• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bà tổng thống trước họng súng
  3. Trang 17

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 24
  • Sau

Chương 12

Sáng thứ Ba, ngày 8 tháng Ba

8 giờ 04 phút sáng

Điện thoại reo, nhưng Mark vẫn đang ngủ mê mệt. Chuông vẫn cứ reo. Cuối cùng anh cũng phải dậy. 8 giờ 05 phút, Mark nhìn vào đồng hồ đeo tay. Khốn khiếp thật. Chắc hẳn Giám đốc đã tự hỏi không biết anh đang ở cái chỗ quái quỷ nào. Ô, mà không, sáng nay ông ấy không muốn gặp anh, chẳng phải họ đã thống nhất với nhau vào tối qua rồi sao? Anh chụp lấy ống nghe điện thoại.

“Anh thức dậy chưa?”

“Anh đây.”

“Em cũng yêu anh.”

Mark nghe tiếng gác ống nghe. Một khởi đầu ngày mới tốt đẹp, mặc dù anh sẽ dùng cái ngày đó để điều tra về người đã sinh ra cô ấy. Cô ấy sẽ nghĩ sao nếu biết điều đó nhỉ? Và, gần như chắc chắn là Giám đốc sẽ cho người điều tra cô ấy.

Mark để vòi hoa sen phun dòng nước lạnh liên tục lên người cho đến khi anh hoàn toàn tỉnh ngủ. Bất cứ khi nào vừa tỉnh ngủ thì anh lại muốn được ngủ tiếp. Tuần tới, anh hứa với chính mình là sẽ ngủ bù cho đã mắt. Có cả một đống thứ thổ tả mà anh dự định sẽ làm trong tuần tới nữa kia. Anh liếc nhìn đồng hồ: 8 giờ 25 phút. Nói không với tinh bột sáng nay. Mark bật ti-vi để xem liệu anh ấy có bỏ lỡ chuyện gì đã xảy ra ở phần còn lại của thế giới hay không. Anh đang ngồi xem một bản tin về chuyện Barbara Walters có thể bị mất chức ở Đài CBS68. Nam phóng viên đang nói gì vậy?

68 Công ty truyền thông và phát thanh của Hoa Kỳ.

“Và bây giờ là một trong những thành tựu lớn nhất của nhân loại. Một tàu vũ trụ của Mỹ đã chụp được những bức hình đầu tiên trên Sao Mộc. Lịch sử đang được viết tiếp, nhưng trước khi tiếp tục bản tin này, xin mời quý vị khán giả xem thông điệp về loại thực phẩm đặc biệt dành cho trẻ em mà nhãn hiệu thạch Jell-O đã gửi đến.”

Mark bật cười và tắt ti-vi. Sao Mộc cùng với Thạch Jell-O, có lẽ phải đợi đến tuần sau mất.

Vì đã bị muộn nên anh quyết định chạy vòng lại để bắt tàu điện ngầm từ Trạm Bờ sông cạnh căn hộ của mình. Thật khác biệt với lúc anh lái xe khi tờ mờ sáng, khi đó con đường chỉ có một mình anh. Nhưng lúc 8 giờ 30 phút sáng, từng dòng xe hơi có thể xếp nối đuôi nhau, tắc nghẽn suốt cả quãng đường.

Một cây cột tháp bằng đồng có một chữ M được chiếu sáng đánh dấu lối vào ga tàu điện ngầm. Mark bước xuống một cầu thang cuốn, cái đưa anh đi từ phố xuống dưới ga tàu điện ngầm. Nhà ga dài như một cái đường hầm làm anh nhớ đến một nhà tắm La Mã, được xây bằng đá xám, tối màu có trần cong và lỗ rỗ tổ ong. Một đô-la. Giá vé giờ cao điểm. Anh cần bắt tàu đi tiếp một chặng khác. Lại một đô-la nữa. Mark lần tìm trong túi để lấy đúng một đô la trả tiền vé. Phải ghi nhớ để đổi thêm một đống đồng 25 xu nữa ngay khi đến trung tâm thành phố, Mark tự nhủ trong khi bước lên một cái thang cuốn khác và phó thác đích đến cho nó. Trong giờ cao điểm, từ 6 giờ 30 phút đến 9 giờ 30 phút sáng, cứ năm phút tàu đến một lần. Những cái đèn tròn ở hai bên nhà ga bắt đầu nhấp nháy báo hiệu tàu đang đến. Các cửa toa tàu mở ra tự động, Mark chen vào đám đông trong một cái xe đèn sáng rực rỡ nhiều màu và năm phút sau, anh đã nghe thấy điểm đến của mình được đọc tên trên hệ thống thông báo công cộng của nhà ga: Gallery Place. Anh bước xuống sân ga và đợi một con tàu tuyến Đỏ69. Tàu tuyến Xanh chạy rất hiệu quả vào buổi sáng khi anh tới Văn phòng Khu vực, nhưng để tới Điện Capitol, anh phải chuyển tuyến. Bốn phút sau, Mark bước ra khỏi tàu và đứng dưới ánh nắng mặt trời của Trung tâm Đón khách của nhà ga Union, nơi chỉ huy các hoạt động nhộp nhịp như thoi đưa của xe buýt, xe lửa cùng tàu điện ngầm đi và đến Washington. Tòa nhà văn phòng Thượng viện Dirksen chỉ còn cách ba dãy nhà, ngay trên đường Số 1, ở góc giao với đường Hiến Pháp. Thật nhanh chóng và an toàn, Mark nghĩ khi anh đi tới lối vào Đại lộ Hiến Pháp. Tại sao mình lại bận tâm về chiếc xe hơi nhiều đến thế nhỉ?

69 Red line train là tuyến vận chuyển nhanh chóng của hệ thống Tàu điện ngầm Washington. Đây là một tuyến chính đi qua trung tâm thành phố Washington và là tuyến lâu đời nhất, bận rộn nhất và dài nhất trong hệ thống. Nó tạo thành một chữ “U” dài, hẹp, được giới hạn bởi các trạm đầu cuối tại Shady Grove và Glenmont. Đường màu đỏ là đường duy nhất trong hệ thống không chia sẻ các tuyến đường của nó với một đường Metrorail khác.

Anh đi bộ ngang qua hai cảnh sát thuộc lực lượng bảo vệ Điện Capitol, họ đang kiểm tra cặp tài liệu và các kiện hàng tại cửa ra vào và nhấn nút ‘Đi lên’ khi bước vào thang máy công cộng.

“Vui lòng cho tôi lên tầng bốn,” anh nói với người vận hành thang máy.

Phiên tranh luận của Ủy ban Đối ngoại đã được lên lịch diễn ra ngay sau đó. Mark lấy từ túi áo khoác danh sách ‘Hoạt động hôm nay trong Nhà Trắng và Thượng viện’, cái mà anh ta đã xé ra khỏi tờ Bưu điện Washington. ‘Ủy ban Đối ngoại: 9 giờ 30 phút sáng. Bắt đầu. Tranh luận về chính sách của Hoa Kỳ đối với thị trường chung; đại diện Chính phủ. 4229 DOB.’ Khi Mark bước xuống hội trường, Thượng Nghị sĩ Ralph Brooks ở Massachusetts bước vào Phòng 4229 và Mark theo ông vào phòng tranh luận.

Thượng nghĩ sĩ Brooks là một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ, với vẻ ngoài điển trai như một ngôi sao điện ảnh. Ông đã bám sát nút Tổng thống Kane trong suốt sự nghiệp chính trị của bà, cho đến cuối cùng bị bà thay thế chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao khi bà lên nắm quyền sau cái chết của cố Tổng thống Parkin.

Brooks sau đó đã nhanh chóng giành lại chỗ của bà Kane trong Thượng viện và cạnh tranh với bà trong vai trò ứng cử viên Đảng Dân chủ. Ông ấy chỉ thua kém bà Kane duy nhất một lá phiếu thứ bảy và lên nắm giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện.

Có khi nào ông ta muốn giết Tổng thống để tự mình bước chân vào văn phòng cao cấp nhất trong Chính phủ hay không? Thực ra kế hoạch này cũng sẽ đổ bể, bởi vì nếu Tổng thống Kane bị ám sát thì Phó Tổng thống Bill Bradley, người thậm chí còn trẻ tuổi hơn Brooks, sẽ tiếp quản quyền Tổng thống, và tất nhiên, ông Brooks chẳng còn lại chút cơ hội nào. Không, Thượng Nghị sĩ này không có vẻ gì là một mối đe dọa nghiêm trọng, nhưng Mark vẫn cần bằng chứng trước khi anh ấy có thể gạch tên ông ta trong danh sách tình nghi.

