• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Bà tổng thống trước họng súng
  3. Trang 22

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • Sau

Chương 17

Sáng thứ Năm, ngày mùng 10 tháng Ba

5 giờ sáng

Giám đốc bất giác tỉnh giấc. Ông nằm đó, trong lòng bực bội. Ông chẳng thể làm được gì giờ này, ngoại trừ việc nhìn đăm đăm lên trần nhà và suy nghĩ và việc đó cũng chẳng giúp ích gì nhiều. Ông suy đi nghĩ lại lần lượt từng sự việc đã xảy ra trong suốt sáu ngày qua. Cái ý nghĩ hủy bỏ toàn bộ các hoạt động trong ngày hôm nay vẫn luôn luôn nảy ra sau tất cả. Điều đó có thể ngụ ý rằng, thậm chí đến bây giờ, tay Thượng Nghị sĩ và đồng phạm của hắn vẫn có thể có cơ hội thoát tội. Có lẽ bọn chúng đã biết cả và đã ẩn nấp ở đâu đó để phục sức và chuẩn bị cho một cơ hội khác. Hoặc cũng có nghĩa là vấn đề hóc búa của ông ấy vẫn sẽ còn đó.

Thượng Nghị sĩ thức dậy lúc 5 giờ 35 phút sáng, người đầm đìa mồ hôi lạnh – chẳng có vẻ gì là ông ta đã thực sự ngủ được trong khoảng vài phút vào đêm qua. Thật là một đêm kinh hoàng, sấm, sét và tiếng còi hú như tiếng thét gào của những mỹ nhân ngư trong mưa gió và bão tố82. Chính những tiếng còi hú vang đó khiến ông ta sợ toát mồ hôi. Ông ta thậm chí còn lo lắng và bất an hơn dự tính của mình. Trên thực tế, sau khi nghe ba hồi chuông đó, ông ta đã gần như quay xong số điện thoại của tên Chủ tọa kia để nói rằng ông không thể tham gia âm mưu đó, bất chấp mọi phản ứng khéo léo, tinh vi của tên đó mà hầu như ông đã lờ mờ đoán được. Nhưng hình ảnh Tổng thống Kane gục chết ngay bên cạnh mình đã nhắc nhở Thượng Nghị sĩ rằng, tất cả mọi người, thậm chí cho đến bây giờ, vẫn có thể nhớ chính xác vị trí của họ khi John F. Kennedy bị ám sát và chính ông ta sẽ không bao giờ có thể quên vị trí của mình khi Florentyna Kane chết. Thậm chí ngay cả điều đó cũng ít đáng sợ hơn cái ý nghĩ rằng tên của chính ông ta sẽ được nêu trên tiêu đề tin tức báo chí, hình ảnh của ông ta trong lòng công chúng sẽ bị hủy hoại và sự nghiệp của ông ta sẽ tiêu tan. Mặc dù vậy, ông ta gọi cho tay Chủ tọa hầu như chỉ để khẳng định lại và giữ vững tinh thần, bất chấp việc họ đã thỏa thuận là sẽ không liên lạc với nhau kể từ lần cuối gặp mặt cho đến sáng muộn ngày hôm sau, khi đó có lẽ tay Chủ tọa đã đến Miami rồi.

82 Truyền thuyết phương Tây kể về một eo biển chết chóc, khi tàu thuyền đi vào đó mưa gió, sấm chớp sẽ nổi lên và tiên cá sẽ hát để quyến rũ thủy thủ nhảy xuống biển rồi chết. Ai nghe thấy tiếng hát của tiên cá đều bị mất mạng.

Năm người đã chết và những vụ án mạng đó đã tạo ra một cơn sóng duy nhất: cái chết của Tổng thống Kane sẽ có ảnh hưởng tới tình hình chung của toàn thế giới.

Thượng Nghị sĩ nhìn mông lung ra bên ngoài cửa sổ một lúc rồi quay đi. Ông ta nhìn chằm chằm vào đồng hồ đeo tay và ước gì có thể chặn đứng dòng thời gian lại. Chiếc kim giây vẫn cứ dịch chuyển đều đều, không nao núng, không thương xót, dần đến thời khắc 10 giờ 56 phút. Ông ta tự làm cho mình quên đi bằng cách tập trung vào bữa sáng và đọc tin tức trên báo. Tờ Bưu điện đưa tin rằng, rất nhiều tòa nhà đã bị cháy trong suốt cả đêm qua bởi một trong những cơn bão tồi tệ nhất từng xảy ra trong lịch sử Washington, và trận vỡ đập Lubber Run ở Virginia đã gây thiệt hại nặng nề về tài sản. Chẳng có mấy tin tức đề cập đến Tổng thống Kane. Ông ta ước gì mình có thể đọc tin tức trên báo sáng mai ngay từ sáng hôm nay.

*

Cuộc gọi đầu tiên mà Giám đốc nhận được lại là từ Elliott. Anh ta thông báo rằng, các hoạt động gần đây của Thượng Nghị sĩ Dexter và Thượng Nghị sĩ Harrison không tiết lộ thêm gì mới đối với tình hình – anh chàng đặc vụ đó có biết tình hình chính xác là như thế nào đâu cơ chứ. Vị Giám đốc lầm bầm một mình và ăn nốt phần trứng ốp tái của ông, rồi đọc phần tin mô tả thời tiết quỷ ám đã tấn công thành phố Washington suốt đêm qua trên tờ Bưu điện. Ông liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời lại trong và tạnh ráo rồi. Một ngày hoàn hảo cho một sát thủ. Cũng là một ngày sáng sủa để phơi bày bè lũ rắn độc. Ông có thể trì hoãn đến mức nào, trước khi cho tất cả mọi người biết toàn bộ câu chuyện đây? Tổng thống sẽ rời Nhà Trắng lúc 10 giờ sáng theo lịch trình nghị sự. Ông Giám đốc sẽ phải tóm tắt lại và báo ngắn gọn cho Giám đốc Sở Mật vụ H. Stuart Knight, một khoảng thời gian dài trước đó, và nếu cần thiết, ông phải báo cáo cho Tổng thống ít nhất một giờ trước thời điểm đó. Quỷ tha ma bắt, ông buộc phải để đến phút chót và đành giải thích toàn bộ sau vậy. Ông sẵn sàng mạo hiểm cả sự nghiệp để bắt tận tay viên Thượng Nghị sĩ hiểm độc đó. Nhưng mạo hiểm tính mạng của Tổng thống thì không đời nào...

Ông lái xe đến Cục ngay sau 6 giờ. Ông muốn ở đó trong hai giờ đồng hồ trước khi Andrews đến, để nghiên cứu tất các các báo cáo mà ông đã chỉ thị suốt đêm qua. Chắc hẳn, không mấy phụ tá cao cấp của ông có thể ngủ được nhiều vào đêm qua, mặc dù họ có thể vẫn băn khoăn không hiểu vì sao. Họ sẽ biết sớm thôi, khi đến lúc. Phó Giám đốc phụ trách điều tra, Trợ lý Giám đốc phụ trách Lập kế hoạch và Đánh giá và Trưởng ban Hình sự của ông có lẽ sẽ giúp ông quyết định nên tiếp tục hay hủy bỏ toàn bộ hoạt động. Chiếc xe Ford mui kín lăn bánh xuống đoạn đường dốc thoai thoải hướng tới bãi đậu xe ở tầng hầm và chỗ để xe riêng của ông ấy.

Elliott đã có mặt và sẵn sàng đón ông tại thang máy – anh ta luôn luôn ở đó, chưa từng đến muộn. Anh ta không phải con người, anh ta phải ra đi thôi, Giám đốc nghĩ, nếu mình không phải là người ra đi trước. Ông ấy bất chợt nhận ra rằng mình có thể sắp phải nộp đơn từ chức cho Tổng thống vào đêm đó. Tổng thống nào cơ? Ông gạt ý nghĩa ấy ra khỏi đầu – việc đó sẽ tự xảy ra khi đến lúc, còn giờ ông vẫn phải gánh vác tất cả trách nhiệm trong năm giờ tới.

Elliott không còn thông tin có ích nào để báo cáo. Dexter và Harrison đều nhận và gọi điện thoại suốt cả đêm cho đến sáng sớm, nhưng không có gì liên quan đến việc phạm tội. Không có thêm thông tin nào khác. vị Giám đốc hỏi anh ta hai Thượng Nghị sĩ đó hiện đang ở đâu.

“Cả hai đều đang ăn sáng tại nhà của họ. Dexter ở Kensington, Harrison ở Alexandria. Sáu đặc vụ đã theo dõi họ từ năm giờ sáng nay và đều đã nhận được chỉ thị cụ thể về nhiệm vụ theo dõi họ sát sao từng giây từng phút trong cả ngày.”

“Tốt. Báo cáo lại cho tôi ngay lập tức nếu có bất cứ điều gì bất thường xảy ra.”

“Tất nhiên rồi, thưa sếp.”

Một nhân viên phòng phân tích dấu vân tay là người báo cáo tiếp theo. Khi anh ta vừa đến, ông Giám đốc ngay lập tức đã xin lỗi vì đã khiến anh ta phải làm việc thâu đêm, mặc dù khuôn mặt và ánh mắt của người đó còn rạng ngời, hân hoan và đầy sức sống hơn chính khuôn mặt và đôi mắt của ông khi ông cạo râu sáng nay.

Daniel Sommerton – cao khoảng 1 mét 62, dáng người mảnh dẻ, với nước da khá sáng – bắt đầu báo cáo. Anh ta giống như một cậu bé đang cầm đồ chơi trong tay vậy. Đối với anh ấy, làm việc với những dấu vân tay luôn luôn là một công việc đầy hứng thú và đam mê. Vị Giám đốc vẫn ngồi trong khi Sommerton đứng báo cáo. Nếu Giám đốc đứng lên thì anh ta không chỉ thấp hơn ông ấy một cái đầu hay đứng đến vai, mà thậm chí anh ta chỉ cao đến ngực ông ấy.

“Chúng tôi đã tìm thấy mười bảy dấu vân tay khác nhau và ba dấu vân tay ngón cái, thưa Giám đốc.” Anh ấy báo cáo một cách vui mừng. “Chúng tôi đã cho tờ tiền đó đi qua hoạt chất Ninhydrin83 thay vì quy trình phân tích bằng khói i-ốt để có thể phân tách tất cả cùng lúc, vì một vài lí do liên quan đến mặt kỹ thuật mà tôi không muốn làm phiền Sếp phải nghe.”

