• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bà tổng thống trước họng súng
  3. Trang 21

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 20
  • 21
  • 22
  • More pages
  • 24
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 20
  • 21
  • 22
  • More pages
  • 24
  • Sau

Chương 16

Chiều thứ Tư ngày 9 tháng Ba

2 giờ 15 phút

Mark đã ăn trưa xong. Hai người đàn ông khác cũng đã ăn xong phần sandwich của họ và đứng dậy rời đi. Mark nhanh chóng trở lại Thượng viện, vì anh muốn bắt kịp ông Henry Lykham trước khi phiên tranh luận bắt đầu. Anh hi vọng rằng ông Lykham sẽ tiết lộ thêm điều gì đó mới sau một đêm gác lại. Anh cũng cần đến các bản sao nội dung của phiên tranh luận tại Ủy ban Dự thảo luật Kiểm soát súng để nghiên cứu các vấn đề mà Brooks, Byrd, Dexter, Harrison và Thornton đưa ra. Có thể bọn họ sẽ chỉ cho anh thấy mảnh ghép còn thiếu của trò chơi ghép hình. Nhưng không hiểu vì sao, Mark lại không tin tưởng lắm vào khả năng đó. Anh tin rằng các chính trị gia thường chẳng mấy khi để lộ điều gì. Anh đến sớm trước vài phút so với giờ bắt đầu theo lịch của phiên tranh luận và nhờ một cậu bé giúp việc chỉ chỗ ông Lykham đang ngồi trong phòng chờ trước phòng tranh luận.

Một lát sau, ông Lykham hối hả bước ra. Rõ ràng là ông ấy không muốn chuyện trò gì hết trong mười phút trước khi bắt đầu phiên tranh luận chính thức. Vì thế Mark không có cơ hội để trao đổi bất kỳ tin tức nào mới với ông ấy, mặc dù anh đã nghĩ đến vài điều trước đó. Tất cả những gì anh có được là tìm ra nơi để xin bộ tài liệu về nội dung tranh luận của Ủy ban và các cuộc thảo luận.”

“Anh có thể xin các tài liệu đó từ Văn phòng Ủy ban ở cuối hành lang.”

Mark cảm ơn ông ấy và đi bộ lên gác tới phòng trưng bày, nơi mà người bạn mới của anh, nhân viên bảo an, đã để dành cho anh ấy một chỗ ngồi. Nơi đó hoàn toàn đông nghịt, không còn một chỗ trống nào. Các Thượng Nghị sĩ đã bước vào phòng và ngồi vào chỗ của họ, thế nên Mark đành phải quyết định sẽ đi lấy tài liệu sau.

Phó Tổng thống Bill Bradley yêu cầu giữ trật tự cho phòng tranh luận. Thượng Nghị sĩ Dexter với vóc người cao ráo nhìn quanh phòng chậm rãi nhưng kiên quyết, ánh mắt của ông quét qua từng ngõ ngách của căn phòng để chắc chắn mọi người đều đã trật tự và chú ý. Khi ông ấy tình cờ nhìn thấy Mark, ông có vẻ hơi ngạc nhiên một chút, nhưng ông nhanh chóng lấy lại tinh thần và bắt đầu bài tranh luận cuối cùng của mình chống lại dự luật.

Mark bối rối và ước gì anh đã chọn một chỗ ngồi gần phía sau hơn, càng tránh xa ánh mắt sắc sảo như xuyên thấu tâm can của ông Dexter càng tốt. Cuộc tranh luận kéo dài dai dẳng. Lần lượt từng người trong số năm Thượng Nghị sĩ trình bày phần tranh luận của mình. Tất cả bọn họ đều muốn nói lời cuối cùng trước cuộc bỏ phiếu ngày mai. Trước sự chấm hết vào ngày mai.

Mark lắng nghe họ nói nhưng không thu được thông tin gì mới mẻ. Anh dường như đã lâm vào ngõ cụt. Việc duy nhất mà anh có thể làm ngày hôm đó là đi để xin tài liệu ghi lại nội dung các bài tranh luận. Anh có lẽ phải đọc suốt đêm mất, và anh nghi ngờ rằng cái việc nghe mấy bài tranh luận đó tới hai lần chắc chẳng thể nào phát hiện được thêm gì mới. Nhưng anh có còn lại đầu mối nào khác để điều tra đâu? Giám đốc đã kiểm soát tất cả các manh mối khác rồi. Anh đi bộ xuống hành lang, tới thang máy, bỏ lại tòa nhà Quốc hội theo lối ra từ tầng trệt và đi qua khuôn viên của nó để sang tòa nhà Dirksen.

“Làm ơn cho tôi xin một bản sao nội dung của các bài tranh luận về Dự thảo luật Kiểm soát súng với.”