Phòng tranh luận ốp gỗ sáng màu, lấy đá cẩm thạch xanh lá làm điểm nhấn ở chân tường và xung quanh cửa ra vào. Ở cuối căn phòng có một chiếc bàn hình bán nguyệt làm bằng loại gỗ tương tự như gỗ ốp phòng, được đặt cao hơn một bậc so với phần còn lại của căn phòng. Có tất cả mười lăm chiếc ghế màu cam cháy, chỉ có mười chiếc có người ngồi. Thượng nghĩ sĩ Brooks đã ngồi vào ghế của mình, nhưng các nhân viên, phụ tá, phóng viên và viên chức quản lý vẫn tiếp tục đi lại xung quanh. Trên bức tường phía sau các Thượng Nghị sĩ có treo hai tấm bản đồ lớn, một là bản đồ thế giới và tấm còn lại là bản đồ châu Âu. Tại một chiếc bàn ngay phía trước và ở bên dưới chỗ các Thượng Nghị sĩ ngồi, có một nhân viên đánh máy chữ tốc ký ghi lại đúng nguyên văn từng chữ một những gì đã được phát biểu, trình bày. Phía trước là bàn của các nhân chứng.

Hơn một nửa phòng tranh luận có trang bị ghế dư dành cho công chúng và những ghế này thường được sử dụng hết. Một bức tranh sơn dầu vẽ cố Tổng thống George Washington chi phối toàn bộ khung cảnh trong phòng. Người đàn ông đó chắc hẳn đã dành cả mười năm cuối đời để tạo dáng vẽ chân dung, Mark nghĩ.

Thượng Nghị sĩ Brooks thì thầm điều gì đó với một phụ tá và cầm chiếc búa nhỏ gõ nhẹ xuống bàn để báo hiệu mọi người hãy yên lặng. “Trước khi chúng tôi bắt đầu phiên tranh luận,” ông nói, “tôi muốn thông báo cho các nhân viên Thượng viện và báo chí về sự thay đổi trong lịch trình. Hôm nay và ngày mai, chúng tôi sẽ nghe lời khai từ Bộ Ngoại giao liên quan đến Thị trường chung châu Âu. Sau đó, chúng tôi sẽ hoãn các phiên tiếp sau các phiên tranh luận này cho đến tuần tới, để Ủy ban có thể tập trung toàn bộ vào vấn đề cấp bách và gây tranh cãi: buôn bán vũ khí với châu Phi.”

Lúc này, hầu hết mọi người trong phòng đều đã tại vị và các nhân chứng của Chính phủ đang xem lướt qua các bản ghi chú của mình. Mark đã làm việc ở Điện Capitol một mùa hè từ hồi còn là sinh viên, nhưng thậm chí ngay bây giờ anh ấy cũng không thể tránh khỏi cái cảm giác bực mình với một số các Thượng Nghị sĩ khoa trương tại mấy phiên tranh luận này. Bởi vì mỗi Thượng Nghị sĩ làm việc cho ba Ủy ban trở lên, không tính vô số các Ủy ban và tiểu ban đặc biệt nên họ buộc phải chuyên môn hóa và tin tưởng vào sự tinh thông của các Thượng Nghị sĩ đồng nghiệp, cũng như các nhân viên trong lĩnh vực ngoài phạm vi chuyên môn của họ. Và vì thế chẳng có gì là bất thường khi phiên tranh luận của một Ủy ban lại chỉ có ba, hai hoặc thậm chí chỉ một Thượng Nghị sĩ tham dự.

Chủ đề đang tranh luận là Dự luật giải tán Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương - NATO. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã tiến lên thành nước Cộng sản và rời khỏi Thị trường chung, giống như hai hiệu ứng domino chuẩn mực vào thời điểm bước ngoặt của thập kỷ này. Các căn cứ Tây Ban Nha đã bị tháo dỡ ngay sau đó; Vua Juan Carlos đang sống lưu vong ở Anh. NATO đã được chuẩn bị để Cộng sản nắm quyền ở Bồ Đào Nha, nhưng khi Ý cuối cùng đã dựng lên một chính phủ Fronto Popolare ở Quirinal, mọi thứ bắt đầu sụp đổ và tan rã. Giáo Hoàng, tin tưởng vào các phương pháp đã được thử nghiệm và chứng minh, tự nhốt mình sau những cánh cổng và dư luận chung của giới Công giáo Mỹ buộc Hoa Kỳ phải cắt viện trợ tài chính cho Chính phủ mới của Ý. Người Ý đã trả đũa bằng cách đóng cửa các căn cứ NATO của Hoa Kỳ.

Những làn sóng kinh tế từ sự sụp đổ của Ý được cho là đã ảnh hưởng đến cuộc bầu cử ở Pháp, dẫn đến chiến thắng cho Chirac70 và những người theo lập trường của Gaulls71. Các hình thức cực đoan hơn của chủ nghĩa xã hội gần đây đã bị chối bỏ ở Hà Lan và một số nước Bắc Âu. Người Đức hài lòng với nền dân chủ xã hội của họ. Nhưng khi phương Tây bước vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, Thượng Nghị sĩ Pearson đã tuyên bố rằng đồng minh thực sự duy nhất của Mỹ trong NATO là nước Anh, nơi chính quyền Đảng Bảo thủ72 gần đây đã giành được một chiến thắng làm đảo lộn thế cục trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng Hai.

70 là một nhà chính trị người Pháp. Ông đã được bầu làm Tổng thống Pháp vào năm 1995 và 2002. Với chức vụ Tổng thống Pháp, ông đương nhiên kiêm tước vị Đồng hoàng tử của Andorra và Tổng Chỉ huy Binh đoàn Danh dự (Légion d’honneur, gồm những người được thưởng Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh.

71 là một lập trường chính trị của Pháp dựa trên suy nghĩ và hành động của lãnh đạo Kháng chiến Pháp Thế chiến II, Tướng Charles de Gaulle, người sẽ trở thành Tổng thống sáng lập của Cộng hòa Pháp thứ năm. Lập trường này cũng có thể được coi là một hình thức của chủ nghĩa yêu nước Pháp.

72 Conservative Party (tên chính thức là Đảng Bảo thủ và Liên hiệp) là chính đảng lớn theo đường lối trung hữu ở Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland..

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh, Kenneth Clarke, đã tranh luận mạnh mẽ đối với sự tan rã chính thức của NATO. Một bước đi như vậy sẽ cắt đứt mối quan hệ liên minh giữa Vương quốc Anh và Hoa Kỳ và cam kết Anh chỉ liên minh với EEC - Cộng đồng Kinh tế châu Âu, bảy trong số mười lăm thành viên của họ không phải là Cộng sản hoặc gần tiến tới Cộng sản. Thượng Nghị sĩ Pearson đập bàn. “Chúng ta nên xem trọng quan điểm của Anh trong các cân nhắc của mình và không chỉ quan tâm đến lợi ích chiến lược tức thời trước mắt.”

Sau một giờ lắng nghe Brooks và Pearson chất vấn nhân chứng của Bộ Ngoại giao về tình hình chính trị ở Tây Ban Nha, Mark lặng lẽ ra khỏi phòng và đi vào phòng Ủy ban Đối ngoại dưới sảnh. Nhân viên thư ký thông báo với anh rằng ông Lester Kenneck, Chánh văn phòng Ủy ban đã ra khỏi văn phòng. Mark đã gọi điện hẹn gặp ông ấy từ mấy ngày trước và khiến ông ra rất ấn tượng khi đóng vai một sinh viên làm nghiên cứu cho luận án.

“Có ai khác ở đây có thể giúp tôi một số thông tin về Ủy ban không?”

“Để tôi xem liệu Paul Rowe, một trong những nhân viên của chúng tôi, có thể giúp gì cho anh không.” Cô thư ký nhấc điện thoại lên và vài phút sau, một người đàn ông đeo kính mỏng bước ra từ một trong những căn phòng phía sau.

“Tôi giúp gì được cho anh?”

Mark giải thích rằng anh muốn gặp những thành viên khác đang tham gia hoạt động của Ủy ban, đặc biệt là Thượng Nghị sĩ Nunn. Rowe mỉm cười một cách kiên nhẫn. “Không sao,” anh ấy nói. “Hãy quay trở lại vào chiều mai hoặc thứ Năm để nghe tranh luận về việc buôn bán vũ khí cho châu Phi. Tôi đảm bảo Thượng Nghị sĩ Nunn sẽ ở đây. Và anh sẽ thấy chủ đề này thú vị hơn nhiều so với những vấn đề về Thị trường chung. Trên thực tế, cuộc tranh luận có thể không mở cửa cho công chúng. Nhưng tôi chắc chắn nếu anh đến đây và nói chuyện với ông Kenneck, ông ấy sẽ sắp xếp chỗ ngồi cho anh.”