83 Ninhydrin (2,2-dihydroxyindane-1,3-dione) là một hóa chất được sử dụng để phát hiện dấu vân tay.

Anh ấy khoát tay dứt khoát ra hiệu rằng, anh ấy không muốn lãng phí thời gian của vị Giám đốc vào những giải thích mang tính khoa học. Giám đốc sẽ có thể là người đầu tiên nhận ra việc đó chẳng có ích gì đối với ông ấy.

“Chúng tôi nghĩ có khả năng chúng tôi sẽ có thể tìm ra thêm hai dấu vân tay nữa.” Sommerson tiếp tục, “Và chúng tôi sẽ có báo cáo cuối cùng cho Sếp trong khoảng hai, hoặc nhiều nhất là ba giờ nữa, về toàn bộ dấu vân tay trên tờ tiền số hai mươi hai đó.”

Ông Giám đốc liếc nhìn đồng hồ đeo tay – đã 6 giờ 45 phút.

“Tốt lắm. Không thể sớm hơn một phút nào. Thu thập và báo cáo kết quả cho tôi ngay - kể cả nếu không tìm ra được gì – càng nhanh càng tốt và làm ơn chuyển lời cảm ơn của tôi tới tất cả các nhân viên vì đã nỗ lực làm việc thâu đêm.”

Chuyên gia dấu vân tay rời đi, để lại Giám đốc một mình trong phòng, lo lắng về việc quay lại để xử lí cho xong mười bảy dấu vân tay, ba dấu ngón cái và hai dấu vết chưa xác định được kia. Giám đốc nhấn một cái nút và yêu cầu bà McGregor gọi Trợ lý Giám đốc phụ trách Lập kế hoạch và Đánh giá vào phòng.

Hai phút sau, Walter Williams đã đứng ngay trước mặt ông.

Cao 1 mét 8, tương ứng với thân hình đó là một khuôn mặt gầy guộc, xanh xao, có vòm trán cao ấn tượng nổi bật, cùng nét mặt toát lên vẻ hóm hỉnh, vui tươi thay vì buồn thương, Williams được toàn Cục biết đến và gọi bằng cái tên Brain hoặc W.W. Trách nhiệm quan trọng nhất của anh là dẫn đầu một nhóm người gồm sáu chuyên gia cố vấn đầu não – họ đều là những bộ não có sức mạnh tư duy ấn tượng. Giám đốc thường thử thách anh ta bằng các tình huống giả định, mà lời giải đáp tình huống được W.W. đưa ra thường được chứng minh là đúng về sau, hoặc kể cả khi hồi tưởng lại về trước đó. Giám đốc đặt niềm tin rất lớn đối với những nhận định, đánh giá của ông ấy, nhưng ngày hôm nay, ông ấy không được sai sót dù chỉ một ly. Tốt hơn cả là W.W. sẽ đưa ra một số giải pháp cho giả thuyết mà ông đặt ra cho anh ta vào tối qua, hoặc người mà ông cần gọi điện tiếp theo sẽ là bà Tổng thống.

“Chào buổi sáng, Giám đốc.”

“Chào buổi sáng, W.W. Về vấn đề nhỏ mà tôi đưa ra, anh định xử lí như thế nào?”

“Câu hỏi thú vị nhất mà tôi từng được hỏi, thưa Giám đốc… Tôi cảm thấy, nói một cách công bằng, câu trả lời rất đơn giản, thậm chí có đánh giá vấn đề theo bất kỳ góc độ nào đi chăng nữa.”

Lần đầu tiên trong buổi sáng hôm đó, nét mặt của vị Giám đốc biểu lộ vẻ tươi cười.

“Cứ cho là tôi hoàn toàn hiểu đúng ý ông, thưa sếp.” Nụ cười của Giám đốc mở rộng hơn chút xíu.

W.W. chẳng bao giờ bỏ lỡ hay hiểu nhầm bất cứ điều gì cả, và còn nghiêm túc đến nỗi không bao giờ gọi tên ông Giám đốc là ông Halt, ngay cả khi chỉ có hai người với nhau. W.W. tiếp tục nói, đôi lông mày của anh ấy nhướng lên, rồi lại hạ xuống như sự tăng giảm thất thường của chỉ số Dow-Jones trong năm bầu cử vậy.

“Sếp bảo tôi giả sử rằng, Tổng thống sẽ rời khỏi Nhà Trắng trong X trăm giờ đồng hồ nữa và di chuyển bằng xe hơi tới tòa nhà Quốc hội. Chuyến đi sẽ mất khoảng sáu phút. Tôi đang giả sử xe của bà ấy là xe bọc thép chống đạn và được bao quanh bởi nhân viên Sở Mật vụ. Và trong điều kiện đó, liệu có thể ám sát bà ấy không? Câu trả lời là có khả năng, nhưng cũng gần như là không có khả năng, thưa sếp. Tuy nhiên, từ giả thuyết đến kết luận theo logic, bọn ám sát có thể sử dụng ba phương pháp: (a) chất nổ; (b) một khẩu súng ngắn ở cự ly gần; (c) một khẩu súng trường.”

W. W. luôn nói như đang đọc một cuốn sách giáo khoa vậy. “Chúng có thể ném bom từ bất kỳ điểm nào trên tuyến đường, nhưng bọn chuyên nghiệp không bao giờ dùng bom bởi vì chúng được trả tiền để lấy kết quả chứ không phải công sức mà chúng bỏ ra. Nếu sếp tìm hiểu sâu về bom như một vũ khí thủ tiêu Tổng thống, sếp sẽ thấy rằng, bom chưa từng là phương thức ám sát thành công, mặc dù chúng ta đã có bốn Tổng thống đương chức bị hạ sát rồi. Bom rõ ràng là chỉ giết được những người vô tội và thường là cả thủ phạm gây ra tội ác nữa. Bởi vì sếp đã có ý ám chỉ rằng, những kẻ có liên quan là những người chuyên nghiệp, nên tôi cho rằng họ phải chọn sử dụng súng ngắn hoặc súng trường. Giờ tôi sẽ chuyển qua phân tích về súng tầm ngắm gần. Thưa Giám đốc, chính bản thân loại vũ khí này cũng không khả thi cho một âm mưu ám sát trên tuyến đường đó. Bởi vì một tay chuyên nghiệp không có cách nào để tiếp cận và bắn bà Tổng thống trong một cự ly gần. Hơn nữa, cách đó có thể mạo hiểm chính tính mạng của hắn. Bọn chúng có thể sẽ chọn súng săn hạng nặng tầm xa hoặc một khẩu súng chống tăng để có thể xuyên thủng xe limousine của Tổng thống. Nhưng làm sao để mang theo những loại vũ khí hạng nặng, cồng kềnh như thế giữa thành phố Washington mà không có giấy phép được.”

Với W.W., ông Giám đốc chưa bao giờ biết chắc là anh ta đang nói đùa hay nói thật. Cặp lông mày của anh ta vẫn chuyển động lên xuống đều đặn, một dấu hiệu rõ ràng cho thấy, đừng ngắt lời anh ấy bằng mấy câu hỏi ngu ngốc.

“Khi bà Tổng thống đã đến được tới các bậc thềm trước tòa nhà Quốc hội, thì đám đông quần chúng đã cách bà ấy một khoảng quá xa, và không còn thích hợp để sử dụng súng ngắn nữa, bởi vì (a) ngắm bắn không thể chính xác được, (b) không có cơ hội tẩu thoát cho kẻ ám sát. Bởi vậy, phải thừa nhận rằng, vũ khí thành công nhất, được thử nghiệm tốt nhất để ám sát một Nguyên thủ quốc gia, chính là súng trường có trang bị kính ngắm viễn vọng tầm xa. Và vì vậy, cơ hội duy nhất mà kẻ ám sát có chính là ở tòa nhà Quốc hội. Hắn không thể nhìn thấy bên trong Nhà Trắng và dù sao đi nữa thì kính cửa sổ cũng dày tới 10 xăng-ti-mét. Do dó, bọn chúng chắc chắn phải đợi Tổng thống thực sự ra khỏi xe limousine và đứng trên các bậc thềm tòa nhà Quốc hội. Sáng nay chúng tôi đã thử đo thời gian đi lại trên các bậc thềm tòa nhà Quốc hội, mất khoảng năm mươi giây. Có rất ít các điểm ngắm thuận lợi cho mục tiêu ám sát kiểu này. Tuy nhiên, chúng tôi đã tìm và khảo sát kỹ lưỡng các khu vực xung quanh đó, tất cả đều được ghi lại trong báo cáo của tôi. Ngoài ra, những kẻ chủ mưu phải chủ quan và tin rằng chúng ta không hề biết gì về âm mưu của chúng, bởi vì chúng biết rõ chúng ta có thể bao vây mọi điểm ngắm bắn tiềm năng. Tôi cho rằng một vụ ám sát tại đây, ngay giữa trung tâm thủ đô Washington này, là gần như không thể xảy ra, chỉ khi kẻ chủ mưu và đồng bọn của hắn đủ liều lĩnh và có kỹ năng chuyên biệt.”

“Cảm ơn anh W. W. Tôi tin tưởng vào nhận định chính xác của anh.”

“Rất hân hạnh, thưa sếp. Tôi vô cùng hi vọng đó chỉ là trường hợp giả thuyết thôi.”

“Đúng vậy, W.W.”

W.W. nở nụ cười như một cậu học sinh trả lời đúng mọi câu hỏi của giáo viên. Brain rời khỏi phòng Giám đốc để trở lại với những nhiệm vụ khác. Giám đốc ngừng lại một chút, sau đó ông gọi cho Trợ lý riêng của ông ấy.

Matthew Rogers gõ cửa và bước vào phòng, chờ được Giám đốc mời ngồi vào đâu đó. Anh ấy hiểu rõ cấp độ thẩm quyền của mình. Giống như W.W., anh ấy sẽ không bao giờ trở thành Giám đốc, nhưng sẽ chẳng có ai muốn trở thành Giám đốc mà lại không có anh ấy làm việc cùng.

“Chà, Matt, anh đấy à?” Ông Giám đốc chỉ tay vào chiếc ghế da.

“Tôi đã đọc báo cáo mới nhất của Andrews tóm tắt lại kết quả điều tra đêm qua, thưa sếp. Và tôi thực sự nghĩ rằng, đã đến lúc chúng ta phải thông báo cho Sở Mật vụ.”