“Tất cả sao?” cô thư ký hỏi lại trong sự hoài nghi. “Vâng,” Mark trả lời.

“Nhưng có tới sáu phiên tranh luận cả ngày.”

Ôi, chết tiệt thật, anh nghĩ, cả đêm cũng không nuốt xong chỗ tài liệu đó cơ. Có lẽ chỉ nên lấy các vấn đề tranh luận và các bài phát biểu của Brooks, Byrd, Dexter, Harrison và Thornton thôi.

“Anh ký nhận hay trả tiền?”

“Tôi ước tôi có thể chỉ ký nhận,” anh nói một cách vui đùa.

“Chà, anh có phải là nhân viên thuộc cơ quan nào đó của Chính phủ không?”

Có chứ. Mark nghĩ. Nhưng mình là không thể thừa nhận điều đó.

“Không,” Mark nói và rút ví ra.

“Nếu anh hỏi xin các tài liệu này từ một trong các Thượng Nghị sĩ thuộc bang của anh thì có lẽ anh có thể mang chúng đi mà không phải trả chi phí nào hết. Nếu không anh phải trả 10 đô-la, thưa anh.”

“Tôi đang vội,” Mark nói. “Chắc là tôi sẽ phải trả tiền thôi.”

Mark rút tiền ra thanh toán. Thượng Nghị sĩ Stevenson xuất hiện ở ngưỡng cửa nối phòng tranh luận với văn phòng Ủy ban.

“Chào buổi chiều, Thượng Nghị sĩ,” cô thư ký né qua Mark để chào hỏi.

“Xin chào, Debbie. Cô có tình cờ lưu một bản sao nào của Dự luật Chống ô nhiễm Không khí như báo cáo của tiểu ban không? Trước khi Ủy ban nâng giá ấy.”

“Chắc chắn rồi, Thượng Nghị sĩ, xin chờ cho một lát.” Cô ấy biến mất vào một căn phòng ở phía sau. “Đây là bản sao duy nhất mà chúng tôi có lúc này. Tôi có thể đặt lòng tin vào ông không, Thượng Nghị sĩ?” Cô ấy cười lớn. “Hoặc có lẽ tôi nên yêu cầu ông ký nhận vào đây chăng?”

Thậm chí cả Thượng Nghị sĩ cũng phải ký nhận, Mark nghĩ. Thượng nghĩ sĩ chỉ cần ký để nhận mọi thứ. Henry Lykham cũng chỉ cần ký là được, thậm chí cả tiền ăn trưa luôn. Đủ hiểu tại sao thuế má lại cao như vậy. Nhưng mình cứ tưởng là họ phải thanh toán tiền ăn gom lại sau này chứ nhỉ? Các bữa ăn, ôi Chúa ơi, tại sao mình lại không nghĩ ra sớm hơn nhỉ? Mark bắt đầu chạy.

“Anh ơi, anh ơi, anh bỏ quên tài liệu phiên tranh luận của mình rồi,” ai đó gọi với theo Mark, nhưng đã quá trễ.

“Lại một kẻ quấy nhiễu,” cô thư ký nói với Thượng Nghị sĩ Stevenson.

“Bất kỳ ai muốn đọc tất cả tài liệu về các phiên tranh luận đó chắc hẳn đều sẽ bắt đầu phát điên,” Thượng Nghị sĩ Stevenson nói, mắt vẫn nhìn chằm chằm vào đống giấy tờ mà Mark bỏ lại.

Mark đi thẳng đến phòng G-211, nơi anh đã từng ăn trưa với Lykham hôm trước. Cánh cửa ghi rõ ‘Phòng ăn dành cho viên chức Chính phủ’. Mark nhận thấy chỉ có hai hoặc ba người phục vụ đang làm việc tại đó.

“Cảm phiền cô, tôi băn khoăn liệu cô có thể nói cho tôi biết, đây có phải là phòng ăn của các Thượng Nghị sĩ không?”

“Tôi xin lỗi, tôi không biết. Anh phải nói chuyện với người phụ trách. Chúng tôi chỉ dọn dẹp thôi.”

“Tôi có thể tìm cô ấy ở đâu?”

“Cô ấy không ở đây. Cô ấy vắng mặt cả ngày. Nếu anh quay lại ngày mai, có thể cô ấy sẽ giúp được anh.”

“Được thôi.” Mark thở dài. “Cảm ơn. Nhưng cô có thể nói cho tôi biết – có còn phòng ăn nào khác dành cho Thượng Nghị sĩ nữa không?”

“Có đấy, một phòng lớn trong Tòa nhà Quốc hội. Phòng S-109, nhưng anh sẽ không thể vào đó đâu.”