“Cảm ơn anh rất nhiều. Anh có tình cờ biết được Thượng Nghị sĩ Nunn và Pearson có mặt tại phiên tranh luận vào ngày 24 tháng Hai hay thứ Năm tuần trước không?”

Rowe nhướn mày. “Tôi không rõ lắm. Ông Kenneck có thể biết việc này.”

Mark cảm ơn anh ta. “Ồ, còn một điều nữa. Anh có thể giúp tôi đi vào phòng trưng bày Thượng viện không?” Người thư ký đóng dấu lên một tấm thẻ và viết tên mình lên đó. Mark đi về phía thang máy. Buôn bán vũ khí, châu Phi, Mark nghĩ. Thứ Năm thì quá muộn mất rồi. Chết tiệt. Làm thế quái nào mình đoán được tại sao một trong mấy gã này lại muốn giết Tổng thống Kane bây giờ nhỉ? Có thể là do một số vấn đề điên rồ liên quan đến quân sự, hoặc một trường hợp phân biệt chủng tộc cực đoan. Không có lý chút nào hết. Không phải lí do đó, nhưng mà là ai mới được chứ, anh tự nhắc nhở mình. Mark gần như đã đụng ngã một cậu bé giúp việc trong Thượng viện khi cậu ta đang chạy xuống hành lang để nhận một gói hàng. Quốc hội tổ chức và điều hành một trường học dành cho các cô cậu bé đến từ khắp nơi trên cả nước, những người tham gia các lớp học và làm việc với tư cách là “chân chạy việc vặt văn phòng” trong tòa nhà Quốc hội. Họ đều mặc trang phục màu xanh đen và trắng và luôn vội vàng đến kinh ngạc. Mark dừng lại đúng lúc và cậu bé lách qua anh ấy mà không hề giảm tốc độ sải bước.

Mark đi thang máy xuống tầng trệt rồi bước ra khỏi tòa nhà Dirksen nằm trên đại lộ Hiến Pháp. Anh đi bộ ngang qua khuôn viên và bước vào tòa nhà Quốc hội bên phía Thượng viện, ngay bên dưới cầu thang dài bằng đá cẩm thạch và đợi thang máy công cộng.

“Một ngày bận rộn đấy,” người bảo vệ thông báo cho anh ấy. “Có rất nhiều khách du lịch đến đây để xem tranh luận về Dự thảo luật Kiểm soát súng.”

Mark gật đầu. “Liệu có phải chờ đợi lâu khi lên lầu không?”

“Có đó, thưa anh. Tôi nghĩ vậy.”

Thang máy đến đích. Ở tầng có phòng trưng bày, một người bảo vệ đã dẫn Mark nhập vào một hàng đông nghịt các khách tham quan đang chờ. Mark mất hết cả kiên nhẫn. Anh gật đầu ra hiệu cho một trong những người bảo vệ.

“Anh sĩ quan, tôi muốn nhờ anh một chút chuyện,” anh ấy nói, “Tôi được cấp một thẻ loại thường để vào phòng trưng bày, nhưng tôi là một sinh viên đến từ trường Yale đang làm nghiên cứu. Anh có thể nghĩ xem có cách nào giúp tôi vào trong luôn không?”

Người nhân viên bảo an gật đầu thông cảm.

Vài phút sau, Mark đã ngồi trong căn phòng. Anh chỉ có thể nhìn thấy một phần của sàn tranh luận. Các Thượng Nghị sĩ đã ngồi ở những chiếc bàn hình bán nguyệt đối diện với ghế Chủ tọa. Ngay cả khi ai đó đang nói, các nhân viên và Thượng Nghị sĩ vẫn đi qua đi lại, gợi ra một ấn tượng rằng sự vận động thực sự đáng kể đang diễn ra trong yên lặng, chứ không phải trong các cuộc tranh luận kịch tính.

Ủy ban Tư pháp đã báo cáo dự luật hai tuần trước, sau các phiên tranh luận và thảo luận kéo dài. Nhà Trắng đã thông qua bộ điều luật tương tự, cái sẽ được tương thích với phiên bản tính nghiêm khắc hơn của bộ luật đó tại Thượng viện trong trường hợp nó được phê chuẩn.

Thượng Nghị sĩ Dexter đang nói. Bố vợ tương lai của mình ư? Mark tự hỏi. Ông ấy rõ ràng chẳng hề giống như một kẻ sát nhân. Vậy thì là Thượng Nghị sĩ nào âm mưu giết Tổng thống mới được? Ông ấy đã di truyền lại cho cô con gái mái tóc sẫm màu óng ánh, mặc dù ông có đôi sợi trắng lất phất ở hai bên thái dương. Ở ông ấy toát lên vẻ tự cao của một chính trị gia – tuy nhiên không nhiều như lẽ ra phải thế, Mark nghĩ. Và ông ấy cũng di truyền cho cô con gái đôi mắt thẫm màu. Ông dường như hơi có vẻ khinh khỉnh đối với hầu hết những người xung quanh mình. Gõ bàn bằng đầu những ngón tay thon dài của mình, ông nói.

“Trong cuộc thảo luận của chúng ta về dự luật này, chúng ta đã gạt sang bên một sự suy xét then chốt, có thể là cốt yếu nhất. Đó chính là nguyên tắc của Chủ nghĩa Liên bang. Trong suốt năm mươi năm qua, Chính phủ Liên bang đã chiếm đoạt nhiều quyền lực từng do các bang nắm giữ. Chúng ta trông cậy vào Tổng thống và Quốc hội để tìm ra giải pháp cho các vấn đề của mình. Những người lập ra Chính phủ đầu tiên không có ý định dựng lên một chính quyền trung ương thâu tóm quá nhiều quyền lực đến như vậy. Và một đất nước rộng lớn, đa dạng như đất nước chúng ta không thể được điều hành một cách dân chủ hay hiệu quả trên nền tảng quyền lực đó. Vâng, đúng, chúng ta đều muốn giảm tỷ lệ tội phạm. Nhưng tội phạm có nhiều loại, nhiều hình thức khác nhau và ở bất cứ đâu. Hệ thống lập pháp của chúng ta đã trao quyền và trách nhiệm kiểm soát tội phạm cho các cấp thẩm quyền tài phán, tư pháp cấp địa phương và tiểu bang một cách khôn ngoan, ngoại trừ các bộ luật hình sự ở cấp độ liên bang - cái xử lí những vấn đề quốc gia thực sự. Nhưng tội phạm có sử dụng súng lại là một điều tự nhiên ở cấp địa phương. Cần phải lập ra luật lệ để chống lại chúng và đưa vào thực thi từ cấp địa phương. Chỉ có thực thi ngay từ cấp tiểu bang và địa phương thì các nhân viên hành chính công mới có thể hiểu được, đồng thời xử lí được thái độ của công chúng và các đặc trưng nổi bật của các vấn đề tội phạm.”

“Tôi biết, một số đồng nghiệp của tôi sẽ tranh luận rằng, chúng ta buộc phải đăng ký xe và bằng lái xe, vậy thì tại sao lại không đăng ký sử dụng súng? Nhưng thưa các quý ông, chúng ta không có luật bắt buộc đối với đăng ký xe và bằng lái xe trên toàn quốc. Những vấn đề này được giao cho các bang toàn quyền quyết định. Mỗi bang nên được cho phép tự mình quyết định các công việc của chính họ, có tính đến việc đảm bảo những lợi ích hợp pháp và cần thiết cho người dân trong bang của họ, đó là điều hợp lý và cần thiết.”