“Tôi sẽ thông báo cho họ trong khoảng một giờ nữa,” Giám đốc nói. “Đừng lo lắng. Anh đã quyết định phương án triển khai lực lượng của mình chưa?”

“Điều đó còn phụ thuộc vào địa điểm có nguy cơ cao nhất, thưa sếp.”

“Được rồi, Matt, hãy giả sử rằng điểm rủi ro tối đa là chính tòa nhà Quốc hội, vào lúc 10 giờ 06 phút, ngay trên các bậc thềm - sau đó thì sao?”

“Trước tiên, tôi sẽ bao quanh khu vực trong phạm vi khoảng một phần tư dặm theo mọi hướng. Tôi sẽ ngừng hoạt động của ga tàu điện ngầm, dừng tất cả các luồng giao thông đang lưu hành dù là công cộng hay công vụ, gạt sang một bên để thẩm vấn bất cứ ai từng có tiền án tiền sự, bất kỳ ai có dấu hiệu đáng ngờ về mặt an ninh. Tôi sẽ nhận được hỗ trợ từ lực lượng Cảnh sát Thủ đô để đảm bảo an ninh vòng ngoài. Chúng tôi muốn càng có nhiều tai mắt trong phạm vi bảo vệ càng tốt. Chúng tôi có thể lấy từ hai đến bốn máy bay trực thăng từ căn cứ Không quân Andrews để rà soát tầm gần. Trong khu vực gần Tổng thống nhất, tôi có thể sử dụng toàn bộ lực lượng Sở Mật vụ che chắn tận chân tơ kẽ tóc để bảo đảm an toàn cho Tổng thống.”

“Rất tốt, Matt. Bây giờ, anh cần bao nhiêu người để bố trí cho một hoạt động như thế này và bao lâu để họ sẵn sàng nếu tôi tuyên bố tình huống khẩn cấp?”

Trợ lý Giám đốc nhìn đồng hồ - chỉ hơn 7 giờ sáng một chút. Anh cân nhắc vấn đề một lát. “Tôi cần khoảng ba trăm đặc vụ đã được chỉ thị trước về nhiệm vụ và triển khai đầy đủ hoạt động trong hai giờ.”

“Được rồi. Tiến hành đi,” Giám đốc nói một cách quả quyết. “Báo cáo cho tôi ngay khi họ đã sẵn sàng, nhưng hãy chờ cho đến gần cuối mới tuyên bố ngắn gọn lí do, và Matt, hãy chú ý, tôi không muốn có máy bay trực thăng trước 10 giờ 01 phút. Tôi không muốn có bất kỳ sơ hở nào, đó chính là hi vọng cuối cùng để bắt được kẻ ám sát.”

“Sao sếp không đơn giản là hủy bỏ chuyến thăm của Tổng thống, thưa sếp? Chúng ta gặp đủ rắc rồi rồi và đó không hoàn toàn là trách nhiệm của sếp ngay từ đầu.”

“Nếu rút chân ra khỏi vụ này ngay bây giờ thì chúng ta sẽ phải bắt đầu lại tất cả vào ngày mai,” Giám đốc nói, “và tôi có thể sẽ không bao giờ có được cơ hội như thế này nữa.”

“Vâng, thưa sếp.”

“Đừng làm tôi thất vọng, Matt, vì tôi sẽ để cậu toàn quyền xử lí các hoạt động thực địa của lực lượng.”

“Cảm ơn sếp.”

Rogers rời khỏi phòng. Giám đốc biết rằng công việc của mình sẽ được hoàn thành vừa đủ tốt như nó có thể bởi bất kỳ nhân viên thực thi pháp luật chuyên nghiệp nào ở Mỹ.

“Bà McGregor.”

“Vâng, thưa ông?”

“Nối máy cho tôi gặp Giám đốc Sở Mật vụ tại Nhà Trắng.”

“Vâng, thưa ông.”

Giám đốc liếc nhìn đồng hồ đeo tay: 7 giờ 10 phút. Andrews sẽ đến lúc 8 giờ 15 phút. Điện thoại reo.

“Ông Knight trên đường dây, thưa ông.”

“Stuart, anh có thể gọi cho tôi theo đường dây riêng của tôi được không? Và hãy đảm bảo là không để ai nghe lén.”

H. Stuart Knight biết Halt đủ rõ để nhận ra rằng ông ta muốn ám chỉ điều gì. Anh gọi lại cho ông ấy ngay lập tức bằng thiết bị đổi tần số radio chuyên biệt84 của anh.

84 Thiết bị trộn và đổi tần số sóng radio để tránh bị nghe lén.

“Stuart, tôi muốn gặp anh ngay lập tức, địa điểm như cũ, trong khoảng ba mươi phút, không hơn. Ưu tiên hàng đầu.”

Bất tiện thật, mẹ kiếp, Knight nghĩ, khi Tổng thống sắp sửa đi đến Điện Capitol trong vòng hai tiếng nữa. Nhưng Halt chỉ đưa ra những yêu cầu kiểu này hai đến ba lần một năm và anh biết rằng các vấn đề khác phải bị gạt sang một bên trong chốc lát. Chỉ có Tổng thống và Tổng chưởng lý mới có quyền được ưu tiên hơn Halt.

Mười phút sau, Giám đốc Cục FBI và Giám đốc Sở Mật vụ gặp nhau tại một dãy xe taxi xếp hàng dài trước ga Union. Họ không chọn chiếc xe đầu tiên trong hàng mà chọn chiếc thứ bảy. Họ leo vào ghế sau mà không nói hay chào nhau. Elliott lái chiếc xe taxi màu vàng của hãng Max chạy vòng quanh Tòa nhà Quốc hội. Giám đốc FBI nói còn Giám đốc Sở Mật vụ lắng nghe.

Chuông báo thức của Mark đánh thức anh dậy vào lúc 6 giờ 45 phút. Anh vẫn nghĩ về những tập tài liệu nội dung tranh luận mà anh đã bỏ quên ở Thượng viện trong lúc tắm và cạo râu, đồng thời cố gắng tự thuyết phục mình rằng những tài liệu đó chẳng thể giúp anh xác định được Thượng Nghị sĩ Dexter hay Thượng Nghị sĩ Harrison mới là thủ phạm. Anh thầm cảm ơn Thượng Nghị sĩ Stevenson vì đã gián tiếp loại bỏ Thượng Nghị sĩ Brooks, Byrd và Thornton giúp anh. Anh sẽ cảm ơn bất kỳ ai có thể giúp anh loại trừ Thượng Nghị sĩ Dexter ra khỏi diện tình nghi. Anh đang bắt đầu dần chấp nhận các lập luận của Giám đốc – tất cả đều chĩa thẳng mũi dùi về phía Thượng Nghị sĩ Dexter. Động cơ của ông ấy có sức thuyết phục đặc biệt, nhưng… Mark nhìn đồng hồ đeo tay, vẫn còn hơi sớm một chút. Anh ngồi ở mép giường và đang gãi một bên chân bị ngứa, có con gì đó cắn anh ấy suốt cả tối qua. Anh tiếp tục cố gắng lục lại xem liệu anh có bỏ sót điều gì hay không.

Tay Chủ tọa ra khỏi giường vào lúc 7 giờ 20 phút và châm điếu thuốc đầu tiên. Hắn ta không thể nhớ chính xác hắn ta thức giấc khi nào. Vào lúc 6 giờ 10 phút, hắn đã gọi cho Tony, người đã thức dậy và đang đợi cuộc gọi của hắn. Họ không gặp nhau vào ngày hôm đó, trừ khi tay Chủ tọa cần đến chiếc xe trong trường hợp khẩn cấp. Lần nói chuyện tiếp theo của họ sẽ đúng vào lúc 9 giờ 30 phút để điểm danh và xác nhận rằng tất cả mọi người đều đã vào vị trí.

Khi đã gọi điện xong, tay Chủ tọa gọi số phòng dịch vụ và yêu cầu một bữa sáng thịnh soạn. Công việc mà hắn ta phải xử lí sáng hôm đó không phải là loại công việc mà người ta có thể hoàn thành được với một cái dạ dày rỗng tuếch. Bắt đầu từ sau 7 giờ 30 phút là Matson có thể gọi hắn ta bất cứ lúc nào. Có lẽ giờ này anh ta vẫn đang ngủ. Sau những nỗ lực đêm qua, Matson xứng đáng được nghỉ ngơi đôi chút. Tên Chủ tọa bất giác mỉm cười với chính mình. Hắn đi vào phòng tắm và bật vòi hoa sen. Nước lạnh rỉ thành dòng, nhỏ giọt, yếu ớt. Mẹ kiếp, cái khách sạn này. Mất một trăm đô-la mỗi đêm mà không có nước nóng. Hắn tạt nước văng tung tóe một cách bực bội và bắt đầu nghĩ cẩn thận về những việc phải làm trong năm giờ tới, để yên tâm rằng hắn không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào. Tối nay, Kane sẽ chết, và hắn sẽ nhận được hai triệu đô trong tài khoản tại Ngân hàng Liên minh Thụy Sĩ ở Zurich, tài khoản số AZL-376921- B. Đó là một món tiền thưởng để tri ân từ một người bạn trong ngành buôn bán vũ khí. Và nghĩ xem, Chú Sam85 thậm chí còn chẳng thể đánh thuế được xu nào đối với khoản tiền đó.

85 Chú Sam (tiếng Anh: Uncle Sam) là một từ nhân cách hóa quốc gia chỉ nước Mỹ và đôi khi cụ thể hơn là chỉ chính phủ Mỹ. Hình tượng Chú Sam xuất hiện lần đầu trong 1 cuốn truyện ngụ ngôn năm 1816, có tên gọi: The Advanture of Uncle Sam in Search After His Lost Honor (tạm dịch: Cuộc Phiêu Lưu của Chú Sam trong hành trình tìm kiếm danh dự đã mất) được viết bởi Frederick Augustus Fidfaddy.

Có tiếng điện thoại reo vang. Khốn kiếp. Hắn đi ra, nước nhỏ giọt theo từng bước đi xuống sàn nhà, nhịp tim đập nhanh hơn. Là điện thoại của Matson.