Mark chạy lại thang máy và nóng ruột chờ đợi. Khi thang máy xuống đến tầng hầm, anh nhảy ra và đi bộ băng qua lối vào các đường hầm rối rắm như mê cung - đường hầm kết nối tất cả các tòa nhà văn phòng trên Đồi Capitol. Vượt qua một cánh cửa ghi rõ ‘Cửa hàng bán thuốc lá’, anh chạy vội đến nơi treo biển hiệu lớn ‘Xe điện ngầm đến tòa nhà Quốc hội’. Xe điện ngầm, thực ra là một con tàu mở cửa có nhiều khoang, sắp sửa rời bến. Mark bước vào khoang cuối cùng và ngồi xuống đối diện với hai nhân viên làm việc trong Thượng viện đang nói chuyện liến thoắng về dự luật nào đó cùng một số chuyện khác, cứ như thể nơi này thuộc về riêng họ vậy.

Chỉ một lát sau, tiếng chuông vang lên báo hiệu xe đã đến bến và đoàn tàu dừng lại ở phía Thượng viện của tòa nhà Quốc hội. Một cuộc sống quá tiện nghi, Mark nghĩ. Những người này thậm chí không bao giờ cần phải lang thang đâu đó giữa thế giới lạnh lùng và tàn nhẫn ngoài kia. Họ chỉ cần đi tàu qua lại giữa các phiên bỏ phiếu và tranh luận. Tầng hầm ở phía bên này phỏng lại y nguyên tầng hầm ở phía bên kia, toàn một màu vàng xỉn, hệ thống ống nước nổi và không thể thiếu những máy bán nước ngọt Pepsi. Chắc hẳn điều đó đã khiến Coca-cola phát điên khi Thượng viện lại ưu ái Pepsi. Mark bước lên một thang cuốn nhỏ và đợi thang máy công cộng, trong khi hai người đàn ông khác hối hả bước vào trong cái thang máy có biển ghi rõ ‘Chỉ dành cho Thượng Nghị sĩ’một cách nghiêm túc và khẩn trương.

Mark xuống tầng trệt và nhìn xung quanh, bối rối. Không có gì ngoài vòm đá cẩm thạch và hành lang. “Phòng ăn Thượng viện ở đâu?” - anh hỏi một trong những viên cảnh sát tòa nhà Quốc hội.

Anh ta chỉ đường, “Anh chỉ cần đi thẳng về phía trước, đi theo hành lang đầu tiên bên trái. Đó là một hành lang hẹp theo lối vào mà anh sẽ gặp đầu tiên.”

Mark đi ngay, ngoái cổ lại cảm ơn anh ta và tìm hành lang hẹp. Mark đi qua nhà bếp và một biển hiệu ghi rõ ‘Khu vực riêng - Chỉ dành cho nhà báo’. Đi thẳng về phía trước, anh ấy nhìn thấy một biển hiệu khác bằng gỗ in chữ lớn ‘Chỉ dành cho Thượng Nghị sĩ’. Một cánh cửa mở ra ở bên phải dẫn vào phòng đón khách được trang trí và tô điểm bằng đèn chùm, thảm có hoa văn màu hoa hồng và đồ nội thất bọc da màu xanh lá. Tất cả đều bị chi phối theo vô số hình họa nhiều màu trên trần nhà. Qua một cánh cửa khác, Mark có thể thấy khăn trải bàn trắng tinh, hoa tươi và một thế giới của những bữa ăn lịch sự, sang trọng. Một phụ nữ dáng vẻ đoan trang xuất hiện ở ngưỡng cửa.

“Tôi giúp gì được cho anh?” Cô ấy hỏi, đôi lông mày hơi nhướng lên tỏ vẻ dò xét.

“Tôi đang làm một luận án về đời sống sự nghiệp của một Thượng Nghị sĩ để lấy bằng Tiến sĩ.” Mark rút ví ra và đưa cho cô ấy xem thẻ học viên Yale, cố tình dùng ngón tay cái che đi đúng chỗ ghi ngày hết hiệu lực của thẻ.

Người phụ nữ đó rõ ràng không bị ấn tượng lắm.

“Tôi thực sự là chỉ muốn tham quan căn phòng để cảm nhận bầu không khí của nơi này thôi.”

“Chà, hiện tại chẳng có bất kỳ Thượng Nghị sĩ nào ở đây, quý anh ạ. Hầu như thứ Tư nào cũng vậy, họ không ở đây muộn đến thế. Họ bắt đầu về nhà ở bang của họ vào các ngày thứ Năm để nghỉ cuối tuần lâu hơn. Điều duy nhất giữ họ ở đây đến lúc này tuần này chính là Dự luật Kiểm soát súng.”

Mark cố gắng len lỏi để nhích dần tới giữa căn phòng. Một cô hầu bàn đang dọn bàn, cô ấy cười với anh.