Thượng Nghị sĩ Dexter một mình chiếm giữ sàn tranh luận trong hơn hai mươi phút trước khi nhường lại vị trí cho Chủ tọa phiên tranh luận. Ngày hôm nay, Thượng Nghị sĩ Kemp ngồi ghế Chủ tọa, ông đã chấp nhận quyền phát biểu của Thượng Nghị sĩ Brooks. Khi Brooks trình bày xong các nhận xét đánh giá sơ bộ, ông bắt đầu diễn thuyết các nội dung được chuẩn bị sẵn:

“Nhiều người liên tục công kích chỉ trích các vụ giết người ở Trung Đông, châu Phi, Bắc Ai-len, Chi Lê. Chúng ta chấm dứt các vụ đổ máu ở Việt Nam. Vậy đến khi nào, chúng ta mới định ngăn chặn các vụ giết người xảy ra trong cộng đồng, trên các đường phố, trong các gia đình của chúng ta hàng ngày, hàng năm?” Brooks dừng lại một chốc và nhìn thẳng vào Thượng Nghị sĩ Harrison đến từ Nam Carolina, một trong những người dẫn đầu phe chống đối lại dự luật. “Phải chăng, chúng ta đang chờ một thảm kịch quốc gia khác xảy ra và buộc chúng ta phải hành động?” Chỉ sau khi Tổng thống John F. Kennedy bị ám sát, Dự luật Kiểm soát súng ngắn của Thượng Nghị sĩ Thomas Dodd mới được một Ủy ban Thượng viện coi trọng. Nhưng vẫn không có một bộ luật nào liên quan được thông qua. Sau cuộc bạo loạn Watts diễn ra vào tháng Tám năm 1965, trong đó, những kẻ nổi loạn đã sử dụng súng được mua bán chứ không phải súng có được do cướp bóc, Thượng viện mới tổ chức các phiên tranh luận về việc kiểm soát súng ngắn. Vẫn không có được một kết quả cụ thể nào. Trước khi Ủy ban Tư pháp thông qua bộ luật về kiểm soát buôn bán súng ngắn giữa các bang như một điều khoản bổ sung trong Dự luật về kiểm soát tội phạm bao gồm nhiều nội dung, chúng ta lại phải trả giá lần nữa bằng vụ ám sát Martin Luther King73. Nhà Trắng cũng đã đồng tình với dự luật sau khi Robert Kennedy bị sát hại. Để đối phó với nạn bạo lực xảy ra năm 1968, chúng ta đã ban hành đạo luật Kiểm soát súng ngắn. Nhưng các quý ông ạ, đạo luật này vẫn còn một lỗ hổng lớn. Nó không điều tiết và quản lý ngành sản xuất súng trong nước, bởi vì vào thời gian đó, tám mươi phần trăm số súng đều được sản xuất ở nước ngoài. Năm 1972, sau khi George Wallace74 bị bắn bởi một khẩu súng ngắn rẻ tiền, Thượng viện cuối cùng cũng đã hành động để xóa đi kẽ hở của bộ luật. Nhưng dự luật đã bị lãng quên trong một Ủy ban của Nhà Trắng.”

73 Martin Luther King, Jr. (viết tắt là MLK; 15 tháng 1 năm 1929 – 4 tháng 4 năm 1968) là Mục sư Baptist, nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi và là người đoạt Giải Nobel Hoà bình năm 1964. Ông là một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ cũng như lịch sử đương đại của phong trào bất bạo động. King được nhiều người trên khắp thế giới ngưỡng mộ như một anh hùng, nhà kiến tạo hoà bình và thánh tử đạo.

74 là một chính trị gia người Mỹ, từng là Thống đốc thứ 45 của Alabama trong bốn nhiệm kỳ và nhiều lần ứng cử Tồng thống. Mô tả tác động của ông đối với chính trị quốc gia mặc dù không thành công trong các cuộc đua Tổng thống, hai nhà viết tiểu sử gọi Wallace là “kẻ thua cuộc có ảnh hưởng nhất” của chính trị Mỹ thế kỷ 20. Ông cũng là người chủ trương phân biệt chủng tộc mạnh mẽ ở Mỹ.

“Tại thời điểm này, khoảng hơn hai mươi năm sau, bất chấp một sự thật rằng, cố Tổng thống Reagan đã bị thương nặng vào năm 1981 bởi một người đàn ông sử dụng súng ngắn trên đường phố Washington, và thậm chí từ trước tới nay, thống kê cho thấy rằng cứ hai phút sẽ có một trường hợp bị giết hoặc bị thương do súng bắn ở Mỹ, chúng ta vẫn không có một bộ luật kiểm soát súng có hiệu lực pháp lý. Chúng ta đang chờ đợi điều gì? Kẻ nào đó lại đang tìm cách ám sát Tổng thống chăng?” Ông ấy dừng lại một chút để câu hỏi đó phát huy ảnh hưởng. “Người dân Mỹ ủng hộ Dự luật Kiểm soát súng. Mọi cuộc thăm dò dân ý đều chứng tỏ rằng dự luật này là một điều đúng đắn và cần được chú trọng. Lẽ ra nên thông qua và áp dụng dự luật này hơn một thập kỷ rồi. Tại sao chúng ta vẫn để cho Hiệp hội Súng trường Quốc gia thao túng chúng ta, thuyết phục chúng ta rằng họ và quan điểm của họ đáng tin và có giá trị, trong khi trên thực tế, chúng hoàn toàn rỗng tuếch và giả dối? Khả năng suy xét đúng sai, cân nhắc nặng nhẹ của chúng ta đối với các phương án thay thế và xóa sổ bạo lực trong xã hội đâu mất rồi?”

Mark, cùng với rất nhiều người tham gia nghe tranh luận, vô cùng sửng sốt với phần diễn thuyết đầy cảm hứng bột phát này. Các nhà báo phụ trách chuyên mục chính trị có tiếng đã mang lại cho Mark ấn tượng rằng, Brooks sẽ không ủng hộ Tổng thống. Bởi ngoài ân oán cá nhân, ông ấy từng là nhân vật giữ vai trò chủ chốt trong một số vấn đề hiến pháp, và trong cuộc đấu tranh chống lại hai ứng viên được bổ nhiệm cho chức vụ Chánh án Tòa án Tối cao của Tổng thống Kane là Haynsworth và Carswell.

Thượng Nghị sĩ Harrison từ Nam Carolina, một quý ông, lặng lẽ, lịch thiệp, yêu cầu được phát biểu. “Quý Thượng Nghị sĩ từ Massachusetts, xin nhường chỗ cho tôi được không?”

Brooks gật đầu với Chủ tọa.

Harrison phát biểu trước các đồng nghiệp của mình bằng một giọng nói nhẹ nhàng, nhưng quả quyết.

“Dự luật này hoàn toàn phủ nhận khái niệm về tự vệ. Nó khẳng định rằng lí do chính đáng duy nhất để sở hữu súng ngắn, súng săn hoặc súng trường là để dành cho mục đích thể thao. Nhưng tôi muốn nhờ các đồng nghiệp ưu tú của mình – những người đến từ các bang thuộc vùng thành thị - xem xét một lát, chỉ một lát thôi, về hoàn cảnh khó khăn của một gia đình tại một trang trại ở Iowa, hoặc ở một nhà dân ở Alaska – nơi họ cần một khẩu súng trong nhà để tự bảo vệ mình. Không phải để thi đấu thể thao, mà là để tự vệ. Theo nhận định của tôi, họ có quyền thực hiện hành động tự vệ đó. Bởi vì họ phải đối phó với tình trạng bất tuân luật pháp ngày càng gia tăng ở đất nước này, ở thành thị cũng như nông thôn. Tình trạng bất tuân luật pháp - đó là vấn đề gốc rễ – chứ không phải số lượng súng đang lưu hành. Tình trạng này gia tăng thì chắc chắn đồng nghĩa với việc tội ác liên quan đến súng gia tăng. Nhưng súng không gây ra tội ác, con người gây ra tội ác. Nếu chúng ta muốn chống lại tội phạm, chúng ta nên điều tra nguyên nhân gốc rễ dẫn đến tội phạm, thay vì cố gắng tước đoạt súng ra khỏi tay những con người sẽ sử dụng chúng một cách hợp pháp. Cũng như nhiều nhãn dán xe hơi trên đất nước tuyệt vời này tuyên bố: ‘Nếu cấm sở hữu súng, thì chỉ có những kẻ ngoài vòng pháp luật mới có súng’.”

Thượng Nghị sĩ Thornton đại diện cho Texas, Mark nhận ra ông ta từ dáng vẻ gầy gò, hốc hác với mái tóc bóng mượt như anh đã từng thấy trong Nhà hàng Smith’s, chỉ vừa mới bày tỏ sự đồng tình với quan điểm của Thượng Nghị sĩ Dexter và Thượng Nghị sĩ Harrison thì sáu ngọn đèn xung quanh các con số trên đồng hồ gắn ở cuối căn phòng bật sáng. Chuông kêu sáu lần báo hiệu phiên làm việc buổi sáng đã kết thúc. Giờ làm việc buổi sáng còn lại tại Thượng viện, từ giữa trưa cho đến 2 giờ chiều, là thời gian dành cho việc trình bày các đơn kiến nghị và biên bản ghi nhớ; những báo cáo thường trực và lựa chọn các Ủy ban, cũng như đưa ra các dự thảo luật và nghị quyết.