Matson và tay Chủ tọa đã lái xe trở về từ khu chung cư nơi Mark sống lúc 2 giờ 35 phút sáng nay. Việc phải làm đã làm xong xuôi. Matson đã ngủ quên quá ba mươi phút. Cái khách sạn chó chết này đã quên không đánh thức anh ta dậy. Đúng là ngày nay, bạn chẳng thể tin được ai. Ngay khi thức giấc, anh ta đã gọi cho tên Chủ tọa và báo cáo.

Xan đã vào vị trí sẵn sàng trên đỉnh cần cẩu – hắn có lẽ là người duy nhất trong bọn họ vẫn còn ngủ giờ này.

Tay Chủ tọa rất hài lòng dù nước trên người hắn vẫn đang nhỏ giọt xuống sàn nhà. Hắn đặt điện thoại xuống và quay trở vào phòng tắm. Mẹ kiếp, nước vẫn lạnh cóng.

Matson tự sướng. Anh ta luôn làm thế mỗi khi hồi hộp và còn nhiều thời gian để chờ đợi.

Bà Florentyna Kane vẫn còn chưa tỉnh hẳn cho đến 7 giờ 35 phút. Bà trở mình qua lại, cố gắng hồi tưởng những gì đã mơ thấy nhưng không tài nào nhớ nổi, vậy nên bà nghĩ vẩn vơ đôi chút. Hôm nay, bà sẽ tới tòa nhà Quốc hội để bảo vệ lập trường ủng hộ Dự thảo luật Kiểm soát súng của mình trong một phiên tranh luận đặc biệt của Thượng viện. Và sau đó, bà sẽ ăn trưa với tất cả những người ủng hộ lẫn những những người phản đối dự luật đó. Bởi vì Ủy ban đã thông qua, nên bà tin chắc rằng, cuối cùng bà sẽ cũng sẽ phê duyệt được dự luật. Bà phải tập trung vào chiến lược của mình cho ngày tranh đấu cuối cùng trên chiến trường ở sàn tranh luận của Thượng viện. Ít nhất thì số ít những người có quan điểm khác biệt dường như đã đứng về phía bà ấy rồi. Bà mỉm cười với Edward, mặc dù ông đang nằm quay lưng lại về phía bà. Đó sẽ là một phiên tranh luận bận rộn và bà mong mỏi sẽ được tới Trại David86 và dành nhiều thời gian hơn với gia đình mình. Tốt hơn là mình nên dậy thôi, hơn một nửa nước Mỹ đã ra khỏi giường rồi, bà ấy nghĩ, còn mình thì vẫn còn đang nằm ườn tại đây. Tuy nhiên, một nửa đã thức giấc kia của nước Mỹ, tối hôm trước đã không phải mở tiệc tiếp đãi vị Vua nặng tới gần 150 ki-lô-gam của nước Tonga, cái người không chịu rời khỏi Nhà Trắng cho đến khi ông ta gần như bị tống ra ngoài. Tổng thống không thực sự chắc chắn bà ấy có chỉ ra được vị trí của Tonga trên bản đồ hay không. Nói chung thì biển Thái Bình Dương là một đại dương rộng lớn. Bà ấy đã để cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ông Abe Chayes, tiếp chuyện ông Vua đó. Ông ấy chắc chắn biết chính xác Tonga nằm ở đâu trên thế giới này.

86 Cơ sở Hỗ trợ Hải quân Thurmont (Naval Support Facility Thurmont), thường được biết đến với cái tên Trại David, là một trại quân sự trên núi ở Quận Frederick, tiểu bang Maryland. Trại được sử dụng làm một nơi nghỉ ngơi miền quê của Tổng thống Hoa Kỳ và những khách mời của mình.

Bà thôi không nghĩ về ông vua thừa cân đó nữa và đặt chân xuống sàn nhà – hoặc chính xác hơn là đặt chân vào đúng hình huy hiệu Tổng thống trên sàn. Cái hình vẽ khỉ gió đó, chỗ nào cũng có, trừ trên giấy vệ sinh. Bà biết rằng, khi bà ngồi vào bàn ăn sáng trong phòng ăn bên kia tiền sảnh, bà sẽ thấy ngay ấn bản thứ ba của Thời báo New York, ấn bản thứ ba của tờ Washington Post (Bưu chính Washington), ấn bản đầu tiên của Thời báo Los Angeles và tờ Boston Globe. Tất cả đều đã sẵn sàng cho bà đọc. Trong đó, những mẩu tin tức liên quan đến bà đã được đánh dấu bằng mực đỏ, cộng với một bản tài liệu liệt kê các tin tức của ngày hôm qua. Làm sao mà họ có thể hoàn thành tất cả các việc đó trước khi bà ấy mặc quần áo xong xuôi được nhỉ? Florentyna đi vào phòng tắm và bật vòi hoa sen. Áp lực nước vừa phải. Bà bắt đầu cân nhắc xem cuối cùng, bà ấy nên nói những gì để thuyết phục những người còn đang lưỡng lự trong Thượng viện tin tưởng rằng, Dự thảo luật Kiểm soát súng phải được lập thành luật. Dòng chảy suy nghĩ của bà bị cắt ngang khi bà cố gắng với tay chà xà bông ra sau lưng. Các Tổng thống vẫn phải tự xoay xở để làm được việc đó thôi mà, bà nghĩ.

Còn hai mươi phút nữa là đến giờ Mark phải báo cáo cho Giám đốc. Anh kiểm tra thư từ nhận được – chỉ có một phong bì gửi đến từ Công ty Tài chính Đa quốc gia American Express mà anh vẫn để trên kệ bếp, chưa bóc ra.

O’Malley đang ngáp lên ngáp xuống trong chiếc xe Ford mui kín màu xanh cách chỗ Mark khoảng một trăm mét. Anh ấy cảm thấy nhẹ nhõm cả người khi lại có thể báo cáo rằng: Mark đã rời tòa nhà căn hộ của anh ta và đang nói chuyện với anh chàng giữ xe da đen. Không ai trong số hai người bọn họ, O’Malley hay Thompson chịu thừa nhận với bất kỳ ai khác rằng họ đã mất dấu Mark trong vài giờ tối hôm trước.

Mark đi vòng theo mạn tòa nhà và biến mất khỏi tầm nhìn của hai đặc vụ ngồi trong chiếc xe Ford màu xanh da trời. Điều đó chẳng khiến họ lo lắng. O’Malley đã kiểm tra vị trí đậu của chiếc xe Mercedes cách đây một giờ - chỉ có một lối ra duy nhất.

Mark chú ý đến một chiếc xe Fiat màu đỏ khi anh đi gần tới góc của tòa nhà. Trông giống như là xe của Elizabeth vậy, anh nghĩ, ngoại trừ cái hãm xung bị hư hại thôi. Anh ấy liếc nhìn nó một lần nữa và rất ngạc nhiên khi thấy Elizabeth đang ngồi trong xe. Anh mở cửa xe. Nếu anh là Ragani thì cô ấy đã là nữ điệp viên hai mang Mata Hari87 rồi, giờ thì anh ấy lại quan tâm như trước. Anh ấy trèo vào ngồi bên cạnh cô ấy. Cả hai không ai nói lời nào cho đến họ đồng thanh nói cùng lúc và cười phá lên trong cảm giác bồn chồn. Cô cố mở lời lần nữa, còn Mark ngồi yên lặng.

87 Mata Hari là nghệ danh của Margaretha Geertruida (1876 – 1917) là một vũ nữ người Hà Lan, người làm điệp viên hai mang cho đế quốc Pháp và Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914- 1918). Mata Hari bị Pháp xử bắn về tội làm gián điệp năm 1917.

“Em đến để nói rằng em xin lỗi vì đã tỏ ra quá kích động tối qua. Lẽ ra, ít nhất em cũng nên cho anh một cơ hội được giải thích. Em thực sự không muốn anh ngủ với bất kỳ cô con gái của Thượng Nghị sĩ nào khác mà thôi,” cô ấy nói trong khi cố gắng nở một nụ cười gượng.

“Anh mới là người nên nói lời xin lỗi, Liz. Tin anh đi, như họ vẫn nói trong mấy bộ phim Hollywood. Cho dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, chúng ta nhất định phải gặp nhau tối nay và anh sẽ cố gắng giải thích mọi điều cho em hiểu. Đừng hỏi anh thêm gì trước lúc đó, chỉ cần hứa với anh rằng, cho dù có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa thì em cũng sẽ gặp anh tối nay. Nếu sau đó em không bao giờ muốn thấy mặt anh nữa, anh hứa anh sẽ ra đi trong yên lặng.”

Elizabeth gật đầu đồng ý. “Nhưng không phải là bỏ đi đột ngột như anh đã từng trước đây, em hi vọng thế.”

Mark vòng tay ôm và hôn cô ấy một nụ hôn nhanh. “Sẽ không còn vết rạn nứt cay đắng nào về đêm đó nữa. Anh đã phải gặm nhấm điều đó mỗi đêm bởi mong mỏi một cơ hội thứ hai rồi đấy.”

Họ cùng bật cười. Anh đứng dậy định ra ngoài xe. “Sao không để em đưa anh đi làm luôn, Mark?

Tiện đường em đi tới bệnh viện, và chúng ta sẽ không phải bận tâm tới cả hai chiếc xe tối nay.”

Mark lưỡng lự, ngập ngừng. “Sao lại không nhỉ?” Anh băn khoăn liệu đây có phải là lần hẹn hò lãng mạn cuối cùng hay không.

Khi cô ấy lái xe tới gần góc tòa chung cư, Simon vẫy tay chào họ. ”Xe của căn hộ tầng Bảy sẽ không trở về trước tầm muộn sáng nay đâu, Mark. Bây giờ thì tôi sẽ phải đỗ chiếc Mercedes bên đường, nhưng đừng lo, tôi sẽ để mắt đến nó.” Simon nhìn Elizabeth và nhăn nhở cười. “Rốt cuột, anh không cần tôi gọi cho chị tôi nữa nhỉ, anh bạn.”

Elizabeth lái xe ra khỏi bãi đỗ xe và hòa vào dòng giao thông trên đường Số 6. Cách đó khoảng gần 100 mét, O’Malley đang nhai kẹo cao su.

“Tối nay chúng ta ăn tối ở đâu đây?”

“Quay lại nhà hàng Pháp đó nhé và thử tận hưởng lại từ đầu một buổi tối như thế lần nữa. Lần này, chúng ta sẽ hoàn thành cảnh cuối của vở kịch.”