“Các Thượng Nghị sĩ ký xác nhận bữa ăn hay họ thanh toán tiền mặt vậy?”

“Hầu như tất cả đều ký xác nhận bữa ăn và thanh toán một lượt vào cuối tháng.”

“Vậy cô theo dõi bằng cách nào?”

“Không vấn đề gì. Chúng tôi có ghi chép theo dõi hằng ngày.” Cô ấy chỉ vào một cuốn sổ lớn ghi tiêu đề ‘Sổ thống kê’. Mark biết rõ, có tất cả hai mươi ba Thượng Nghị sĩ đã ăn trưa ở đây ngày hôm đó, bởi vì thư ký của họ đã bảo anh thế. Liệu có bất kỳ Thượng Nghị sĩ nào đã ăn trưa ở đây mà không bận tâm đến chuyện nói cho thư ký của họ biết hay không nhỉ? Anh ấy chỉ còn cách cuốn sổ mục tiêu để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đó gần một mét.

“Tôi có thể xem qua thống kê của một ngày điển hình được không? Chỉ là tôi tò mò muốn biết nó được thống kê như thế nào thôi,” anh hỏi với một nụ cười hồn nhiên.

“Tôi không chắc tôi có được phép cho anh xem không.”

“Chỉ xem lướt qua thôi mà. Khi tôi viết đồ án, tôi muốn mọi người nghĩ rằng tôi thực sự biết rõ những gì tôi đang nói đến, rằng tôi đã thấy tận mắt. Mọi người ở đây đều đã rất tử tế đối với tôi.”

Anh nhìn người phụ nữ một cách khẩn khoản.

“Thôi được,” cô ấy nói một cách miễn cưỡng, “nhưng làm ơn thật nhanh nhé.”

“Cảm ơn cô. Tại sao không chọn một ngày đã qua nhỉ? Ví dụ như ngày 24 tháng Hai chẳng hạn.”

Cô ấy mở cuốn sổ và lật tới trang thống kê của ngày 24 tháng Hai. “Một ngày thứ Năm,” cô ấy nói. Stevenson, Nunn, Moynihan, Heinz, những cái tên vang lên, hết cái này đến cái khác. Dole, Hatfield, Byrd. Thế là Byrd đã ăn trưa tại Thượng viện vào ngày hôm đó. Anh đọc tiếp Templeman, Brooks – cả Brooks nữa. Tiếp theo, Barnes, Reynold, Thornton. Vậy ra bài phát biểu sáng nay là thật. Cô tiếp viên trưởng đóng cuốn sổ lại. Không có tên Harrison, và cũng không có tên Dexter.

“Trang thống kê chẳng có gì đặc biệt đúng không?” cô ấy nói.

“Không,” Mark trả lời. Anh cảm ơn người phụ nữ đó và nhanh chóng rời đi.

Ra đến đường, anh vẫy một chiếc taxi. Một trong ba người đàn ông bám theo Mark cũng gọi taxi. Hai người khác bám theo Mark chạy đi lấy xe của họ.

Mark đã đến Cục FBI chỉ một lát sau. Anh trả tiền taxi, trình phù hiệu tại lối vào và bắt tháng máy đi lên tầng 7. Bà McGregor mỉm cười. Giám đốc có lẽ đang ở trong phòng một mình, Mark nghĩ. Anh gõ cửa và bước vào.

“Chà, Mark, cậu đấy à?”

“Brooks, Byrd và Thornton không dính dáng đến vụ này, thưa sếp.”

“Tôi không lấy làm lạ khi nghe thấy hai cái tên đầu tiên,” vị Giám đốc nói. “Nếu họ có liên quan thì mới là không hợp lý. Nhưng hãy đặt trường hợp của Thornton sang một bên, anh ta thì khác. Tuy nhiên, làm sao mà cậu lại loại trừ họ ra khỏi danh sách?”

Mark mô tả cách anh ấy suy luận về sổ ký nhận trong phòng ăn của Thượng Nghị sĩ và tự hỏi liệu anh còn bỏ sót mất điều gì khác nữa không.

“Đáng lẽ cậu nên tìm ra kết quả này từ ba ngày trước rồi, phải không, Mark?”

“Đúng vậy, thưa sếp.”

“Cả tôi cũng vậy,” Giám đốc nói. “Thế là danh sách của chúng ta chỉ còn lại Dexter và Harrison. Cậu sẽ thấy thú vị khi biết rằng cả hai người đó, cùng với hầu hết tất cả các Thượng Nghị sĩ, đều dự định sẽ đến Washington vào ngày mai, và cả hai đều xuống tham dự buổi lễ tại Tòa nhà Quốc hội. Thật đáng kinh ngạc,” ông nghĩ thầm, “ngay cả ở đẳng cấp đó, con người vẫn thích xem tội ác của họ được thực hiện như thế nào.”