Thượng Nghị sĩ Kemp nhìn đồng hồ của mình. “Xin lỗi anh, Thượng Nghị sĩ Thornton, nhưng giờ đã là buổi trưa và giờ phiên tranh luận buổi sáng phải kết thúc. Một số Thượng Nghị sĩ đồng nghiệp của chúng ta được mong đợi sẽ xuất hiện trong Ủy ban để tranh luận về dự luật Chống ô nhiễm Không khí theo như lịch trình công việc chiều nay của Thượng viện. Tại sao chúng ta lại không họp lại vào lúc 2 giờ 30 phút chiều nhỉ? Bởi vì nhiều người trong số chúng ta, những người có thể rời khỏi Ủy ban vào thời điểm đó, có thể quay lại đây và thảo luận tiếp về Dự thảo luật này. Điều quan trọng là chúng ta hành động càng nhanh càng tốt đối với bộ luật này, bởi vì chúng ta vẫn hi vọng sẽ bỏ phiếu thông qua dự luật trong phiên họp này.”

Phòng tranh luận của Thượng viện sạch bóng người trong vòng một phút. Các diễn viên đã kết thúc những dòng thoại của mình và xuống sân khấu. Chỉ những người phải chuẩn bị sẵn sàng sân khấu kịch cho các tiết mục buổi chiều là còn ở lại. Mark nhờ người nhân viên bảo an chỉ cho anh ai là Henry Lykham, một Chánh văn phòng Ủy ban nữa mà anh cần gặp. Người nhân viên trong bộ đồng phục màu xanh trịnh trọng của nhân viên An ninh Thượng viện đang trực ở cửa, chỉ tay vào một người đàn ông béo lùn có bộ ria mép mảnh mai và một khuôn mặt cởi mở vui tươi, đang ngồi vững chãi trên một cái ghế rộng ở phía xa của phòng trưng bày. Ông ta đang kiểm tra tài liệu và ghi chú miệt mài. Mark sải bước về phía ông ấy, không để ý một cặp mắt sau tròng kính đen đang dõi theo mọi cử động của anh.

“Thưa ông, tôi là Mark Andrews.”

“À vâng, cậu là sinh viên làm khóa luận tốt nghiệp.

Đợi tôi một chút nữa thôi, cậu Andrews.”

Mark ngồi xuống và chờ đợi. Người đàn ông đeo kính đen rời khỏi căn phòng bằng lối cửa bên hông.

“Tôi xong rồi, anh Andrews, anh cùng ăn trưa với tôi không?”

“Tuyệt quá.” Mark trả lời.

Ông ta dẫn anh xuống tầng trệt, đến phòng G-211, phòng ăn dành cho Thượng Nghị sĩ. Họ tìm một chiếc bàn ở một bên căn phòng. Mark chuyện trò đầy lôi cuốn về công việc vất vả và thầm lặng, trách nhiệm mà một Chánh văn phòng Ủy ban phải gánh vác, trong khi những người khác được tán dương và được công chúng biết đến. Henry Lykham đồng tình ngay. Họ đều chọn món ăn từ thực đơn cố định. Người đàn ông ở cách chỗ họ ba bàn cũng làm tương tự. Người đó đang cẩn thận theo dõi cả Mark và Lykham. Mark nói với Chánh văn phòng rằng anh ấy đang định viết khóa luận về Dự luật Kiểm soát súng nếu nó được thông qua và rằng anh muốn tìm một số thông tin hấp dẫn từ bên trong, những tin tức mà công chúng không dễ gì biết được từ báo chí. “Thế nên, ông Lykham ạ,” anh kết luận, “tôi được khuyên là nên tìm gặp và nói chuyện với ông.”

Người đàn ông béo tròn tươi cười. Anh đã tâng bấc ông ấy đúng lúc và đúng như Mark kì vọng, ông ấy bắt đầu nói.

“Chẳng có gì mà tôi không thể nói cho anh nghe về cái dự luật này hay nhóm các chính trị gia liên quan đến nó cả.”

Mark mỉm cười, anh đã từng nghiên cứu phiên tranh luận về vụ Watergate trong một hội nghị chuyên đề tự chọn tại trường Yale và anh nhớ lại một lưu ý đặc biệt của cựu thanh tra Sở Cảnh sát Thành phố New York, Anthony Ulasewicz. “Tại sao phải bận tâm đến cái hội nghị này? Các chính trị gia và các nhân viên chính phủ sẽ nói cho bạn biết bất cứ thứ gì bạn muốn biết, qua điện thoại, họ thậm chí sẽ muốn gửi thư cho bạn, bất kể bạn là ai.”

Thượng Nghị sĩ Sam Irvin đến từ Bắc Carolina, Chủ tịch Ủy ban, đã khiển trách ông ấy vì coi nhẹ Ủy ban và coi vấn đề thảo luận như một trò đùa. “Đó không phải là chuyện đùa bỡn - đó là sự thật,” là câu trả lời của Ulasewicz.

Mark hỏi ông ta về những người ủng hộ dự thảo luật trong số mười một Thượng Nghị sĩ thuộc Ủy ban. Chỉ có bốn người trong số họ có mặt tại buổi thảo luận sáng nay. Theo những gì đã nghiên cứu, Mark khá chắc chắn về quan điểm của hầu hết từng người trong số họ, tuy nhiên anh muốn các ý kiến đánh giá của mình được xác nhận lại.

“Brooks, Burdick, Stevenson và Glenn là các Đảng viên Đảng Dân chủ bỏ phiếu ủng hộ cho dự luật. Abourezk, Byrd và Moynihan đang giữ ý kiến riêng của mình, nhưng có lẽ họ sẽ thông qua để củng cố cho lập trường của vị trí Quản trị. Họ đã bỏ phiếu bầu cho Dự luật trong Ủy ban. Thornton là Đảng viên Đảng Dân chủ duy nhất có khả năng bỏ phiếu chống lại dự luật. Cậu đã nghe thấy anh ta bắt đầu diễn thuyết ủng hộ quan điểm về quyền tự quyết của các bang của Thượng Nghị sĩ Dexter rồi đấy. Chà, đối với Thornton, chàng trai trẻ ạ, đó không phải vấn đề nguyên tắc đạo đức. Anh ta bày tỏ quan điểm hai mang. Texas vốn có các biện pháp quản lý súng rất mạnh mẽ ở cấp tiểu bang, vì thế anh ta có thể tuyên bố rằng lập trường của mình có nghĩa là các bang có thể thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ công dân của họ. Nhưng Texas cũng có một số công ty vũ khí - Smith và Wesson, GKN Powdermet, Harrington và Richardson – họ đều sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đạo luật kiểm soát súng liên bang. Bóng ma của nạn thất nghiệp lại ám ảnh họ thêm một lần nữa. Miễn là các công ty đó có thể bán sản phẩm của họ bên ngoài Texas, họ sẽ không có ý kiến gì. Vì vậy, Thornton lừa dối các cử tri của mình để họ nghĩ rằng, họ có thể đồng thời kiểm soát và chế tạo súng. Người đàn ông đó đang chơi một ván bài kỳ lạ. Đối với Đảng Cộng hòa, Mathias của Maryland sẽ bỏ phiếu ủng hộ dự luật. Anh ấy là một anh chàng rất tự do - tôi không thể hiểu tại sao anh ấy ở lại Đảng Cộng hòa. McCollister từ bang Nebraska chống lại dự luật, cùng với Woodson của bang Arkansas. Harrison và Dexter thì anh đã nghe thấy rồi đó. Không cần đặt câu hỏi về lập trường của họ nữa.”

“Harrison mặc dù là một Đảng viên Đảng Dân chủ, và anh ta biết rõ hơn ai hết rằng các cử tri sẽ không chấp nhận dự luật, cũng sẽ không bầu cho anh ta nữa nếu anh ta bỏ phiểu ủng hộ dự luật này. Thật khó có thể biết được anh ta có bị Hiệp hội Súng trường Quốc gia tẩy não hay không, bởi vì anh ta dường như rất chân thành khi nói ra ý kiến về quyền tự vệ. Anh ta là một gã kỳ lạ. Mọi người ở đây đều coi anh ta là một kẻ bảo thủ cực đoan, nhưng không ai thực sự hiểu rõ về con người anh ta. Harrison chưa ở đây đủ lâu. Anh ta sẽ kế tục Sparkman khi anh ấy nghỉ hưu – khả năng đó vẫn chưa ước tính được.”

Mark để ông ấy tiếp tục nói. Lykham đang tận hưởng vai trò của một chuyên gia – một người biết rõ mọi vấn đề. Thông thường, ông ấy chỉ ngồi trong phòng tranh luận, lắng nghe, ghi chú và đôi lúc thì thầm một lời đề nghị riêng với Chủ tịch mà không được nói lời nào. Chỉ có mỗi bà vợ ông lắng nghe các ý kiến và quan điểm của ông, nhưng bà ấy chưa bao giờ hiểu hết được tầm quan trọng và ý nghĩa của chúng. Lykham rất sung sướng khi một người có học thức tìm đến ông ấy để tìm hiểu về những sự kiện thực tế.