Mình hi vọng đó mới chỉ là bắt đầu, “Cô ấy là người La Mã cao quý nhất trong số tất cả bọn chúng. Cô ấy chỉ cứu một mình anh giữa vòng vây của những kẻ mưu sát đó...” Mark nghĩ.

“Lần này đến lượt em mời anh,” Elizabeth nói. Mark đồng ý và chợt nhớ đến cái tờ hóa đơn được gửi đến từ Công ty Tài chính Đa quốc gia American Express mà anh chưa mở ra xem. Đèn đỏ bật sáng ở góc đường G. Họ dừng lại và chờ đợi. Mark lại bắt đầu gãi chân, anh thực sự cảm thấy khá khó chịu và đau đớn.

Chiếc taxi vẫn chạy xung quanh Tòa nhà Quốc hội, nhưng ông Halt đang tóm tắt nốt những lời cuối cùng với H. Stuart Knight.

“Chúng tôi tin rằng bọn tội phạm sẽ tiến hành các nỗ lực ám sát khi Tổng thống ra khỏi xe của bà ấy để đi vào tòa nhà Quốc hội. Chúng tôi sẽ canh chừng chính Điện Capitol, nếu anh có thể tìm cách nào đó để đưa bà ấy vào bên trong tòa nhà mà không hề hấn gì. Tôi sẽ bố trí người của tôi bao quanh tòa nhà, mái và mọi điểm đặt súng hay kính ngắm trên cao có thể được bọn chúng chọn để sử dụng.”

“Công việc của chúng tôi sẽ thuận lợi hơn rất nhiều nếu như Tổng thống không khăng khăng rằng bà sẽ đi bộ lên từng bậc thềm của Điện Capitol. Kể từ khi Tổng thống Carter sải vài bước ngắn ngủi trên đại lộ Pennsylvania năm 1977…” Giọng của anh kéo dài ra trong sự bực bội. “Nhân tiện, Halt, sao ông không nói chuyện này với tôi sớm hơn?”

“Có rất nhiều tình tiết kỳ quặc trong vụ này, Stuart. Tôi vẫn chưa thể nói hết mọi chi tiết với anh, nhưng đừng lo lắng, chuyện này không liên quan đến nhiệm vụ và trách nhiệm bảo vệ Tổng thống.”

“Được rồi, tôi xin chịu. Nhưng ông chắc là người của tôi không giúp gì được cho phía ông chứ?”

“Không sao, tôi ổn, miễn là tôi biết chắc anh để mắt sát sao đến an nguy của Tổng thống. Khi đó tôi sẽ rảnh tay để đối phó với bọn chúng. Tôi phải bắt tận tay day tận trán lũ khốn đó. Không được phép để cho chúng nảy sinh chút nghi ngờ nào. Tôi muốn bắt tên giết người khi vũ khí vẫn còn nguyên trên tay hắn.”

“Tôi có cần nói với Tổng thống không?” Knight hỏi.

“Không, chỉ cần thông báo với bà ấy rằng anh đang áp dụng biện pháp bảo đảm an ninh mới, phù hợp với tình hình thực tế trong một vài thời điểm mà thôi.”

“Bà ấy từng nhiều lần ở trong tình huống như thế rồi, bà ấy chắc chắn sẽ tin tôi.” Knight nói.

“Hãy tuân thủ cùng một lộ trình và các mốc thời gian. Còn điều này cần chú ý hơn mà tôi muốn nhấn mạnh với anh: tôi không muốn rò rỉ bất cứ thông tin nào. Tôi sẽ gặp anh ngay sau tiệc trưa của Tổng thống. Chúng ta có thể cập nhật thông tin mới nhất cho nhau sau đó. Nhân tiện, mật mã cho nhiệm vụ bảo vệ Tổng thống hôm nay là gì?”

“Julius.”

“Trùng hợp quá, Chúa ơi, tôi không tin vào điều đó.”

“Ông sắp nói cho tôi toàn bộ câu chuyện chứ mà tôi cần được biết, phải không ông Halt?”

“Không đâu, tất nhiên, tôi sẽ không làm vậy, Stuart. Anh biết tôi mà, Machiavelli88 là anh trai tôi.”

88 Niccolò di Bernardo dei Machiavelli (3 tháng 5 năm 1469 - 21 tháng 6 năm 1527) là một nhà ngoại giao, nhà triết học chính trị, nhạc sĩ, nhà thơ, nhà soạn kịch. Ông là một trong những nhà sáng lập nền khoa học chính trị hiện đại, nhiều người cho rằng, Machiavelli là bậc thầy về thủ đoạn chính trị và sự vô đạo. Chính trị hiện ra trong tác phẩm của Machiavelli là nghệ thuật giành quyền lực, kiểm soát và thao túng người khác chứ không phải là lý thuyết về một nền chính trị lý tưởng.

Vị Giám đốc Cục vỗ vai Elliott và chiếc taxi lùi lại vị trí thứ bảy trong hàng xe chờ. Hai hành khách ra khỏi xe và đi bộ sang hai hướng đối diện nhau. Knight bắt tàu điện ngầm về Nhà Trắng, còn Giám đốc chọn một chiếc taxi về Cục FBI. Không ai quay đầu nhìn lại.

Stuart Knight thật may mắn, ông Giám đốc nghĩ, anh ta đã trải qua bảy ngày mà không biết những gì mà mình biết. Cuộc gặp mặt đã kết thúc. Giám đốc tự tin rằng ông sẽ tương kế tựu kế đấu lại bọn tội phạm. Ông vẫn kiên quyết chỉ ông ấy và Andrews là hai người được biết đầy đủ các tình tiết của sự việc - trừ khi bọn chúng có bằng chứng đủ thuyết phục để xóa án cho Thượng Nghị sĩ. Ông phải bắt sống những kẻ chủ mưu và buộc chúng phải khai ra Thượng Nghị sĩ. Vị Giám đốc so đồng hồ đeo tay với đồng hồ trên tháp tòa nhà Bưu điện cũ ngay trên nóc Văn phòng Khu vực Washington. Đã 7 giờ 58 phút. Hai phút nữa là đến giờ Andrews báo cáo. Ông được chào theo nghi thức khi ông bước vào cánh cửa xoay của Cục FBI. Bà McGregor đang đứng bên ngoài văn phòng của ông, trông có vẻ kích động và bối rối.

“Điện thoại gọi cho ông trên kênh Bốn. Vô cùng khẩn cấp.”

“Nối máy cho tôi.” Giám đốc nói. Ông đi nhanh vào trong văn phòng và nhấc điện thoại nối với kênh điện đàm theo tần số.

“Tôi, đặc vụ O’Malley gọi từ xe tuần tra, thưa sếp.”

“Tôi nghe, O’Malley?”

“Andrews đã bị sát hại, thưa Ngài, và còn có thêm một người khác trong xe nữa.”

Ông sững người, không nói nên lời.

“Ông ở đó chứ, Giám đốc?“ O’Malley chờ đợi. “Tôi xin hỏi lại, ông vẫn đang nghe ở đó chứ, Giám đốc?”

Cuối cùng, Giám đốc cũng lên tiếng: “Đến đây ngay lập tức.”

Ông đặt điện thoại xuống, hai bàn tay to lớn siết chặt chiếc bàn phong cách Nữ hoàng Anne, như thể nó là một cái cổ họng mà ông muốn bóp nghẹt. Các ngón tay ông co lại, cuộn chặt từ từ vào lòng bàn tay thành hai nắm đấm lớn. Móng tay của ông bấu vào da thịt. Máu rỉ chầm chậm xuống bề mặt bằng da của chiếc bàn làm việc, tạo thành một vết ố màu. Halt Tyson ngồi một mình trong vài phút. Rồi ông ra lệnh cho bà McGregor gọi đến Nhà Trắng để nói chuyện với Tổng thống. Ông ấy sẽ hủy bỏ toàn bộ sự kiện chết tiệt này. Ông đã đi quá xa. Ông ấy ngồi chờ đợi trong yên lặng. Những tên tội phạm khốn khiếp đó đã đánh bại ông. Đến lúc phải cho họ biết mọi chuyện rồi.

Phải mất mười phút, đặc vụ O’Malley mới đến được Cục FBI, tại đó, anh được dẫn thẳng tới văn phòng Giám đốc.

Chúa ơi, ông ấy trông như đã tám mươi tuổi rồi vậy, O’Malley nghĩ.

Giám đốc nhìn đăm đăm vào anh ấy, “Chuyện đó xảy ra như thế nào?” Ông hỏi một cách yếu ớt.

“Anh ta nổ tung cùng với chiếc xe hơi. Chúng tôi nghĩ còn có một người nữa cũng chết trong vụ nổ cùng với anh ta.”

“Bằng cách nào và như thế nào?”

“Chắc chắn bọn chúng đã gài bom vào bộ phận đánh lửa khởi động xe. Chiếc xe nổ tung ngay trước mặt chúng tôi, biến thành một đống hỗn độn kinh khủng.”

“Tôi đếch quan tấm đến cái đống hỗn độn chết tiệt đó,” Giám đốc bắt đầu nói trong khi để ý nhiều hơn đến cái cánh cửa đang từ từ mở ra.

Mark Andrews bước vào. “Chào buổi sáng, thưa sếp. Tôi hi vọng tôi không làm gián đoạn một việc gì đó. Tôi tưởng sếp nói 8 giờ 15 phút.”

Cả hai người đàn ông nhìn chằm chằm vào anh ta. “Cậu chết rồi cơ mà?”

“Xin lỗi, sếp vừa bảo sao ạ?”

“Chà, vậy gã quái nào,” đặc vụ O’Malley nói “đã lái chiếc Mercedes của anh?”

Mark nhìn chằm chằm vào anh ta, tỏ vẻ không hiểu.

“Xe của tôi ư?” anh hỏi lại ngay. “Anh đang định nói về chuyện gì?”

“Chiếc Mercedes của anh đã bị nổ tung thành từng mảnh nhỏ rồi. Tôi tận mắt chứng kiến. Đồng nghiệp của tôi đang ở đó để gom các mảnh vụn lại, và vừa báo là tìm thấy một bàn tay của một người da đen.”

Mark lảo đảo dựa vào tường. “Bọn khốn khiếp giết chết Simon rồi.” Mark hét lên giận dữ. “Không cần phải gọi cho Grant Nanna để nghiền chúng thành cám nữa. Tự tay tôi sẽ làm điều đó.”

“Cậu tự giải thích đi,” Giám đốc nói.