“Cùng xem lại lịch trình một lần nữa nhé, Andrews. Tổng thống đi ra từ cổng phía Nam Nhà Trắng lúc 10 giờ, trừ khi tôi cản bà ấy lại. Vậy là chúng ta còn lại tất cả mười bảy giờ đồng hồ và một hi vọng duy nhất cuối cùng. Các đặc vụ trong bộ phận phân tích dấu vân tay đã tìm được tờ tiền có dấu vân tay của cô Casefikis. Đó là tờ thứ hai mươi hai, có lẽ đó là một may mắn của chúng ta, chứ với nửa tá tờ 50 đô còn lại để phân tích, chúng ta không có nổi một tia hi vọng nào trước 10 giờ sáng mai. Cũng có vài dấu vân tay khác trên tờ đô-la đó, và họ sẽ làm việc thâu đêm để tìm ra đó là vân tay của ai. Tôi định sẽ về nhà trước nửa đêm. Nếu cậu có bất kỳ ý tưởng nào trước đó, hãy gọi cho tôi. Tôi muốn cậu có mặt ở đây vào lúc 8 giờ 15 phút sáng mai. Giờ cũng chẳng còn mấy việc cậu có thể làm được. Nhưng đừng lo lắng quá nhiều. Tôi có tới hai mươi đặc vụ vẫn đang điều tra vụ này, tuy không ai trong số họ biết rõ toàn bộ câu chuyện. Và tôi chỉ để Tổng thống đi vào khu vực nguy hiểm nếu như chúng ta đã xác định được những tên tội phạm này.”

“Vậy tôi sẽ báo cáo lúc 8 giờ 15 phút sáng mai, thưa sếp.” Mark nói.

“Vầ còn nữa, Mark, tôi thực sự khuyên cậu không nên gặp bác sĩ Dexter. Tôi không muốn mọi hoạt động của chúng ta bung bét cả vào phút chót đâu, vì chuyện tình ái của cậu. Tôi không có ý xúc phạm.”

“Vâng, thưa sếp.”

Mark rời đi với một chút cảm giác như thấy mình thừa thãi. Hai mươi đặc vụ được phân công tham gia điều tra vụ án. Giám đốc đã bố trí họ làm việc suốt ngày đêm mà không cho anh biết từ bao giờ? Hai mươi người chỉ để tìm ra kẻ tình nghi là Dexter hay Harrison mà không biết lí do là gì. Vẫn chỉ có anh ấy và Giám đốc biết toàn bộ câu chuyện và anh e rằng Giám đốc còn biết nhiều hơn cả anh nữa. Có lẽ, tránh mặt Elizabeth cho đến tối mai sẽ là khôn ngoan. Anh lấy xe và chạy ngược trở lại tòa nhà Dirksen, rồi sau đó nhớ ra rằng mình đã bỏ quên tài liệu về nội dung các phần phát biểu trong các phiên tranh luận ở văn phòng Ủy ban. Khi anh đến đó, từ trong thâm tâm có điều gì đó đã kéo anh thẳng tới bốt điện thoại. Anh phải gọi cho cô ấy, anh phải biết cô ấy có bị làm sao không sau vụ tai nạn kia. Anh quay số Trung tâm Y tế Woodrow Wilson.

“Ồ, cô ấy đã rời khỏi bệnh viện được một lúc rồi.”

“Cảm ơn,” Mark nói. Anh có thể cảm nhận được tim mình đang đập rộn ràng khi anh quay số nhà riêng của cô ấy ở Georgetown.

“Elizabeth?”

“Đúng, Mark.” Cô ấy nói có vẻ… lạnh nhạt? Sợ hãi? Mệt mỏi? Cả trăm câu hỏi quay cuồng trong tâm trí anh.

“Anh có thể đến và gặp em bây giờ không?”

“Được.” Có tiếng gác máy điện thoại.

Mark ra khỏi bốt điện thoại, cảm nhận được lòng bàn tay ướt đầm mồ hôi. Vẫn còn một việc phải làm trước khi anh có thể lái xe tới nhà Elizabeth, đó là lấy đám tài liệu chết tiệt về các phiên tranh luận xoay quanh Dự thảo luật Kiểm soát súng.