“Bài phát biểu tranh luận của Thượng Nghị sĩ Dexter rất thuyết phục. Ông ấy quả là có tính cách rất mềm dẻo, chính tính cách đó là một ưu điểm lớn. Ông đã đánh bại cái gã được bổ nhiệm thay thế cho Ribicoff khi Tổng thống chọn Abe cho chức vụ đại sứ lưu động. Một chiến thắng bất ngờ. Sẽ không ai ngờ nổi rằng Connecticut lại được đại diện bởi hai thành viên Đảng Cộng hòa. Đoán xem những người giàu có gốc New York di cư đến Stamford đang tạo ra những điều khác biệt. Tuy nhiên, tôi nói điều này chỉ hai chúng ta biết thôi nhé. Tôi nghi ngờ về độ công minh chính trực trong các nguyên tắc của ông ấy. Anh có biết Connecticut có bao nhiêu công ty sản xuất, chế tạo súng không? Remington, Colt, Olin, Winchester, Marlin, Sturm-Ruger. Bây giờ thì điều đó không ngăn được Thượng Nghị sĩ Ribicoff bỏ phiếu ủng hộ cho Dự luật Kiểm soát súng nữa, nhưng Dexter thì… À, ông ấy sở hữu phần lớn của một trong số các công ty sản xuất chế tạo súng đó, điều đó nhiều người biết. Hình như dạo này có gì đó chạm nọc ông ta vậy, ông ấy hay cáu kỉnh và chưa bỏ lỡ một phiên tranh luận nào hết.”

Mark cảm thấy nôn nao trong người. Chúa ơi, là cha của Elizabeth đấy sao? Anh chỉ không muốn tin vào điều đó.

“Ông cho là dự luật sẽ được thông qua chứ?” Mark gợi chuyện.

“Không nghi ngờ gì nữa, trong khi Đảng Dân chủ vẫn kiểm soát cả hai Nghị viện. Báo cáo thiểu số là nguy hiểm, nhưng dự luật sẽ nhận được sự ủng hộ của đa số vào ngày 10 tháng Ba. Không còn nhiều nghi ngờ về chuyện đó sau khi Nhà Trắng mở đường để thúc đẩy dự luật. Cho đến thứ Năm, không còn gì có thể ngăn cản nó được thông qua và được thực thi nữa. Thủ lĩnh Đa số đã lo ngại quá mức về tầm quan trọng của Tổng thống đối với vận mệnh dự luật này.”

Giờ đến Byrd, Mark nghĩ, ông ta cũng có tên trong danh sách. “Ông có thể cho tôi biết vài điều về Thủ lĩnh Đa số không? Ông ta thuộc Ủy ban Tư pháp đúng không nhỉ? Ông ta đứng về phía ai?”

“Thật là một câu hỏi thú vị, Andrews. Thượng Nghị sĩ Byrd là một cá nhân đầy tham vọng, có chí hướng và nghiêm túc. Ông ấy bị bệnh loét. Ông ta sinh trưởng trong nghèo khó, điều này luôn được nhấn mạnh trong hồ sơ lai lịch của ông ấy, đến nỗi một số đồng nghiệp gọi ông ấy là Uriah Heep. Năm 1940, khi mới mười chín tuổi, ông gia nhập tổ chức Ku Klux Klan75; tuy nhiên sau đó ông đã cố gắng vượt qua điểm bất lợi này và vươn lên thành một trong những người quyền lực nhất trong Thượng viện và trong một Đảng chính trị mà thành viên hầu hết là những người theo chủ nghĩa tự do. Ông ấy đạt được các mục tiêu của mình là bởi vì ông hoạt động có tổ chức. Ông ấy luôn ủng hộ và củng cố vị trí cho các Thượng Nghị sĩ khác, và họ cũng vậy. Ông ấy hăng hái và chu toàn trong việc đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng của họ. Việc để tâm đến từng chi tiết của ông ấy cũng mang lại nhiều kết quả tốt. Ông ấy luôn ủng hộ Đảng Dân chủ từ lập trường của một Đảng viên Đảng Dân chủ. Và ông ấy là một Lãnh tụ Đa số rất có năng lực.”

75 Ku Klux Klan, thường được gọi là KKK hoặc Klan, là một nhóm thù ghét của những người Mỹ da trắng, có mục tiêu chính là người Mỹ gốc Phi. Ku Klux Klan đã tồn tại ở ba thời kỳ khác nhau tại các thời điểm khác nhau trong lịch sử Hoa Kỳ. Mỗi giai đoạn của tổ chức này đã ủng hộ các lập trường phản động cực đoan như chủ nghĩa dân tộc trắng, chống nhập cư và đặc biệt là trong các lần lặp lại sau này- Chủ nghĩa Bắc Âu và chủ nghĩa chống Công giáo.

“Không có tình yêu nào bị mất đi trong mối quan hệ ấy, nhưng vì Byrd trở thành Lãnh tụ Đa số nên ông ấy buộc phải đồng ý. Xét từ nền tảng gốc gác của ông ấy, thái độ ủng hộ việc kiểm soát súng không thể là hoàn toàn chân thực. Nhưng ông ấy không phát biểu chống lại dự luật, đơn giản là bởi vì ông ấy giữ vai trò dẫn dắt để dự luật này được thông qua trong Thượng viện thay cho Tổng thống. Ông ấy đã hoàn thành vai trò của mình rất hiệu quả. Ông ấy lập kế hoạch sớm cho việc này, để tránh thời gian ngừng họp ...”

“Xin lỗi đã ngắt lời ông, nhưng ông Lykham, ông nói tránh các thời gian ngừng họp là như thế nào? Ủy ban không họp suốt 24 giờ rồi, đúng không?”

“Không, anh bạn trẻ ạ, tôi đề cập đến một khác biệt mang tính thủ tục và kỹ thuật giữa hoãn họp và ngừng họp. Anh thấy đấy, Thượng viện thường ngừng họp từ ngày hôm trước sang ngày hôm sau. Vào cái ngày sau ngày ngừng họp, các công việc chưa hoàn thành của ngày hôm trước sẽ được sắp xếp theo thứ tự. Các thủ tục buổi sáng có thể được bỏ qua. Bất cứ khi nào Lãnh tụ Đa số quyết định ngừng họp thay vì hoãn họp, ông ấy do đó kéo dài thời gian của ‘Ngày lập pháp’. Và khi các dự luật mà Ủy ban đã báo cáo phải diễn ra trong một ngày lập pháp trước khi có đề nghị xem xét theo thứ tự, việc ngừng họp có thể được sử dụng để trì hoãn hành động với một biện pháp cụ thể. Cái được gọi là ‘Ngày lập pháp’ có thể bị kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần, thậm chí có lẽ đến vài tháng và bây giờ thời gian đó có thể tới hai năm. Dự luật này đã được thúc đẩy trong thời gian giới hạn tối thiểu còn lại. Nếu Tổng thống không có được sự ủng hộ vào ngày 10 tháng Ba, bà ấy sẽ không còn thời gian để đưa dự luật vào các phiên thảo luận của Nghị viện một lần nữa trước khi bà ấy bước vào cuộc vận động tái đắc cử. Đó sẽ là chiến thắng của những người chống lại dự luật này. Và vì thế, bà ấy có lẽ sẽ không tái đắc cử nếu như kết quả các cuộc thăm dò dư luận là đáng tin. Người Mỹ thời nay nhanh chóng chán nản và thất vọng về các Tổng thống của họ lắm. Vì thế, hoặc là dự luật sẽ được thông qua vào ngày 10 tháng Ba, hoặc mọi thứ sẽ chấm dứt.”

“Điều gì có thể chặn dự luật được thông qua vào ngày 10 tháng Ba?”

“Ngay bây giờ thì tôi không nghĩ ra điều gì có thể làm được điều đó, trừ cái chết của Tổng thống, điều đó có thể ngừng thời gian họp về dự luật của Thượng viện lên tới bảy ngày. Tuy nhiên, đối với tôi, Tổng thống nhìn vẫn rất ưa mắt, có lẽ có đôi chút mệt mỏi, nhưng bà ấy không phải là một người để tôi bình phẩm.”

Mark định hỏi Lykham về Brooks thì vị Chánh văn phòng Thượng viện liếc nhìn đồng hồ đeo tay.

“Nhìn đồng hồ này,” ông Lykham cảm thán. “Tôi phải quay lại công việc rồi. Tôi phải là người đầu tiên có mặt, anh biết đấy, chuẩn bị mọi thứ vào đúng vị trí, để các Thượng Nghị sĩ cho rằng chúng tôi không rời xa chỗ này chút nào cả.”