Mark lấy lại thăng bằng, anh quay mặt lại đối diện với cả hai người. “Sáng nay, tôi đi đến đây bằng xe của Elizabeth Dexter, cô ấy đã đến gặp tôi. Tôi đã đi với cô ấy,” anh nhắc lại một cách rời rạc. “Simon đã lái xe của tôi ra chỗ khác bởi vì nó đang chiếm chỗ để xe đã được đăng ký vào ban ngày, và giờ thì bọn khốn đó đã giết cậu ấy.”

“Ngồi xuống đi Andrews và cả anh nữa, O’Malley.”

Điện thoại reo. “Chánh văn phòng của Tổng thống xin gặp, thưa ông. Tổng thống sẽ nghe máy trong vòng hai phút nữa.”

“Hủy bỏ cuộc gọi giúp tôi và hãy xin thứ lỗi. Hãy giải thích cho cô Janet Brown rằng không có gì quan trọng cả, chỉ là tôi muốn gửi đến bà ấy một lời chúc may mắn trong ngày phê duyệt Dự thảo luật Kiểm soát súng hôm nay mà thôi.”

“Vâng, thưa ông.”

“Vậy thì bọn chúng sẽ nghĩ rằng cậu đã chết, Andrews. Và như vậy có nghĩa là chúng đã ra lá bài cuối cùng. Nếu đúng là như vậy, ắt hẳn chúng ta sẽ phải thu tay lại. Anh sẽ vẫn phải tiếp tục là người đã chết – ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn nữa.”

Mark và O’Malley nhìn nhau, cả hai đều thấy khó hiểu.

“O’Malley, anh quay lại xe của anh đi. Đừng nói gì, ngay cả với đồng sự của mình. Anh chưa từng thấy Andrews vẫn còn sống, hiểu ý tôi không?”

“Vâng, thưa sếp.”

“Đi ngay đi.”

“Bà McGregor, gọi và nối máy cho tôi gặp Trưởng phòng Đối ngoại.”

“Vâng, thưa ông.”

Giám đốc nhìn Mark. “Tôi chỉ vừa mới bắt đầu thương tiếc cậu thôi đấy.”

“Cảm ơn sếp.”

“Đừng cảm ơn tôi, tôi chỉ là sắp muốn giết cậu lần nữa thôi.”

Có tiếng gõ cửa. Bill Gunn bước vào phòng. Anh ta là một hình mẫu điển hình của những người làm công tác quan hệ công chúng: trang phục đẹp hơn bất cứ ai trong tòa nhà này, một nụ cười vô cùng rạng rỡ, một mái tóc đẹp mà anh ấy cứ hai ngày lại gội một lần.

Khi bước vào phòng, khuôn mặt anh ấy tỏ ra buồn thảm khác hẳn với ngày thường.

“Sếp đã nghe tin về cái chết của một đặc vụ FBI trẻ tuổi chưa, thưa sếp?”

“Tôi có nghe rồi, Bill. Ngay lập tức đưa ra một thông báo rằng, một đặc vụ FBI chưa rõ tên tuổi đã bị sát hại sáng nay và anh sẽ đưa thông tin cụ thể cho báo chí vào lúc 11 giờ trưa nay.”

“Báo chí sẽ săn lùng tôi suốt từ giờ đến lúc đó, thưa Sếp.”

“Cứ để họ săn lùng anh,” Giám đốc một cách gãy gọn.

“Vâng, thưa sếp.”

“Vào lúc 11 giờ, anh sẽ đưa ra một thông báo khác rằng, đặc vụ đó vẫn còn sống…”

Nét mặt của Bill Gunn lộ rõ vẻ ngạc nhiên.

“Và rằng đã có một chút nhầm lẫn, người chết trong vụ nổ đó là một anh chàng trông xe trẻ tuổi, không liên quan gì tới FBI.”

“Nhưng, thưa sếp, còn về đặc vụ của chúng ta thì sao?”

“Chắc chắn là anh sẽ muốn gặp viên đặc vụ mà mọi người cho là đã chết đó. Bill Gunn – đây là đặc vụ Andrews. Giờ thì, không cần nói thêm lời nào nữa, Bill.

Anh ta sẽ tiếp tục là người đã chết trong ba giờ nữa, và nếu tôi phát hiện thông tin bị rò rỉ, anh có thể tìm ngay một công việc mới đi nhé.”

Bill Gunn có vẻ thực sự lo lắng vì anh ta tin chắc rằng Giám đốc sẽ làm đúng như những gì ông nói. “Vâng, thưa sếp.”

“Khi nào anh viết xong thông cáo báo chí, hãy gọi cho tôi và đọc cho tôi nghe toàn bộ đã.”

“Vâng, thưa sếp.”

Bill Gunn ra khỏi phòng, vẫn còn chưa hết ngạc nhiên. Anh ấy là một người lịch thiệp, cởi mở và chuyện này khiến anh cảm thấy khó hiểu bởi những nội tình còn ẩn giấu bên trong. Nhưng cũng như rất nhiều người khác, anh ta tin tưởng vào Giám đốc.

Ông Giám đốc bắt đầu nhận thức được có bao nhiều người đang làm việc dựa trên sự tin tưởng vào ông, và có những trách nhiệm nặng nề nào mà ông đang phải gánh vác trên vai. Ông lại nhìn Mark – anh chàng vẫn chưa hết bàng hoàng với sự thật rằng Simon đã thế mạng anh ta, người thứ hai thế mạng anh ta trong vòng tám ngày qua.

“Phải rồi Mark, chúng ta chỉ còn lại chưa đầy hai giờ đồng hồ, vậy nên việc than khóc tiếc thương người đã khuất để sau đi vậy. Cậu có thêm phát hiện nào mới cần bổ sung cho báo cáo hôm qua không?”

“Vâng, thưa sếp. Thật là tốt khi mình vẫn còn sống.”

“Nếu cậu sống qua được 11 giờ, anh bạn trẻ ạ, tôi tin là cậu sẽ còn sống lâu và khỏe mạnh đấy. Nhưng hiện tại chúng ta vẫn không biết chính xác kẻ chủ mưu là Dexter hay Harrison. Về phía tôi, anh cũng biết, tôi cho rằng đó là Dexter.” Giám đốc lại nhìn đồng hồ đeo tay nữa. Đã 8 giờ 29 phút – còn lại chín mươi bảy phút. “Có ý tưởng nào mới không, Andrews?”

“Chà, thưa sếp, Elizabeth Dexter chắc chắn không thể liên quan, cô ấy đã cứu mạng tôi bằng cách đưa tôi đến đây sáng nay. Nếu cô ấy muốn tôi chết thì chẳng phải là chuyện này hài hước lắm sao?”

“Tôi chấp nhận lập luận đó,” Giám đốc nói, “nhưng điều đó không chứng tỏ gì về cha cô ấy.”

“Chắc chắn là ông ta sẽ không thể giết người mà ông ấy biết rằng có thể sẽ cưới con gái ông ấy,” Mark nói.

“Cậu quá đa cảm rồi, Andrews ạ. Một kẻ lập mưu ám sát Tổng thống không quan tâm đến bạn trai của con gái mình đâu.”

Điện thoại reo. Là Bill Gunn gọi đến từ Phòng Quan hệ công chúng.

“Được rồi, anh đọc đi, từ đầu tới cuối.” Giám đốc lắng nghe một cách thận trọng. “Tốt, gửi ngay lập tức tới các đài phát thanh, đài truyền hình và các tòa soạn báo. Và phát hành thông cáo báo chí thứ hai vào đúng 11 giờ. Không sớm hơn. Cảm ơn anh, Bill.” Ông Giám đốc đặt điện thoại xuống.

“Chúc mừng Mark, cậu là người chết duy nhất còn sống, và giống như Mark Twain89, cậu có thể đọc lời cáo phó dành cho chính mình. Giờ để tôi cập nhật nhanh tình hình mới nhé. Tôi có khoảng ba trăm đặc vụ hiện trường, họ đã sẵn sàng nhận lệnh để bao vây tòa nhà Quốc hội và các khu vực tiếp giáp trực tiếp với tòa nhà. Toàn bộ khu vực đó sẽ bị siết chặt ngay khi xe của Tổng thống đến…”

89 Một nhà văn Mỹ nổi tiếng.

“Ông vẫn để cho bà ấy tới tòa nhà Quốc hội sao?” Mark ngạc nhiên hỏi.

“Nghe kỹ này Mark. Các đặc vụ sẽ báo cáo cho tôi ngắn gọn từng phút một về vị trí của hai Thượng Nghị sĩ, bắt đầu từ 9 giờ trở đi, và theo sau mỗi người bọn họ là sáu đặc vụ. Đến 9 giờ 15 phút, chúng ta sẽ tự mình đi tuần tra. Khi chuyện đó xảy ra, chúng ta sẽ có mặt ở đó. Nếu tôi là người chịu trách nhiệm cao nhất, tôi có lẽ sẽ đích thân thực hiện nhiệm vụ của mình.”

“Vâng, thưa sếp.”

Điện thoại nội bộ rung.

“Anh Sommerton xin gặp khẩn cấp, thưa ông.”

Giám đốc nhìn vào đồng hồ: 8 giờ 45 phút. Chính xác từng phút, như đã hứa.

Daniel Sommerton vội vã bước vào phòng, trông anh ta khá là hài lòng với kết quả công việc của mình. Anh ta trình bày thẳng vào vấn đề. “Một trong những dấu vân tay có lưu trong hồ sơ hình sự của chúng ta, đó là một ngón tay cái, tên anh ta là Matson – Ralph Matson.”

Sommerton đã dựng một bức ảnh về Matson, một bức chân dung đặc tả và một dấu vân tay ngón cái phóng đại.

“Và sau đây là phần thông tin mà sếp sẽ không thích nghe đâu, thưa sếp. Anh ta từng là một đặc vụ FBI.” Anh ấy đưa thẻ đặc vụ đã hết hạn của Matson cho Giám đốc xem. Mark nhìn vào bức hình. Đó chính là tên linh mục dòng Chính thống Hy Lạp với cái mũi to và cằm mọng thịt.

“Hắn có vẻ gì đó rất chuyên nghiệp,” cả Mark và Giám đốc đều đồng thanh nói.

“Làm tốt lắm, Sommerton, sao bức ảnh thành ba trăm bản ngay lập tức và đưa cho Trợ lý Giám đốc Cục phụ trách Ban điều tra – đây là lệnh khẩn cấp.”

