là đảm bảo không có đồ đạc bị đổ vỡ. “Khi đội hình chính thức của Albacete ra quân, đáng lẽ chúng tôi phải đá. Nhưng đôi khi, chúng tôi thích chơi với nhau đến nỗi còn kiếm lý do để được ở nhà. Nào thì đau bụng, nào thì đau đầu… Chúng tôi tự bảo nhau nên ở nhà thì hơn.”
Mấy trò giả vờ lần nào cũng hiệu nghiệm, không phải tất cả nhưng có thể nói là phần lớn. Tuổi thơ của Andrés cùng với những người bạn ở Fuentealbilla đã trôi qua như vậy đó. Rồi đến một ngày, chính bóng đá đã chấm dứt quãng thời gian ấy, thứ bóng đá chuyên nghiệp. Và Andrés chuyển đến Barcelona.
Nhiều người trong thị trấn không tán thành quan điểm của gia đình Andrés trong việc ủng hộ sự nghiệp bóng đá đầy triển vọng của cậu, họ không tán thánh chuyến đi dài tới La Masia. “Nhiều người nghĩ rằng gia đình tôi thật ngốc và rằng họ quá điên rồ khi để tôi tới La Masia. Đương nhiên, điều đó cũng có phần điên rồ nhất định. Khi họ hỏi sao bố mẹ tôi lại có thể đưa ra một quyết định điên rồ tới vậy, cả hai chỉ trả lời họ có một niềm tin mãnh liệt, rằng tôi sẽ trở thành một cầu thủ thực thụ.”
“Nhưng bằng cách nào để đạt được điều ấy? Sẽ ra sao nếu tôi không thể đi đến đỉnh vinh quang? Sẽ ra sao nếu một ngày tôi trở về nhà tay trắng? Tất cả đều không thành vấn đề khi tôi được làm điều mình muốn, khi tôi có hy vọng và sự nhiệt thành, khi tôi tin vào điều gì đó. Tất cả đều không thành vấn đề nếu tôi được làm những gì mình thích và sống hết mình vì giấc mơ đó.”
Cậu nhóc đó tin vào chính mình, rằng chắc chắn cậu sẽ làm được. Andrés không rõ mình sẽ bắt đầu từ đâu nhưng anh tin chắc cuộc đời của mình sẽ gắn chặt với quả bóng tròn. Anh ấy không dao động bởi bất cứ ai, cho dù có bị bủa vây bởi những lời chê trách, gièm pha ở La Masia.
Và Andrés đã thành công. Mỗi bước chân của anh đều làm các huấn luyện viên kinh ngạc, trong đó có Catali - một trong những huấn luyện viên của anh ở Albacete: “Tôi là kiểu trung vệ cổ điển, là số 5 luôn phòng thủ chắc chắn và có phần dữ tợn. Bất cứ khi nào có bóng, tôi lập tức chuyền đi ngay. Đó là cách tôi chơi bóng. Và rồi tôi gặp Andrés… cậu ấy luôn biết cần phải làm gì với trái bóng. Tôi không cần chỉ bảo thêm điều gì”, Catali nói. “Kể cả khi bóng còn chưa chạm tới chân, cậu ấy đã bao quát được hết tình hình xung quanh. Tôi luôn dặn những đứa trẻ trong đội phải ngẩng đầu lên và quan sát trước khi nhận bóng nhưng với Andrés thì không. Điều đó là không cần thiết. Tới tận bây giờ, tôi vẫn không hết kinh ngạc mỗi lần xem cậu ấy đá. Cậu ấy có thể dự đoán được điều gì sẽ xảy ra tiếp theo ngay cả khi bóng còn chưa tới. Cậu ấy biết những ai đang ở đó, những ai không và trên tất cả, cậu ấy biết phải làm gì.”