Mark cảm ơn ông. Lykham nhận tờ hóa đơn và ký tên vào đó.

“Bất cứ khi nào anh cần thêm sự trợ giúp hoặc thông tin, đừng ngần ngại liên lạc với tôi.”

“Tôi chắc chắn sẽ làm thế,” Mark trả lời.

Vị Chánh văn phòng béo lắc lư bước đi với tốc độ có lẽ là tối đa đối với ông ấy. Mark vừa uống cà phê vừa nghiền ngẫm. Người đàn ông ở cách đó ba bàn cũng đã uống xong cốc cà phê của mình và đang chờ động thái tiếp theo của Mark. Mấy cái chuông chết tiệt đó lại kêu nữa. Lần này chỉ một hồi chuông báo hiệu rằng sàn tranh luận của Thượng viện lại bắt đầu kiểm phiếu thuận, phiếu chống đối với dự luật. Ngay khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, các Thượng Nghị sĩ sẽ lại tụ họp trong các cuộc họp Ủy ban. Tiếng chuông kéo Mark ra khỏi dòng suy nghĩ của mình.

Lại một lần nữa, anh quay trở lại tòa nhà Dirksen và Phòng Ủy ban Đối ngoại để xin được gặp ông Kenneck.

“Tôi sẽ phải trả lời là ai xin gặp ông ấy đây?” cô lễ tân hỏi Mark.

“Tôi là Andrews, sinh viên trường Yale.”

Cô nhấc điện thoại lên và bấm hai chữ số, thông báo cho người nghe về những gì Mark đã nói với cô.

“Ông ấy ở phòng 4491.”

Mark cảm ơn cô và rời khỏi đó để xuôi theo hành lang, đi đến phòng 4491, nơi chỉ cách đó một vài cánh cửa.

“Chà, Andrews, tôi có thể giúp gì cho anh?” ông hỏi, ngay cả trước khi Mark đóng cửa phòng lại.

Mark ngạc nhiên trước câu hỏi của ông ấy; ông ấy đã bình phục.

“Tôi đang làm một số nghiên cứu cho đề tài luận án, ông Kenneck ạ, về công việc của những Thượng Nghị sĩ và ông Lykham đã khuyên tôi nên tìm gặp ông. Tôi đã băn khoăn, liệu các Thượng Nghị sĩ Nunn và Pearson có có mặt trong Thượng viện vào ngày 3 tháng Ba, thứ Năm, lúc 10 giờ 30 phút để dự họp với Ủy ban Đối ngoại hay không?”

Kenneck cúi xuống một cuốn sách bìa da màu đỏ. “Thượng Nghị sĩ Nunn – Không có mặt.” Ông ấy ngừng lại một chút. “Thượng Nghị sĩ Pearson – Không có mặt. Tôi còn giúp được gì nữa không? Anh Andrews.” Ông ấy rõ ràng là không có chút thời gian nào để lãng phí.

“Không, cảm ơn ông,” Mark nói và rời đi.

Mark nhắm đến Thư viện. Đột nhiên, danh sách của anh đã hạ xuống chỉ còn lại năm Thượng Nghị sĩ. Theo báo cáo của Cục về những gì đã nghe thấy trên kênh điện đàm bất hợp pháp thì người họ cần tìm kiếm phải có mặt tại Thượng viện vào sáng ngày 3 tháng Ba. Anh kiểm tra các ghi chú của mình: tất cả từng người trong số các nghi phạm còn lại - Brooks, Byrd, Dexter, Harrison và Thornton – đều đã tham gia Ủy ban Tư pháp về Dự luật Kiểm soát súng và đang ở Thượng viện để tranh luận về dự luật. Năm người đàn ông và một động cơ?

Anh bị bám sát ngay khi vừa ra khỏi phòng và bước vào thang máy xuống tầng trệt. Anh dùng điện thoại trả tiền ở bên kia sảnh tính từ thang máy, gần lối vào Đại lộ Hiến Pháp để gọi cho Giám đốc.

Anh quay số đường dây riêng của Giám đốc. “Julius.”

“Số chỗ cậu là gì?”

Mark đã đọc số điện thoại. Vài giây sau, Giám đốc gọi lại cho anh.

“Nunn và Pearson đã được xóa khỏi danh sách. Tôi chỉ còn năm người, và một điểm chung của họ, đó là tất cả bọn họ đều thuộc Ủy ban của Dự luật Kiểm soát súng.”

“Tốt,” Giám đốc nói. “Đúng như tôi đã mong đợi. Tình hình khả quan hơn rồi, Mark, nhưng thời gian của cậu đang sắp hết dần, chúng ta chỉ còn khoảng bốn mươi tám giờ nữa.”

“Vâng, thưa sếp.”

Tiếng gác máy điện thoại.

Anh chờ đợi trong chốc lát và sau đó gọi điện đến Trung tâm Y tế Woodrow Wilson. Như thường lệ anh lại phải chờ máy một lúc lâu trong khi họ tìm Elizabeth. Anh biết nói gì về chuyện đêm qua đây? Sẽ ra sao nếu Giám đốc nói đúng và cha cô ấy?

“Bác sĩ Dexter nghe đây.”

“Tối nay, khi nào em xong việc vậy, Liz?”

“5 giờ, người tình của tôi ơi” cô ấy nói một cách chế nhạo.

“Anh đón em nhé, được không?”

“Nếu anh muốn, giờ thì em biết tình ý của anh là hoàn toàn trong sáng và đứng đắn.”

“Nghe này, một ngày nào đó, nhưng chưa phải hôm nay, anh sẽ giải thích cho em về chuyện này.”

“Hẹn anh 5 giờ nhé, Mark.”

“Hẹn em 5 giờ, Liz.”

Mark cố gắng gạt hình ảnh Elizabeth ra khỏi tâm trí và băng qua đường đến khuôn viên tòa nhà Quốc hội. Anh ngồi xuống một gốc cây trên bãi cỏ giữa Tòa án Tối cao và Điện Capitol. Được bảo vệ, anh nghĩ, giữa một bên là cơ quan thực thi và bảo vệ luật pháp và một bên là cơ quan lập pháp, bị ràng buộc giữa Hiến Pháp và Độc Lập76. Ai dám cản bước anh ấy ở đây chứ, ngay trước tòa nhà Quốc hội, một nơi chốn ưa thích của nhân viên trong Thượng viện, các thư ký luật và cảnh sát Điện Capitol? Một chiếc xe tham quan màu xanh và trắng của hãng Tourmobile, chở khách du lịch đi qua đường Số 1, che khuất tầm nhìn của anh về phía những đài phun nước trước Tòa án Tối cao. Khách du lịch há hốc miệng kinh ngạc trước vẻ đẹp lộng lẫy bằng đá cẩm thạch trắng của những tòa nhà trung ương tại Washington. “Và ở bên phải của quý vị, thưa các quý ông, quý bà, chính là toà nhà Quốc hội Hoa Kỳ. Viên gạch móng đầu tiên của toà nhà được đặt vào năm 1793. Người Anh đã đốt Điện Capitol vào ngày 24 tháng Tám năm 1814…”

76 Tên hai đại lộ dẫn đến đó và giao nhau: Constitution và Independence.

Và một số Thượng Nghị sĩ điên khùng sẽ làm ô uế tòa nhà tráng lệ đó vào ngày 10 tháng Ba, Mark thì thầm nói thêm vào lời giới thiệu đó khi chiếc xe Tourmobile lăn bánh. Những điều biết trước đè nặng tâm trí anh. Nó gần như sắp xảy ra đến nơi. Chúng ta không thể chặn đứng nó được. Tổng thống đi đến tòa nhà Quốc hội… Máu đổ trên bậc thềm…

Anh buộc mình phải nhìn vào các dòng ghi chú. Brooks, Byrd, Dexter, Harrison, Thornton. Anh chỉ còn hai ngày để chuyển năm cái tên xuống còn lại duy nhất một cái. Kẻ chủ mưu mà anh tìm kiếm là Cassius, chứ không phải Brutus. Brooks, Byrd, Dexter, Harrison và Thornton - họ đã ở đâu vào trưa ngày 24 tháng Hai? Nếu có câu trả lời, anh sẽ biết bốn người nào trong số họ là vô tội và người nào là kẻ tuyệt vọng đến mức phải lập mưu ám sát Tổng thống. Thậm chí nếu anh tìm ra kẻ chủ mưu đứng sau kế hoạch này, anh nghĩ, trong khi đứng dậy và phủi đám cỏ bám trên quần mình, thì làm sao để chặn đứng được tên giết người đây? Rõ ràng là Thượng Nghị sĩ sẽ không tự mình thực hiện việc giết người rồi. Chúng ta phải giữ Tổng thống tránh xa tòa nhà Quốc hội. Giám đốc hẳn đã có một kế hoạch, ông ấy chắc chắn sẽ không để sự việc đi quá xa đến mức không cứu vãn được. Mark gấp tập tài liệu tại và đi bộ về phía ga tàu điện ngầm.