Mark đi bộ về phía thang máy và nghĩ rằng mình có thể nghe thấy nhiều tiếng bước chân phía sau mình. Tất nhiên anh có thể nghe thấy nhiều tiếng bước chân phía sau mình rồi, có vài người đi sau anh ấy. Khi đi tới thang máy, Mark nhấn nút Đi Lên và liếc quanh xem tiếng bước chân từ đâu. Giữa đám đông các nhân viên của Thượng viện, các Hạ Nghị sĩ và những người tham quan, có hai người đàn ông đang dõi theo anh ấy – hoặc có lẽ họ đang bảo vệ anh ấy? Còn có một người đàn ông thứ ba đeo kính đen đang nhìn chằm chằm vào cái áp phích quảng cáo y tế, anh ta thậm chí còn giống một đặc vụ hơn hai người kia, theo quan sát nhanh của Mark.

Giám đốc đã nói rằng ông ấy cài hai mươi đặc vụ điều tra vụ này và ba trong số đó được phân công bám sát Mark. Khốn khiếp thật. Chẳng mấy mà họ đi theo anh trở lại nhà Elizabeth, và Mark ngờ rằng Giám đốc sẽ biết việc đó ngay lập tức. Mark quyết định rằng sẽ không ai được đi theo anh tới nhà Elizabeth. Việc đó chả liên quan quái gì đến họ cả. Anh sẽ tống khứ cả ba người kia. Anh muốn gặp Elizabeth trong yên bình, mà không phải bận lòng tới những ánh mắt tọc mạch, soi mói hay những lời lẽ cay độc. Anh nghĩ thật nhanh trong lúc đợi xem cái thang máy nào xuống trước. Hai người đặc vụ kia đang đi về phía anh ấy, nhưng anh chàng đang xem áp phích y tế thì vẫn đứng yên tại chỗ. Có lẽ, anh ta không phải là một mật vụ, nhưng rõ ràng anh ta trông rất quen thuộc, dường như Mark đã từng gặp anh ta ở đâu đó. Anh ta tỏa ra khí chất của một đặc vụ mà các đặc vụ khác có thể cảm nhận được ngay dù họ nhắm mắt lại.

Mark tập trung vào thang máy. Mũi tên chỉ hướng đi lên ở phía bên phải anh sáng lên và hai cánh cửa thang máy từ từ mở ra. Mark bước nhanh vào, đứng dối diện với các nút bấm và nhìn chằm chằm ra ngoài hành lang. Hai nhân viên đặc vụ đi theo anh cũng bước vào thang máy và đứng ngay sau anh. Người đàn ông đứng xem áp phích y tế bắt đầu rảo bước đi về phía thang máy. Các cánh cửa thang máy bắt đầu đóng lại. Mark nhấn nút ‘Mở’ và hai cánh cửa lại tách ra lần nữa. Phải cho anh ta một cơ hội bước vào thang máy để tập trung cả ba người vào cùng một chỗ, Mark nghĩ, nhưng người đàn ông thứ ba không phản ứng gì. Anh ta chỉ đứng đó nhìn chằm chằm như thể đang đợi chuyến thang máy tiếp theo. Có lẽ anh ta muốn đi xuống và anh ta cũng không phải là một đặc vụ đâu. Mark có thể thề là… Cánh cửa thang máy từ từ đóng lại và đến một điểm mà anh cho là tối ưu, Mark bất ngờ nhảy ra ngoài trở lại.

Không ổn rồi. O’Malley cố gắng lách ra theo trong khi người cộng sự còn lại của anh ta phải đi theo thang máy lên tận tầng tám. Giờ, Mark chỉ còn hai cái đuôi. Thang máy kia đã đến. Người đặc vụ thứ ba bước ngay vào trong thang máy. Rất thông minh hoặc chẳng liên quan gì, Mark nghĩ và đợi bên ngoài. O’Malley đứng ngay cạnh anh ấy – làm gì tiếp theo đây?

Mark sải bước dài bước vào trong thang máy và nhấn nút ‘Xuống’, nhưng O’Malley cũng dễ dàng đi vào thang máy được. Mark nhấn nút ‘Mở’ và đi bộ thong dong ra ngoài. O’Malley sắc mặt thản nhiên, đi theo anh ấy. Người thứ ba vẫn đứng bất động trong thang máy. Họ chắc hẳn cùng một đội. Mark nhảy trở lại vào trong thang máy và đập mạnh vào nút ‘Đóng’. Cánh cửa thang máy đóng lại với tốc độ chậm phát kinh lên được, nhưng O’Malley đã đi quá hai bước và sẽ không quay lại theo Mark. Khi cửa thang máy đóng sầm lại, Mark mỉm cười. Đã xử lí xong hai người. Một người đang đứng bất lực ở tầng trệt và một người đang đi thẳng lên tầng cao nhất. Trong khi đó anh đang đi xuống tầng hầm một mình cùng người thứ ba.

*

O’Malley gặp lại Pierce Thompson trên tầng năm. Cả hai đều thở không ra hơi.

“Anh ta đâu rồi?” O’Malley kêu lên.