“Khi xem Andrés chơi cho Barcelona và đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha, tôi luôn quan sát rất kỹ nhưng vẫn không tài nào hiểu nổi lý do cậu ấy làm được điều đó. Không ai có thể hiểu vì sao cậu ấy lại nắm thế trận như trong lòng bàn tay vậy. Chỉ một mình cậu ấy có thể làm được điều đó.”
Catali chưa bao giờ lý giải được khả năng ấy, cũng giống như Víctor, Juanón, Balo và những huấn luyện viên của Andrés tại Albacete. Họ vẫn luôn dõi theo anh ấy, lúc đó và cả bây giờ, nhưng anh vẫn luôn gây bất ngờ cho họ. Cậu bé ấy khiến cả bang Albacete tôn sùng như tình cảm họ đã dành cho Pelé của Brazil vậy. “Đội của chúng tôi đã thắng ở tất cả các giải đấu: ở vùng, ở bang… ở mọi nơi. Cho dù chúng tôi tới đâu, chúng tôi cũng luôn nổi trội so với những đội khác. Mọi người luôn khen ngợi tôi nhưng không phải vì tôi đã từng chơi ở giải quốc gia mà bởi vì đội của tôi quá xuất sắc.” Ngoại trừ Andrés - người luôn luôn đứng đầu, trong đội cũng có bốn, năm gương mặt khác rất tài năng. Một số may mắn đã thành công nhưng không phải tất cả. Cuộc sống là vậy.
“Tôi đã chọn Andrés làm đội trưởng. Trong bóng đá, cậu ấy được gọi là thủ lĩnh. Tới tận giờ, tôi vẫn luôn thích thú khi nhìn thấy cậu ấy đeo băng tay và phân bua với trọng tài. Cậu ấy chẳng bao giờ nói một lời với chúng tôi. Làm sao con người đó lại có thể nói nhiều đến vậy với trọng tài được cơ chứ?”
Đội của Catali đã thành công nhưng ông luôn luôn dặn dò các cầu thủ: “Đừng nghĩ mình là người giỏi nhất, cũng đừng tự mãn. Kết cục là chúng ta sẽ chẳng có được gì hết.”
Andrés không hề tự mãn. Anh ấy được nuôi dạy trong một gia đình của những con người khiêm tốn, chăm chỉ. Họ luôn hết mình vì Andrés. “Cho dù không có đủ tiền để trả các hóa đơn, thỉnh thoảng ba mẹ lại mua cho tôi một đôi giày Adidas Predator. Tại sao ư? Vì như vậy, con trai của họ có thể bước đi trên đôi giày tốt nhất. Cho dù họ không thể trả tiền thuê nhà tháng sau, con trai họ cũng phải được chơi bóng với đôi giày mới.”
Giờ Andrés không còn đi Adidas nữa. Anh ấy đã gắn bó với Nike nhiều năm nay. Cuộc sống thật kỳ lạ. Phải mất tới cả thập kỷ, Pedro, Víctor, Juanón, Balo và Catali mới được chứng kiến những gì đôi giày ấy đã chứng kiến…
“Bố mẹ đã làm rất nhiều điều cho tôi. Lúc đó, tôi còn không chắc liệu mình có thể trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp hay không. Khi còn trẻ, rất nhiều điều có thể xảy ra. Sống trong một thị trấn nhỏ thực sự rất khó khăn. Bố mẹ tôi đã phải chịu đựng rất nhiều. Không phải ai cũng có thể hiểu được cảm giác bị mọi người nói ra nói vào sau lưng và ánh nhìn đầy phán xét của họ. Tôi hiểu điều đó và tôi cũng biết ơn vì mình đã trải qua điều đó. Họ là minh chứng cho sự đúng đắn trong quyết định của tôi.”
Andrés cần phải cảm ơn bố José Antonio và mẹ Mari, và đương nhiên là cả người anh họ Manu nữa – người đã lải nhải suốt với các huấn luyện viên: “Em họ của tôi chơi khá lắm. Cậu bé thực sự rất tuyệt vời. Ông nên xem cậu bé chơi.”