Ngay khi về đến khu chung cư của mình, anh lấy xe và chậm rãi lái đến Trung tâm Y tế Woodrow Wilson. Anh nhìn vào gương chiếu hậu. Một chiếc xe khác đang bám theo anh ngày hôm nay, một con Buick đen. Lại một kẻ nào đó bám theo mình, Mark nghĩ. Anh đến bệnh viện vào lúc 4 giờ 45 phút nhưng Elizabeth vẫn chưa xong việc, thế nên anh quay lại xe và dò tần số nghe bản tin tối. Một trận động đất ở Philippines đã giết chết 112 người là tin mở đầu. Tổng thống Kane vẫn tự tin đối với sự ủng hộ cho Dự luật Kiểm soát súng. Chỉ số Dow-Jones lên tăng 3 điểm, đạt 1.411 điểm. Đội Yankee hạ đội Dodger trong một trận đấu tập mùa xuân, bản tin mới kiểu gì thế nhỉ, có gì mới à?

Elizabeth ra khỏi bệnh viện, trông cô có vẻ chán nản. Cô bước vào trong xe, ngồi bên cạnh Mark.

Mark hỏi. “Anh có được giải thích gì về chuyện đêm qua không?”

“Không cần,” Elizabeth nói. “Nó giống như đọc một cuốn sách đã bị xé mất chương cuối vậy. Ai đã xé cái chương cuối đó ra thế Mark?”

“Có lẽ anh có mang theo chương cuối đây,” Mark nói, né tránh câu hỏi.

“Cảm ơn, nhưng chắc em không có tâm trạng cho một chuyện kể đêm khuya nào khác, ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn,” cô ấy trả lời. “Câu chuyện gần đây nhất khiến em gặp ác mộng.”

Elizabeth trầm tư một hồi lâu và Mark gần như không nhận được phản hồi gì mấy từ cô. Anh rẽ phải ra khỏi Đại lộ Độc Lập và dừng xe lại ở một trong những con đường phụ ở Trung tâm Thương mại, đối diện với Tượng đài Tưởng niệm Jefferson – Tổng thống thứ ba của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ - và cảnh hoàng hôn.

“Có phải tại chuyện tối qua không?” Mark hỏi.

“Một phần,” cô đáp lời. “Anh làm em cảm thấy mình như một con ngốc khi anh bỏ đi như thế. Em không nghĩ rằng anh sẽ nói cho em biết đã xảy ra chuyện gì với anh?”

“Anh không thể,” Mark trả lời một cách khó khăn. “Nhưng hãy tin anh, chuyện đó chẳng liên quan gì đến em. Ít nhất thì cũng gần như vậy.” Anh dừng lại đột ngột.

Không bao giờ được làm ô danh Cục.

“‘Ít nhất thì cũng gần như vậy’ gì cơ? Gần như là sao? Tại sao cuộc gọi đó lại quan trọng đến thế?”

“Thôi đừng nói chuyện này nữa. Đi ăn thôi.”

Anh ấy khởi động lại xe. Hai chiếc xe khác cũng lăn bánh cùng lúc với xe anh. Một chiếc xe Ford xanh mui kín và một chiếc Buick màu đen. Hôm nay thì anh đã hoàn toàn chắc chắn về họ. Anh ấy nghĩ thầm. Có lẽ một trong số hai chiếc xe chỉ là đang tìm một chỗ đậu xe. Anh liếc nhìn Elizabeth để xem liệu cô ấy có chú ý đến họ hay không, không, sao cô ấy phải chú ý, chỉ mình anh ấy nhìn thấy họ trong gương chiếu hậu. Anh lái xe tới một nhà hàng Nhật Bản nhỏ và ấm áp trên đại lộ Wisconsin. Anh không thể đưa cô ấy về nhà trong khi Cục FBI mắc dịch đã cho người theo dõi nơi đó. Người phục vụ có gốc gác Á Đông khéo léo cắt lát những con tôm béo và nướng trên những bếp nướng bằng kim loại đặt giữa bàn ăn. Anh ta nhấc từng con tôm lên khi chúng đã chín và đặt vào đĩa cho họ, đồng thời đưa họ chén nước chấm để họ nhúng các miếng nướng còn nóng và thưởng thức.

Elizabeth tươi tỉnh hẳn lên nhờ vào rượu sake ủ ấm.

“Em xin lỗi vì đã phản ứng hơi quá. Hiện giờ tâm trí em rối bời lắm.”

“Muốn chia sẻ với anh không?”

“Em không thể. Em e ngại một số chuyện. Đó là chuyện cá nhân và cha em dặn dò là không được nói cho bất kỳ ai về chuyện đó hết.”

Mark cứng đờ cả người như hóa đá. “Em không thể nói với anh sao?”

“Không. Em đoán là cả hai chúng ta đều phải kiên nhẫn.”

Họ đi vào một bãi chiếu phim ngoài trời dành cho khán giả ngồi trong xe ô tô. Cả hai ngồi thoải mái trong bóng tối lờ mờ, cánh tay khoác đan xen với nhau. Mark cảm thấy cô ấy không muốn anh đụng chạm và thực tế thì anh ấy cũng chẳng có tâm trạng nào với chuyện đó. Họ đều đang bận tâm đến cùng một người đàn ông, nhưng vì các lí do khác nhau – hoặc cũng có thể là cùng một lí do, biết đâu đấy? Cô ấy sẽ nghĩ thế nào nếu phát hiện ra anh đã điều tra cha cô ấy kể từ sau cái ngày họ gặp nhau lần đầu tiên? Có thể cô ấy đã biết rồi. Mẹ kiếp, tại sao anh không thể tin tưởng cô ấy, chỉ đơn giản là tin tưởng cô ấy thôi mà? Chắc chắn một điều là cô ấy không hề lừa dối và bẫy anh vào tròng rồi. Anh gần như chẳng nhớ nổi mấy chi tiết về bộ phim mà họ vừa xem và khi bộ phim kết thúc, anh lái xe đưa cô ấy về nhà rồi rời đi ngay. Hai chiếc xe vẫn bám theo anh ấy.

Một bóng người bất thình lình nhảy ra từ trong bóng tối. “Ê, thợ săn tình trẻ tuổi!” Mark quay ngoắt lại và với tay tìm súng một cách lo lắng.

“Ô, chào Simon.”

“Nghe này, anh bạn, tôi có thể cho cậu xem mấy tấm hình ướt át nếu anh vẫn đang tuyệt vọng, bởi vì dường như là cậu chưa đủ giỏi, anh bạn ạ. Tôi kiếm được một em da đen đêm qua và sẽ kiếm được một em da trắng đêm nay.”

“Làm sao mà cậu chắc chắn thế được?” Mark vặn lại.

“Tôi kiểm tra trước rồi, anh bạn. Tôi không có thời gian để lãng phí thân hình đẹp đẽ của mình.” Simon phá lên cười. “Hãy nhớ đến tôi khi anh đi ngủ một mình đêm nay nhé, Mark, bởi vì tôi chắc chắn là sẽ quên anh rồi. Nhớ hạ nhiệt động cơ phản lực của anh xuống nhé, anh bạn.”

Mark ném chìa khóa xe cho anh ta và dõi theo anh ta đang sải bước về phía con xe Mercedes, vừa đi vừa lắc hông, nhảy nhót và cười vui vẻ.

“Dù sao đi nữa thì anh vẫn chưa được thỏa nguyện, anh bạn yêu dấu ạ.”

“Vớ vẩn, cậu là một thằng khốn hư hỏng,” Mark vừa nói vừa cười lớn.

“Giờ thì anh chỉ đang ghen tỵ hoặc thành kiến với tôi đấy anh bạn,” Simon nói, khi anh ta quay xe để lùi vào đúng chỗ đậu xe. Khi anh ta vượt qua Mark, anh ta la lớn lên, “Dù gì, tôi cũng thắng rồi.”

Mark băn khoăn liệu anh có nên xin làm một chân giữ xe ở tòa chung cư không. Dường như công việc đó có những phần bù đắp xứng đáng của nó. Anh ấy nhìn quanh. Có gì đó chuyển động. Không, chỉ là phản xạ thần kinh, hoặc do trí tưởng tượng của anh ấy mà thôi. Ngay khi về đến phòng của mình, anh viết bản báo cáo cho phiên họp sáng mai với Giám đốc và đổ sập xuống giường, ngủ vùi.

Còn hai ngày nữa thôi.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 24
  • Sau