“Anh hỏi thế là nghĩa làm sao? Anh ta đâu? Tôi tưởng anh bám theo được anh ta chứ?”

“Không, tôi mất dấu anh ta ở tầng một.”

“Chết tiệt, anh ta có thể đi đâu được đây.” Thompton nói. “Tên nhóc tinh ranh đó nghĩ chúng ta thuộc phe nào chứ? Ai trong số hai chúng ta sẽ báo cáo lại với Giám đốc đây?”

“Không phải tôi,” O’Malley nói. “Anh là sĩ quan có thâm niên, anh báo cáo với ông ấy đi.”

“Không đời nào,” Thompson nói. “Thôi cứ để tên khốn Matson đó lãnh trọn công quả này đi. Anh chắc là anh ta vẫn theo kịp Mark chứ? Không, chúng ta sẽ tìm ra anh ta thôi. Anh tìm bốn tầng dưới. Tôi sẽ tìm bốn tầng trên. Phát tín hiệu cho nhau ngay khi tìm thấy nhé.”

Khi Mark đến tầng hầm, anh vẫn đứng trong thang máy. Người thứ ba đi bộ ra khỏi thang máy và dường như có chút lưỡng lự. Ngón tay cái của Mark nhấn mạnh vào nút Đóng lần nữa. Cánh cửa thang máy chuyển động. Anh ấy chỉ còn lại một mình. Anh ấy cố xoay xở để thang máy bỏ qua tầng một nhưng không thể, có ai đó đang muốn bắt thang máy ở đó. Anh ấy cầu nguyện rằng đó không phải là một trong ba người đặc vụ kia. Anh đành phải liều vậy. Cửa thang máy mở ra và anh bước ngay ra ngoài. Không thấy đặc vụ nào. Cũng không có ai đang nhìn chăm chú tấm áp phích y tế cả. Anh chạy tới chỗ cửa xoay ở cuối hành lang. Người nhân viên bảo vệ trực ca nhìn anh một cách ngờ vực trong khi khám xét và chạm phải bao da đựng súng ngắn của anh.

Bước qua cánh cửa xoay là ra ngoài đường, Mark chạy nhanh, mắt vẫn liếc nhìn xung quanh. Mọi người vẫn đang đi bình thường, không ai đang chạy cả. Anh đã xử lí được bọn họ, anh an toàn rồi.

Anh luồn lách trên đại lộ Pennsylvania giữa tiếng bánh xe phanh rít lên cùng tiếng phụ họa bực dọc của người đi đường. Anh đã đến được bãi đậu xe. Mark nhảy vào trong xe ngay và lần tìm vé cùng tiền trong túi quần. Tại sao họ lại thiết kế ra cái quần dài mà khi ngồi xuống họ không thể cho tay vào túi quần được nhỉ? Anh ấy nhanh chóng trả tiền vé và lái xe về phía Georgetown tới nhà Elizabeth. Mark nhìn gương chiếu hậu. Không có chiếc Ford mui kín nào bám theo. Anh ấy đã tống khứ được bọn họ, anh mỉm cười. Lần này anh đã thắng Giám đốc. Anh lái xe chạy vượt đèn giao thông ở góc đại lộ Pennsylvania và đường Số 14 ngay khi chúng đổi màu rồi bắt đầu thả lòng các cơ.

Một chiếc Buick chạy vượt đèn đỏ. Hên làm sao, không có cảnh sát giao thông quanh đó.

Khi Mark đến Georgetown, anh hồi hộp trở lại. Một sự lo lắng mới bởi Elizabeth và những gì liên quan đến cô lại xuất hiện. Anh có thể nghe thấy tiếng tim mình đập khi anh nhấn chuông trên cửa trước.

Elizabeth xuất hiện. Cô ấy trông buồn rầu, ủ rũ và mệt mỏi. Cô ấy cũng chẳng buồn nói lời nào. Anh đi theo cô vào trong phòng khách.

“Em ổn rồi chứ, sau vụ tai nạn?”

“Vâng, cảm ơn anh. Làm sao anh biết em đã bị tai nạn?” Cô ấy hỏi.

Mark nghĩ thật nhanh. “Gọi đến bệnh viện. Họ nói vậy mà.”

“Anh đang nói dối. Em đã không nói gì với ai ở bệnh viện cả và em đã về sớm ngay sau khi nhận được một cú điện thoại của cha em.”

Mark không thể nhìn thẳng vào mắt cô ấy. Anh ngồi xuống và nhìn chằm chằm vào tấm thảm. “Anh… anh không muốn nói dối em, Elizabeth. Làm ơn đừng ép anh phải làm thế.”

“Tại sao anh theo dõi cha em?” Cô chất vấn. “Ông ấy nghĩ trông anh có vẻ quen khi gặp anh ở khách sạn Mayflower. Anh đã bám sát từng cuộc họp tại Ủy ban của ông ấy và anh đã tham dự các cuộc tranh luận tại Thượng viện.”