“Vâng, thưa sếp.” Chuyên gia phân tích dấu vân tay nhanh chân bước ra khỏi phòng, hài lòng với chính mình. Cái họ cần là dấu vân tay ngón cái đó.

“Bà McGregor, gọi Rogers cho tôi.”

Trợ lý Giám đốc Cục đã bắt máy, Giám đốc nói tóm tắt cho anh ta tình tiết mới.

“Tôi có nên bắt giữ hắn ta tại trận, ngay khi nhìn thấy không?”

“Không, Matt. Một khi anh thấy hắn, hãy theo dõi hắn ta và đừng để hắn ta phát hiện ra người của anh. Hắn ta vẫn có thể gọi điện để thông báo hủy kế hoạch nếu như hắn cảm thấy nghi ngờ. Luôn cập nhật thông tin cho tôi nhé. Áp sát và bắt hắn lúc 10 giờ 06 phút. Tôi sẽ cho anh biết thêm nếu có gì thay đổi.”

“Vâng, thưa sếp. Sếp đã thông báo sơ bộ tình hình cho Sở Mật vụ chưa vậy?”

“Tôi đã thông báo rồi.” Ông ấy dập máy điện thoại xuống.

Giám đốc nhìn đồng hồ. Đã 9 giờ 05 phút. Ông nhấn nút và Elliot bước vào. “Hai Thượng Nghị sĩ kia đang ở đâu?”

“Harrison vẫn ở trong ngôi nhà tại thị trấn Alexandria của mình, Dexter đã rời Kensington và đang tiến về phía tòa nhà Quốc hội, thưa Ngài.”

“Anh ở lại đây trong văn phòng này, Elliott, hãy giữ liên lạc qua radio với tôi và Trợ lý Giám đốc khi chúng tôi đang trên đường phố. Đừng bao giờ rời khỏi căn phòng này. Anh hiểu những gì tôi nói chứ?”

“Vâng, thưa sếp.”

“Tôi sẽ sử dụng bộ đàm của mình trên Kênh Bốn. Đi thôi, Andrews.” Họ để anh chàng đặc vụ không rõ tên tuổi kia ở lại phòng Giám đốc.

“Nếu có ai gọi cho tôi, bà McGregor, hãy nối máy cho họ gặp Đặc vụ Elliott trong văn phòng tôi. Anh ấy sẽ biết cách liên lạc với tôi.”

“Vâng, thưa ông.”

Một lát sau, Giám đốc và Mark đã ở trên đường phố, đi bộ trên Đại lộ Pennsylvania hướng về phía tòa nhà Quốc hội. Mark đeo kính đen và kéo cổ áo dựng lên. Họ đã đi qua một vài đặc vụ trên đường. Không ai trong số họ nhận ra Giám đốc. Ở một góc của Đại lộ Pennsylvania và đường Số 9, họ đã đi qua chỗ tay Chủ tọa, hắn đang châm thuốc và xem giờ trên đồng hồ đeo tay: 9 giờ 30 phút. Hắn ta di chuyển đến mép vỉa hè, bỏ lại một đống tàn thuốc phía sau. Giám đốc liếc nhìn tàn thuốc. Tội xả rác, phải bị phạt một trăm đô-la. Họ vội vã đi qua.

“Trả lời đi, Tony. Trả lời đi, Tony.”

“Tony đây, thưa ông chủ. Con Buick đã sẵn sàng. Tôi vừa nghe thông báo từ đài phát thanh trên xe hơi, rằng chàng trai trẻ điển trai Andrews đã xong đời rồi.”

Tay Chủ tọa cười mỉm.

“Trả lời đi, Xan.”

“Sẵn sàng, chờ tín hiệu của anh nữa thôi.”

“Trả lời đi, Matson.”

“Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn, ông chủ. Thế quái nào mà lại có quá nhiều đặc vụ vây quanh chỗ này thế nhỉ?”

“Đừng lo sợ, luôn có rất nhiều đặc vụ của Sở Mật vụ xung quanh khi Tổng thống ra khỏi Nhà Trắng. Đừng gọi lại ,trừ khi có vấn đề thực sự. Cả ba người chú ý nhận tín hiệu trên đường dây. Lần sau khi tôi gọi, tôi chỉ kích hoạt bộ rung bên sườn đồng hồ đeo tay của các anh thôi đấy. Sau đó, các anh chỉ còn ba phút bốn mươi lăm giây, bởi vì lúc đó là Kane sắp vượt qua chỗ tôi rồi. Hiểu cả chưa?”

“Đã hiểu.”

“Đã hiểu.”

“Đã hiểu.”

Tay Chủ tọa ngắt liên lạc và châm một điếu thuốc khác. 9 giờ 40 phút.

Giám đốc phát hiện ra Matthew Rogers đang ngồi trong một chiếc xe tuần tra đặc biệt và ông nhanh chóng rảo chân đến chỗ anh ta. “Mọi thứ trong tầm kiểm soát chứ, Matt?”

“Vâng, thưa Sếp. Nếu bất cứ kẻ nào manh động, chúng sẽ không thể chạy thoát trong vòng nửa dặm.”

“Tốt. Đồng hồ của anh chỉ mấy giờ rồi?”

“9 giờ 45 phút.”

“Được rồi, từ bây giờ, anh kiểm soát chỗ này. Tôi sẽ đi tới Điện Capitol.”

Halt và Mark rời khỏi chỗ Trợ lý Giám đốc và bước đi tiếp.

“Elliott đang gọi thưa Giám đốc.”

“Anh nói đi, Elliott.”

“Họ đã phát hiện ra Matson tại ngã ba giao giữa Đại lộ Maryland và đường Số 1, phía bên kia bức tượng Garfield, góc phía Tây Nam của khuôn viên tòa nhà Quốc hội, gần khu vực cải tạo mặt tiền phía Tây tòa nhà.”

“Tốt. Tiếp tục quan sát và cử ngay năm mươi đặc vụ bao vây xung quanh khu vực đó, đừng tiếp cận hay bắt giữ hắn ta. Thông báo ngắn gọn cho Rogers và nhắc anh ta đảm bảo không để Matson phát hiện ra người của mình.”

“Vâng, thưa sếp.”

“Hắn ta làm cái quái quỷ gì ở phía bên đó tòa nhà Quốc hội nhỉ?” Mark nói nhỏ. “Chẳng ai có thể bắn hạ một người trên thềm Tòa nhà Quốc hội từ mặt phía Tây Bắc, trừ khi hắn ở trên một cái máy bay trực thăng.”

“Tôi nhất trí với cậu. Tôi không nghĩ ra được là tại sao hắn lại ở đó,” Giám đốc nói.

Họ đã đến được vòng vây bảo vệ của cảnh sát xung quanh tòa nhà Quốc hội. Giám đốc trình ra phù hiệu cho họ xem để đưa cả Andrews đi qua vòng vây bảo vệ. Viên cảnh sát trẻ thuộc lực lượng bảo vệ Điện Capitol kiểm tra phù hiệu tận hai lần; anh ta không thể tin nổi. Đứng ngay trước mặt anh ta là một con người sống thực sự. Vâng, đó chính là ông ấy - Giám đốc Cục FBI. H. A. L. Tyson.

“Xin lỗi Ngài. Xin mời đi qua.”

“Elliot xin gặp Giám đốc.”

“Tôi đây, Ellliot.”

“Giám đốc Sở Mật vụ muốn gặp sếp, thưa sếp.”

“Stuart, tôi đây.”

“Xe dẫn đường đang rời khỏi cổng trước của Nhà Trắng, Julius sẽ khởi hành trong vòng năm phút nữa.”

“Cảm ơn anh, Stuart. Cứ tiếp tục phấn chấn như vậy và làm tôi ngạc nhiên đi.”

“Yên tâm đi, Halt, chúng tôi sẽ thực hiện đúng như vậy.”

Năm phút sau, xe của Tổng thống rời khỏi Cổng phía Nam và rẽ trái sáng đường E. Xe dẫn đường vượt qua chỗ tay Chủ tọa ở góc đại lộ Pennsylvania và đường Số 9. Hắn ta cười mỉm, châm một điếu thuốc khác và chờ đợi. Năm phút nữa trôi qua, một chiếc xe Lincoln lớn có in huy hiệu Tổng thống trên cửa xe, cắm cờ bay phất phới trước hai tấm chắn phía trước, vượt qua chỗ tay Chủ tọa. Nhìn qua cửa sổ xám đục, anh ta có thấy ba người ngồi trên ghế sau. Một chiếc xe limousine vốn được biết là “xe ngụy trang nhử đạn” chở theo các nhân viên Mật vụ và bác sĩ riêng của Tổng thống đi theo xe của chính Tổng thống. Tay Chủ tọa nhấn một nút trên đồng hồ đeo tay của hắn. Các xung lực rung khiến hắn có cảm giác nhột nơi cổ tay. Sau mười giây, hắn tắt chế độ báo rung đi, rồi đi bộ sang một tòa nhà ở phía Bắc và vẫy một chiếc taxi.

“Cho tôi đến Sân bay Quốc gia,” hắn nói với tài xế taxi, tay lần tìm chiếc vé máy bay trong túi áo mình.

Điểm rung trên đồng hồ của Matson cọ vào da hắn. Sau mười giây, đồng hồ dừng không rung nữa. Matson đi đến bên cạnh công trường, cúi xuống, rồi buộc dây giày.

Xan bắt đầu gỡ băng dính. Hắn lấy làm vui khi được cử động. Hắn đã phải gập người suốt cả đêm. Việc đầu tiên hắn làm là xoáy nòng súng vào và lắp ống ngắm.

“Trợ lý Giám đốc gọi cho Giám đốc. Matson đang tiếp cận công trường xây dựng. Giờ anh ta dừng lại và buộc dây giày. Không có ai trong công trường cả, nhưng tôi đang yêu cầu một chiếc trực thăng kiểm tra khu vực đó. Có một chiếc cần cẩu khổng lồ ngay giữa công trường, trông vô cùng đơn độc như bị bỏ hoang.”

“Tốt, cứ để yên cho đến phút chót. Tôi sẽ báo hiệu cho anh thời điểm chiếc xe của Tổng thống vừa đến. Anh phải bắt tận tay chúng. Báo động cảnh giác cao độ cho các đặc vụ trên mái tòa nhà Quốc hội.”

Giám đốc quay sang Mark, có vẻ nhẹ nhõm hơn. “Tôi nghĩ mọi việc sẽ ổn cả thôi.”