Mark không trả lời.

“Đủ rồi, anh không cần giải thích. Tôi không hoàn toàn mù quáng. Tôi tự có kết luận của riêng mình. Tôi chỉ là một trong những nhiệm vụ mà FBI giao cho anh. Ôi trời đất ơi, anh đang làm thêm ngoài giờ để thực hiện nhiệm vụ được phân công đó, đúng không, đặc vụ Andrews? Với nhiệm vụ đốn gục con gái của một Thượng Nghị sĩ, thì anh quả là một lựa chọn tuyệt đến khốn khiếp. Có bao nhiêu cô con gái của Thượng Nghị sĩ khác đã bị anh ve vãn tuần này rồi? Anh đã lên giường được với cô nào chưa? Sao anh không thử phỉnh phờ các bà vợ Thượng Nghị sĩ luôn đi? Vẻ ngoài thư sinh trong sáng và quyến rũ của anh có thể cuốn hút họ đấy. Mặc dù, tôi phải thừa nhận, anh đã khiến tôi ngu muội đến thế nào, anh đúng là một thằng tồi dối trá.”

Bất chấp mọi nỗ lực đáng kể để duy trì thái độ sắt đá ngay từ khi bắt đầu công kích, Elizabeth bặm môi cố nén cảm xúc. Giọng cô như nghẹn lại. Mark vẫn không thể nhìn thẳng vào cô ấy. Anh ấy nghe và cảm nhận được cơn giận dữ cùng nước mắt trong giọng nói của cô ấy. Trong phút chốc, màn sương lạnh buốt lại bao phủ cảm xúc của cô ấy.

“Mời anh đi ngay cho, Mark. Giờ, tôi đã nói xong phần của mình, và tôi hi vọng sẽ không bao giờ nhìn thấy mặt anh nữa. Có lẽ, sau đó tôi có thể lấy lại lòng tự tôn của mình. Đi đi, cút về cái đống bùn nhớp nháp của anh đi.”

“Em hiểu lầm rồi, Elizabeth.”

“Tôi biết, anh là một đặc vụ bị hiểu lầm đáng thương và anh yêu tôi chỉ vì chính bản thân tôi thôi, không vì điều gì khác. Trong đời anh chỉ có tôi là người phụ nữ duy nhất.” Cô ấy nói một cách cay đắng. “Ít nhất là cho đến khi anh chuyển sang điều tra một vụ việc khác. Chà, vụ này vừa mới kết thúc rồi. Đi đi và tìm một cô con gái của ai đó khác mà phỉnh phờ, mà quyến rũ bằng những lời yêu đương dối trá của anh.”

Anh không thể trách Elizabeth phản ứng như vậy, và anh rời đi một cách lặng lẽ, không nói thêm lời nào.

Anh lái xe về nhà trong tình trạng rối bời. Những người đang ngồi trong chiếc xe đang bám theo anh thì lại phải căng não cảnh giác cao độ. Về đến nơi, Mark đưa chìa khóa xe cho Simon và bắt thang máy lên căn hộ của mình.

Con Buick đen đậu cách tòa nhà chung cư của Mark vài trăm mét. Hai người đàn ông có thể quan sát thấy đèn trên căn hộ của Mark đã bật sáng. Anh đã quay sáu trong bảy chữ số trong số điện thoại nhà riêng của Elizabeth, nhưng rồi lại đặt điện thoại trở lại chỗ cũ. Một trong những người theo dõi anh, đang ngồi trong chiếc xe Buick màu đen, châm một điếu thuốc khác, rít vào một hơi và kiểm tra đồng hồ đeo tay.

Sau nhiều tháng thỏa thuận, ép buộc, nịnh nọt và cả đe dọa, cuối cùng Dự thảo luật Kiểm soát súng cũng được đưa ra trước Nhà Trắng để phê duyệt lần cuối.

Ngày này sẽ trở thành một dấu mốc do chính bà Florentyna Kane viết nên trong lịch sử nước Mỹ. Giả sử như bà ấy không đạt được bất kỳ thành tựu nào khác trong suốt nhiệm kỳ của mình đi chăng nữa thì chỉ riêng thành công này thôi cũng khiến bà ấy có thể tự hào suốt phần đời còn lại.

Điều gì có thể ngăn trở thành công của bà ấy vào lúc này? Bà đã tự hỏi câu hỏi đó lần thứ một nghìn. Cái ý nghĩ kinh khủng đó cũng chợt lóe lên lần thứ một nghìn trong tâm trí bà.

Bà lại phải lập tức gạt bỏ ý nghĩ đó ngay thêm một lần nữa.