Mark đang dán mắt lên các bậc thềm của tòa nhà Quốc hội. “Sếp có chú ý không, thưa sếp, về việc cả Thượng Nghị sĩ Dexter và Thượng Nghị sĩ Harrison đều tham gia bữa tiệc chào đón Tổng thống?”

“Có chứ,” Giám đốc nói. “Xe Tổng thống sẽ đến trong vòng hai phút nữa. Chúng ta vẫn sẽ bắt những kẻ khác cho dù chưa tìm ra Thượng Nghị sĩ đó là ai. Chúng ta sẽ bắt bọn chúng phải khai trong quá trình điều tra. Chờ chút, có điều này kỳ cục thật.”

Ngón tay của Giám đốc dò theo tên của hai Thượng Nghị sĩ kia trên tờ giấy đánh máy cẩn thận mà ông cầm trên tay.

“Đúng, đó chính là những gì tôi nghĩ. Lịch trình chi tiết của Tổng thống cho thấy Dexter sẽ ở đó khi bà ấy phát biểu trước Quốc hội, nhưng không tham dự bữa tiệc trưa với Tổng thống. Vô cùng kỳ lạ. Tôi chắc chắn là những người đứng đầu chủ chốt của các nhóm phản đối cũng được mời tới bữa tiệc trưa cơ mà. Tại sao Dexter lại không tham dự vậy?”

“Không có gì lạ, thưa sếp. Ông ấy luôn luôn ăn trưa với con gái ông ấy vào mỗi thứ Năm. Trời ơi, đúng rồi! ‘Tôi luôn luôn ăn trưa với cha tôi vào thứ Năm’.’’

“Ừ, Mark, tôi mới nghe cậu nói thế lần đầu.”

“Không, thưa sếp, ‘Tôi luôn luôn ăn trưa với cha tôi vào thứ Năm’.’’

“Mark, xe Tổng thống sẽ đến trong vòng một phút nữa.”

“Kẻ đó là Harrison, thưa sếp. Tôi đúng là một thằng ngu – thứ Năm ngày 24 tháng Hai, tại Georgetown. Tôi cứ luôn nghĩ về ngày hôm đó chỉ là ngày 24 tháng Hai, mà không nghĩ đến nó là một ngày thứ Năm. Ông Dexter đã ăn trưa với Elizabeth. ‘Tôi luôn luôn ăn trưa với cha tôi vào thứ Năm.’ Đó chính là lí do tại sao người ta nhìn thấy ông ấy tại Georgetown hôm đó, chắn chắc là như vậy rồi. Cha con họ chưa bao giờ bỏ lỡ các bữa trưa thứ Năm.”

“Cậu chắc chứ? Cậu có thể đảm bảo không? Sẽ có cả đống việc quỷ quái phải làm tiếp theo điều đó đấy.”

“Đó chính là Harrison, thưa sếp. Không thể là Dexter được. Tôi nên nhận ra điều này ngay từ ngày đầu tiên mới phải. Lạy Chúa. Tôi thật đúng là đồ đần độn.”

“Được rồi, Mark. Nhanh chóng triển khai các bước tiếp theo đi, dõi theo từng cử động của Harrison và sẵn sàng bắt giữ ông ta bất kể chuyện gì xảy ra sau đó.”

“Vâng, thưa sếp.”

“Rogers.”

Trợ lý Giám đốc lên tiếng. “Vâng, thưa sếp.”

“Xe đang tiến vào, bắt giữ Matson ngay lập tức và kiểm tra ngay mái của tòa nhà Quốc hội.” Giám đốc nhìn đăm đăm lên bầu trời. “Ôi, trời đất ơi, đó không phải là một chiếc máy bay trực thăng, mà chính là cái cần cẩu chết tiệt. Chỉ có thể là cái cần cẩu đó thôi.”

Xan ghì chặt báng chiếc súng trường sơn màu vàng vào vai và dõi theo chiếc xe của Tổng thống. Hắn đã kẹp một chiếc lông vũ vào ren cuối của nòng súng – một thủ thuật mà hắn học được khi huấn luyện cho đội tuyển Olympic – không có gió. Những giờ chờ đợi dài đằng đẵng sắp chấm dứt. Thượng Nghị sĩ Harrison đang đứng đó, ngay trên bậc thềm của tòa nhà Quốc hội. Nhìn qua ống ngắm Redfied có khả năng phóng đại tới ba mươi lần, hắn ta thậm chí còn thấy được cả những giọt mồ hôi lấm tấm nổi lên trên trán của Thượng Nghị sĩ.

Xe của Tổng thống dừng lại ở mặt phía Bắc của tòa nhà Quốc hội. Tất cả đúng như kế hoạch. Xan điều chỉnh tầm ngắm của kính viễn vọng nhắm vào cửa xe và chờ đợi bà Kane bước ra. Hai đặc vụ ra khỏi xe, lướt mắt kiểm tra đám đông và chờ người thứ ba bước ra. Vẫn không thấy ai bước ra. Xan đặt lại tầm ngắm vào Thượng Nghị sĩ, ông ta trông có vẻ hoang mang và lo lắng. Lại ngắm vào chiếc xe lần nữa, vẫn không thấy Kane đâu. Mụ Kane chết tiệt đâu rồi, chuyện gì đang diễn ra? Hắn nhìn chiếc lông vũ, vẫn không có gió. Hắn chỉnh tầm ngắm lại lần nữa vào chiếc xe của Tổng thống. Chúa toàn năng, chiếc cần cẩu đang di chuyển còn mụ Kane thì không có trong xe. Matson đã nói đúng tất cả. Họ biết mọi chuyện. Xan biết chính xác hắn phải làm gì trong trường hợp này. Chỉ có một người có thể lật bài và đào mồ chôn họ thôi nên hắn không việc gì phải do dự. Xan di chuyển tầm ngắm hướng lên bậc thềm Điện Capitol. Vầng trán dài 7,5 xăng-ti-mét phía trước. Một tíc tắc dừng lại trước khi hắn xiết cò. Một phát… Hai phát... Nhưng lần thứ hai, hắn không ngắm chuẩn được, bởi vì chỉ chưa đến một giây sau phát thứ nhất, hắn không còn có thể nhìn thấy các bậc thềm của tòa nhà Quốc hội nữa. Hắn nhìn xuống từ chiếc cần cẩu đang di chuyển. Hắn đang ở giữa vòng vây của năm mươi đặc vụ áo đen, năm mươi khẩu súng đang chĩa thẳng vào hắn.

Mark đứng cách Thượng Nghị sĩ Harrison chỉ khoảng một mét khi anh thấy ông ta bất chợt hét lên và ngã gục. Mark nhảy ra phía đầu của Thượng Nghị sĩ và viên đạn thứ hai sượt qua vai anh ấy. Đám đông các Thượng Nghị sĩ và nhân viên Chính phủ đang đứng trên bậc thềm cao nhất của tòa nhà Quốc hội bắt đầu hoảng loạn. Tiệc chào mừng phía bên trong nhốn nháo. Ba mươi đặc vụ FBI áp sát, tiếp cận hiện trường ngay lập tức. Giám đốc là người duy nhất vẫn đang đứng trên bậc thềm Điện Capitol, vững vàng, kiên định, nhìn đăm đăm vào chiếc cần cẩu. Họ gọi ông ấy bằng biệt danh Halt90 quả không sai.

90 Halt trong tiếng Anh có nghĩa là sự tạm dừng, sự kết thúc hoặc ra lệnh tạm dừng, kết thúc.

“Tôi có thể hỏi anh là chúng ta đang đi đâu không, Stuart?”

“Đương nhiên rồi, thưa Tổng thống, chúng ta đang trên đường tới tòa nhà Quốc hội.”

“Nhưng đây không phải là tuyến đường chúng ta vẫn thường đi tới tòa nhà Quốc hội.”

“Đúng vậy, thưa bà. Chúng ta đang đi xuống Đại lộ Hiến Pháp để đến tòa nhà Russell. Chúng tôi nghe tin rằng có chút rắc rối xảy ra tại tòa nhà Quốc hội. Một dạng hoạt động biểu tình. Có lẽ là do Hiệp hội Súng trường Quốc gia giật dây.”

“Chẳng nhẽ vì vậy mà tôi tránh né hay sao? Như một người hèn nhát, Stuart?”

“Không, thưa Bà. Tôi sẽ đưa bà đi tắt qua lối tầng hầm. Đó chỉ là một biện pháp đảm bảo an toàn và thuận tiện cho chính bà thôi.”

“Thế chẳng khác nào tôi sẽ phải đi đến đó bằng đường hầm ngầm. Ngay khi tôi còn là một Thượng Nghị sĩ, tôi cũng thích đi bộ bên ngoài hơn.”

“Chúng tôi đã khai thông đường cho bà rồi, thưa bà. Bà sẽ đến đó kịp giờ.”

Tổng thống lầm bầm nói nhỏ điều gì đó với chính mình khi nhìn thấy dòng xe cứu thương chạy theo hướng ngược lại.

Thượng Nghị sĩ Harrison đã chết trước khi được đưa tới bệnh viện, còn Mark đã được một bác sĩ riêng của Tổng thống băng vết thương tại chỗ. Mark nhìn đồng hồ đeo tay và bật cười. Đã 11 giờ 04 phút – anh sẽ tiếp tục được sống.

“Điện thoại của anh, Andrews. Giám đốc FBI gọi tới.”

“Vâng, thưa sếp.”

“Mark, tôi nghe nói cậu ổn rồi. Tốt, tôi rất tiếc phải thông báo là Thượng viện đã hoãn họp để tỏ lòng thành kính đối với Thượng Nghị sĩ Harrison. Tổng thống bị sốc, nhưng bà ấy lại cảm thấy đây chính xác là thời điểm cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát súng, vì thế bây giờ tất cả chúng tôi đều được đi ăn trưa sớm. Xin lỗi vì cậu không được tham gia cùng. Và chúng tôi đã bắt được ba người trong số bọn chúng – Matson, một tay thiện xạ người Việt Nam và một kẻ lừa đảo vặt vãnh tên là Tony Loraido. Có thể vẫn còn kẻ khác trong số bọn chúng mà chúng ta chưa tóm được. Tôi sẽ cho cậu biết sau. Cảm ơn cậu nhé, Mark.”

Điện thoại tắt trước khi Mark có thể đưa ra bất cứ ý kiến nào.